watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Hoa xuyên tuyết-VII - Mở tầm mắt - tác giả Bùi Tín Bùi Tín

Bùi Tín

VII - Mở tầm mắt

Tác giả: Bùi Tín

Với mọi quan hệ giao tiếp và thông tin ngày càng mở rộng, trái đất như bé nhỏ lại-Các nước như gần lại với nhau hơn-Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau giữa người nước này với người nước khác không phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò mà là một yêu cầu thật sự của cuộc sống, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa và tình cảm, mang lại những lợi ích thiết thực và lâu dài.
Trong hoàn cảnh Việt nam đang sống một cuộc sống riêng biệt, cách ly với cuộc sống thế giới, tôi là người may mắn được đi đến một số nước để dự hội nghị, đi tham quan và làm công tác báo chí...Tôi cho đó là những dịp may hiếm có để mở rộng tầm mắt, bổ sung sự hiểu biết của mình...
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi đã được tớí thăm gần hết-Từ Trung quốc, Liên xô đến Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, Hung ga ri, Bun ga ri...rồi Triều tiên tôi đều đã đi qua. Lào và Căm pu chia thì còn ở lại những thời kỳ khá lâu-Sau năm 1975, tôi có nhiều dịp đi ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Xanhgapo, Philipine. ở châu Phi tôi đã dự họp ở An giê, ghé qua Xê nê gan, Ai cập (thăm Kim tự tháp kỳ vĩ), và làm việc ở Etiopi và Zimbabue-ở châu Mỹ tôi đã từng làm việc ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York gần ba tuần, họp bàn tròn với những đại biểu các nước nói tiếng Pháp.
Phần lớn các chuyến đi là để làm công tác báo chí. Một số chuyến đi Indonexia, và Malaixia, cũng như Australia là theo danh nghĩa học giả, nhà nghiên cứu chiến lược, theo lời mời của Viện nghiên cứu chiến lược Gia các ta, Viện nghiên cứu chiến lược Kuala Lampue và trường đại học Griffith ở thành phố Brisbane, Australia-Các chuyến đi Angiê ri, Ethiopia, Bình Nhưỡng (Bắc Triều tiên) của tôi là trên danh nghĩa ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết á Phi của Việt nam đi dự những cuộc họp về đề tài chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, và tình hình chính trị, quân sự trên bán đảo Triều Tiên...
Tôi đã dự những cuộc tiếp đón long trọng, những cuộc đại yến chiêu đãi thượng khách ở những thủ đô lớn. Đó là buổi Tổng bí thư Brezhnev cùng nguyên soái Ustinov tiếp đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn đại biểu quân sự Việt nam ở điện Kremlin. Đó là buổi đại yến ở Đại lễ đường nhân dân do nguyên soái Điệp Kiếm Anh và tướng Trần Tích Liên khoản đãi đại tướng Giáp. Và sau đó là cuộc gặp gỡ với chủ tịch Hoa Quốc Phong. Đó là cuộc chiêu đãi trọng thể của bà Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandi mời Tổng bí thư Lê Duẩn trong nhà khách danh dự của chính phủ Ấn Độ. Nhân danh nhà báo tôi đã hỏi chuyện tổng thống Souharto, tướng Tổng tư lệnh Muadani của Indonexia, chủ tịch Nengistu Haisle Mariam của Ethiopia (vừa bỏ chạy sang Zimbabue tháng 5. 1991), thủ tướng Mugabe của Zimbabue, ngoại trưởng Manglaput của Philipin và thủ tướng Ragib Gandhi của ấn Độ...Năm 1986 tôi cũng từng qua Nam Mỹ, đến Buenos Aires của thủ đô Argentinia dự cuộc hội báo của tuần báo "Quepasa" của đảng cộng sản Argentinia và thăm một số tỉnh của phía Nam nước này.
Mỗi chuyến đi làm tôi thêm mở mắt một chút. Tôi thường tách khỏi các đoàn chính thức, thâm nhập cuộc sống của người dân bình thường, của tầng lớp trí thức, của các đồng nghiệp làm báo để có thông tin trực quan, từ nhiều đối tượng, nhiều tiếng chuông, do đó đáng tin cậy nhất.
