Chương 10
Tác giả: Võ Quảng
Đằng nhà chị Bốn Linh mãi suốt ngày hôm sau việc dọn dẹp vẫn chưa xong. Giường ghế phải đưa vào, nồi lửa phải chồng lên, đòn nẹp phải bó lại, nong nia phải giặt đập. Suốt buổi sáng, tiếng chổi tre cứ roặc roặc, tiếng cọ xát cứ lạc xạc. Thằng Cù Lao dọn dẹp luôn tay, giống như một trai nuôi tằm loại giỏi. Ăn cơm tối xong, chị Bốn còn phải hạ giỏ bắt số kén đuôi. Chung quanh xóm đã tắt đèn. Tôi và thằng Cù Lao nằm trên phản thiu thiu ngủ. Chợt có tiếng chân bước. Anh Bốn Linh về.
Vừa bước vào nhà, anh Bốn vội thanh minh:
- Chà, việc của tôi cứ búi xòm xòm!
Chị Bốn hỏi:
- Việc chi mà búi dữ rứa?
- Cũng là việc quốc gia chi sự.
Chị Bốn bước nhanh vào bếp:
- Ở nhà cúng buồng, đợi anh Bốn đó. Xôi để phần đây.
Tiếng anh Bốn vui lên:
- Chớ tằm tơ ra sao? May quá! Tằm lớn không bị lụt. Mùa này ông trời ác lắm, tôi cứ lo lo.
Chị Bốn khoe:
- Này anh Bốn! Trừ các khoản chi phí, lứa tằm này mình hốt được...
Tiếng chị Bốn nhỏ lại. Tiếng anh Bốn to lên:
- Khá quá hè!
Tiếng chị Bốn thiết tha:
- Tôi mua một súc thao, định may mỗi đứa một cái áo. Anh thích bận quần thao, may luôn cái quần cho đủ bộ. Tôi còn mua con lợn để nuôi.
Tôi mở mắt nhìn. Anh Bốn ngồi nhai xôi như không nghe những gì chị Bốn nói. Đáng lí ra, anh phải vồ vập. Sau bao nhiêu thành tích đem lại cho gia đình, anh Bốn phải khen vợ vài câu. Đằng này anh cứ ấm ứ cho qua chuyện.
Chị Bốn nghi anh Bốn vừa thua vật:
- Từ rày chớ có đi đánh đá nữa. Có ngày mất mạng đó!
Anh Bốn như vừa chợt tỉnh:
- Cái gì?
- Vật thua chớ gì?
- Bậy nà!
Anh Bốn xén một cục xôi bỏ vào mồm, quay đầu đũa vạch vạch mấy cái xuống bàn như đang trù tính một việc gì phức tạp.
Có tiếng anh Bốn hỏi chị Bốn:
- Mình về bên nhà, có thấy Phó Xáng ở trên đó không?
Tôi biết chị Bốn đi hái dâu có hôm tranh thủ ghé về thăm cha mẹ ở xã bên. Chị Bốn vốn người trên đó.
Tiếng chị Bốn rành mạch:
- Gặp luôn. Nhà họ ở sát bên nhà mình. Họ hiền lành lắm, tốt lắm!
- Cha mẹ hiền lành, nhưng đẻ con ra là đồ tinh, đồ yêu đó. Tôi nói việc bí mật cho mình biết. Thằng phán Ninh con Phó Xáng là thằng mật thám. Nè, phải kín mồm kín miệng đó!
- Uý! Nó giác ngộ lắm! Hôm cướp chính quyền nó diễn thuyết. Nó nói thời cơ đã đến, một ngày mới đã lên, không còn bị xâm lược chặt đầu lột da, không còn bọn vua quan xẻ thịt...
- Nó làm vậy để che mắt thiên hạ. Ở trên vừa cho biết nó là mật thám.
- Thế nó là lính ma tà hả?
- Trước đây nó ở Đà Nẵng làm việc chạy giấy chạy tờ cho toà thị chánh, nhưng lại bí mật làm chỉ điểm ma tà. Vừa rồi trinh sát của ta tóm được nhiều hồ sơ của mật thám bỏ lại, trong đó có nhiều báo cáo về cơ sở cách mạng của ta. Kẻ báo cáo ký tên là YA. Vậy YA là ai? Thì ra đó là phán Ninh. Anh Sáu có cho tôi xem những giấy tờ đó. Nói cho mà biết, phải có ý tứ khi về trên nhà! Phải giữ thật bí mật, nghe!
Anh Bốn chậm lại:
- Hiện nay Pháp đang đánh ta ở Nam Bộ. Bọn tay sai muốn rục rịch. Tìm không thấy nó ở Đà Nẵng. Hôm cướp chính quyền nó ở đây. Sau không thấy đâu cả. Nay đường sá ta đang kiểm soát, phán Ninh chưa dám đi xa. Cấp trên bảo phải theo dõi những nơi có họ hàng thân thích với nó. Ông Hoạt ở ngoài vạn là cậu nó đó. Phải theo rất sát.
Anh Bốn thì thầm đang hỏi chị Bốn chuyện gì đó. Tiếng chị Bốn to lên:
- Hai đứa ngủ lâu rồi, có la làng chúng cũng không biết được.
Tôi nằm nghe hết câu chuyện của anh Bốn Linh kể. Giọng nói của anh Bốn có gì khác khác cứ làm tôi muốn nghe. Anh Bốn càng nói nhỏ, tôi càng vểnh tai cố nghe cho được. Khi chị Bốn nói đến ma tà tôi càng chú ý. Tôi vốn sợ ma. Tôi tưởng tượng bọn ma tà mặt mày dữ tợn, hay ngồi rình ở chuồng heo, xó bếp. Nghe được câu chuyện của anh Bốn, tôi như chộp được một cái gì đáng sợ. Cái đó trong tôi cứ nhảy nhót. Tôi cố chịu đựng được hai ngày. Đến ngày thứ ba tôi chạy gọi thằng Cù Lao. Tôi hỏi nó:
- Mày biết chi chưa?
Thằng Cù Lao nói nó đã biết hết rồi. Nó sẽ được đi Trà Linh mua gỗ xây dựng trường mới. Đi bằng thuyền của dượng Hương Thư. Nó và dượng Hương Thư sẽ ghé Dùi Chiêng thăm con cháu ông Bá Hoành bắt hổ giỏi lắm. Nó sẽ được xem họ đánh nhau với hổ, được ăn thịt hổ nữa.
Tôi gạt phăng:
- Không phải chuyện đó.
Thằng Cù Lao ấp úng:
- Hay là chuyện... nhưng anh Bốn dặn chị Bốn phải kín miệng...
- Dặn khi mô?
- Hôm anh Bốn về. Anh nói chuyện với chị Bốn lâu lắm. Chuyện...
Tôi chịu không được nữa, hỏi thẳng:
- Chuyện phán Ninh làm mật thám phải không?
Thì ra thằng Cù Lao cũng thức, cũng vểnh tai nghe mọi việc anh Bốn kể. Nó thì thầm:
- Ông Hoạt người thế nào tui chưa biết.
- Ông Hoạt ở ngoài vạn, có búi tóc. Hôm ăn giỗ ở nhà anh Bốn, mày đã biết rồi. Theo anh Bốn, hiện nay phán Ninh đang lui tới ở nhà bà con thân thuộc. Phán Ninh vào ra chỗ nhà Phó Xáng hay chỗ ông Hoạt ở ngoài vạn.
Thằng Cù Lao gật gật.
Tôi khuyên nó:
- Như vậy phải tránh xa! Chớ có đi tắm gần chỗ vạn, có ma tà đó!*
* * Vạn Hoà Phước có khoảng mười chiếc thuyền buồm. Thuyền nào ở đằng mũi cũng có hai sừng giống đôi sừng trâu. Đằng mũi còn có thêm hai con mắt. Mỗi thuyền buồm thường kèm một vài xuồng con. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như những bé nằm quanh bụng mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ. Xuồng con húc húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú tí. Thuyền lớn khi nằm ở bến trông nặng nề uể oải, khi rời bến bỗng hoá nhẹ tênh, cánh buồm giương cao lướt trên sóng biếc bay đến chỗ chân trời trông sáng quắc như những thanh gươm nhọn. Thuyền ở vạn Hoà Phước cập bến và rời bến rất bất thường. Thuyền ông Mười Ý to nhất vạn, có ba buồm, ăn đường ở các bến sông rồi giương buồm ra đến Huế. Nó từng vượt sóng biển khơi. Đối với bọn trẻ trong làng, nó có uy tín rất lớn. Khi thấy nó về, chúng reo to:
- Ghe bầu ông Mười đã về!
Chỉ một lúc sau, tin tức được loan báo khắp làng. Ai cũng muốn chạy xem ông Mười đã đưa loại mắm gì về, mắm cá nục hay cá cơm, đựng bằng thùng hay bằng tĩn. Nếu có gạo tốt thì người không mua cũng bốc vài hột về cho bà con trong xóm cùng xem. Thuyền của dượng Hương Thư tuy nhỏ nhưng rất chắc, nhiều lần vượt thác. Thuyền của dượng mỗi năm chỉ nằm ở vạn Hoà Phước vài ba tháng. Trước đây, dượng về ngụ cư ở vạn Hoà Phước. Thuyền bà Phương chuyên nghề đưa khách xuôi phố Hội An, thường nhổ sào vào lúc xẩm tối. Thuyền ông Hoạt dáng bè bè, trông dày dạn, có lúc lên bán mắm trên nguồn.
Vạn Hoà Phước còn đón thuyền ở các nơi đến. Thuyền vùng biển ghé vạn mua lá keo về trồng khoai. Đêm xuống, họ đốt lửa nấu khoai sáng rực cả bờ sông. Hấp dẫn nhất là thuyền bán đồ “Nha Trang”. Thuyền thường đến trước Tết, chở đầy những mâm hoa quả, những nải chuối vàng hườm, những quả cam rực rỡ, nhưng toàn bằng đất sét. Trẻ con Hoà Phước không hiểu những thứ đó làm ở xứ nào. Chỉ biết người ta gọi đó là đồ Nha Trang. Ngoài hoa quả, còn có những con cò trắng bạch đứng bên lá sen, những con nhái ngồi xổm trên ống tre. Khi thuyền Nha Trang đến, bọn chúng tôi ù té chạy xem, không ngớt ca ngợi, vì những nải chuối thật, những con nhái thật cũng không đẹp hơn những đồ đó được.
Bỗng vạn Hoà Phước mất hết vẻ hấp dẫn khi trước. Nó hiện ra đầy bí mật vì có một tên ma tà bị tróc nã lẩn quất đâu đây.
Tôi và thằng Cù Lao vẫn ra bến tập bơi. Tôi muốn tránh xa chỗ vạn. Nhưng thằng Cù Lao từng được ông Bảy Hoá đề cao, bảo nó sẽ dẹp được giặc dưới nước. Nay giặc đang nằm ngay trong thuyền ông Hoạt, nó khó làm lơ. Nó phải bơi đến chỗ vạn để điều tra. Nó sẽ bơi quanh, giả vờ như không biết phán Ninh là ai cả. Sau đó nó sẽ báo cáo mọi việc với anh Bốn. Thằng Cù Lao nói nghe có lí, nếu làm được việc đó, anh Bốn sẽ thưởng chớ chẳng phải chơi. Thằng Cù Lao bơi vun vút phía trước. Tôi bơi theo sau, bơi đến những thuyền cắm tận ngoài xa. Chẳng thấy ông Hoạt đâu cả. Chúng tôi hết sợ, lên bờ mặc quần áo la cà đến bên những thợ mộc đang chữa thuyền. Một ông nổi quát đuổi đi vì có một đứa giống thằng Cù Lao đã cắp mất cái đục. Thật chán! Ta đi để làm một việc quan trọng như vậy, đến lúc quay về lại bi nghi oan là ăn cắp đục!*
* * Ông Bảy Hoá đến đâu cũng nêu cao tài bơi lội của thằng Cù Lao. Danh của nó bay xuống xóm chợ, lọt vào tai bọn trẻ con dưới đó. Lúc đầu chúng chưa tin. Sau khi thấy rõ chúng đều phục lăn phục lóc.
Đứa nào cũng muốn tập bơi. Thằng Cù Lao tập cho mấy đứa. Chúng trầm trồ:
- Tài quá! Tài quá!
- Thằng Cù Lao để tay vào chỗ bụng mình, là mình bơi giỏi mới lạ chớ!
Đội ngũ bơi lội càng đông. Một vài đứa đã vượt sông Thu Bồn. Những đứa trước đây chê thằng Cù Lao là ngốc, nó là một thứ mọi biển, nay càng mê nó. Để tỏ mối tình, bọn bơi lội mở tiệc chiêu đãi.
Thằng Thân ở xóm chợ mở gói lá chuối, chắp tay đặt trên rốn:
- Mời các vị cứ thiệt tình! Đây là món thịt quý đãi anh Cù Lao.
Thằng Cù Lao dòm dòm:
- Thịt chi vậy?
- Thịt chim công! Chim công lông đẹp, thịt ngon. Tôi giết vài con đãi bạn. Bốc một miếng ăn đi.
Tôi bốc một miếng lên xem. Đó là miếng dái mít, ăn vào sẽ xít cuống họng. Tôi bỏ dái mít vào mồm. Thật kì lạ! Dái mít bỗng hoá ngọt ngào chẳng khác gì xôi ngọt. Thằng Cù Lao khen:
- Ngon hơn chả!
- Ấy! Dái mít phải cắt ra thành miếng, gói lại đem ép dưới cối đá mới ngon như rứa!
Ăn “thịt chim công” xong, chúng tôi uống “rượu”.
Rượu là nước sông Thu Bồn. Uống xong đứa nào cũng gật gật, cũng bước xiêu vẹo, cũng nói: “Ta không say, ta không say” như mấy người say rượu chính cống.
Trong lúc “say rượu” có đứa nói thật là nó mong Pháp đổ bộ lên Đà Nằng kéo đến đóng ở sông Thu Bồn, nó có dịp bơi lặn tẩn cho bọn Pháp một trận để lập công!
Tôi cũng nói thật là nhờ tài bơi lội mà tôi và thằng Cù Lao đã lãnh một nhiệm vụ vô cùng quan trọng: Chú Năm Mùi đã giao cho chúng tôi “vượt thác xuống gành” một chuyến. Đó là dịp tốt để chúng tôi thi thố tài năng, và để lấy gỗ ở Dùi Chiêng về xây dựng... cuộc đời mới. Lên Dùi Chiêng thế nào cũng được đi săn hổ. Tất cả đều cho chú Năm Mùi rất sáng suốt. Sự thật tôi được đi Dùi Chiêng để lo việc... nấu cơm, vì tôi là loại “lỡ rơi xuống nước cũng không đến nỗi như cục đá”, như dượng Hương đã nhận xét.
Tôi và thằng Cù Lao phải đi Dùi Chiêng rất gấp. Phải dựng trường trại cho nhanh, vì bọn trẻ con đang lêu lổng, có đứa đã đi ăn cắp đục của các ông thợ mộc ngoài vạn.