Hàng chục lần ở Trung Quốc, từ Nam Ninh, Liễu Châu, Vũ Hán đến Bắc Kinh, Thượng Hải...cho tôi nhận thức rất nhiều vẻ về đất nước này. Thời kỳ trước 1965, những panô lớn Bắc Kinh và các thành phố lớn là hình Mao, là hình hai anh em Trung-Xô tay nắm tay tiêu biểu cho tình hữu nghị vĩ đại. "Lão tà cơ (Người Anh Cả)". Người anh cả Liên Xô hồi ấy là thần tượng của người dân Trung Quốc. Phong trào học tiếng Nga lan rất rộng. Rồi đến cảnh đấu tố trong cách mạng văn hóa vô sản. Rất Tầu, nghĩa là ầm ĩ, xô bồ, ồn ào, bát nháo, số đông theo nhau, học đòi nhau, lôi kéo nhau...Một đám đông theo định hướng cưồng nhiệt, cuồng tín, cuồng động, không cho phép nói ngược, đặt câu hỏi. Số đông là chân lý, số đông là sức mạnh. Một tỷ người, một tỷ cái đầu tuân theo một hiệu lệnh. Mọi ho hoe chống đối lập tức bị coi là phản bội, đáng nhổ vào mặt, đáng đội mũ lừa dong trên đường để mọi người mắng mỏ, xỉ vả, nguyền rủa.
Tôi đã thu được biết bao tài liệu Trung quốc ở Căm pu chia, từ Hiệp định quân sự ký giữa hai nước hồi tháng 17. 71976, về công binh Trung quốc sang xây dựng sân bay Kong pong Chnang, dài rộng nhất Đông Nam á, về lời khen của Mao Trạch Đông khi xiết chặt và lắc đi lắc lại bàn tay đẫm máu của Pôn Pốt: "Xin chúc mừng! Hảo, hảo à-Các đồng chí đã lập nên kỳ công của lịch sử, diệt hết bọn tư bản, bọn địa chủ bóc lột bọn tay sai phản động chỉ trong thời gian ngắn! hảo a, hảo a!" Một cuộc cách mạng bằng gậy, bằng vồ, bằng cuốc đập vào đầu hàng triệu con người! Nhân danh chủ nghĩa xã hội, chũ nghĩa cộng sản thuần chất, trong sạch nhất, nhân danh chủ nghĩa Mác Lê Nin, những định tạo nên mẫu mực cho cách mạng vô sản thế giới!
Tôi đã ngắm nhìn rất lâu chiếc ảnh bìa của báo Newsweek tháng 6. 1989: Một đòan xe tăng, xe bọc thép Trung Quốc gắn súng lớn trên quảng trường Thiên An Môn dừng tất cả lại trước một thanh niên tay cầm sách vở, chiếc áo vắt vai, tự nhiên, điềm tĩnh lạ thường-sắt thép chùn bước trước con người. Để sau đó sắt thép khạc lửa, khạc bão lửa vào đám đông, đem lại cái chết cho hàng ngàn con người, dìm trong máu khát vọng dân chủ. Và đó là chủ nghĩa xã hội ư? Là nhân đạo cộng sản ư?
Tôi nhớ lại những quyển Mao tuyển hồi cách mạng văn hóa vô sản. Tôi thấy những mầu đỏ rực ấy hồi 1965 trên hè phố Bắc Kinh. Cờ đỏ, sách báo đỏ, huy hiệu đỏ, khẩu hiệu đỏ. Cái gì cũng nhiều, cũng lóe mắt-Vào hiệu sách, người bán, người mua cùng ngừng lại để tụng vài đoạn Mao tuyển...Trên hè phố, trong vườn hoa, trẻ em tay cầm Mao tuyển, miệng hát đồng ca Mao chủ tịch! ở bệnh viện người ta tụng Mao tuyển để chữa bệnh với niềm tin vu vơ! Và cách mạng đựơc hiểu là lật nhào mọi giá trị cũ. Học sinh đại học kéo cổ thầy giáo xuống bắt qùy, cho đội mũ lừa đi dong phố xá. Tôi gặp những sinh viên Bắc Kinh buộc phải trốn sang đây, ở Paris, làm người Trung hoa lưu vong vì cái tội mê say dân chủ đúng hai năm trước. Các anh chị còn rất trẻ ấy vẫn một niềm tin: "khát vọng dân chủ bị dập bởi bạo quyền, nhưng nó âm ỉ, nó không tắt, nó chờ thời cơ. Tất cả đau nhục là thuốc nổ, sẽ bùng lên khi các cụ gìa cộng sản-phong kiến nhắm mắt.
ở Liên Xô hồi 1965, tôi đã vào viếng lăng Lê Nin-Stalin, cả hai chữ ấy in trên đá vân phủ trên mộ lớn, đi vào trong là hai quan tài kính Lê Nin ở bên phải (hướng nhìn ra) và Stalin ở bên trái. Stalin với bộ quân phục và huân chương đầy ngực làm cho Lê Nin nằm bên như bé hẳn lại...ít lâu sau, Stalin biến mất khỏi lăng. Bao điều bí ẩn phơi bầy ra ánh sáng. Con người được sùng bái, ca ngợi, yêu mến như thần tượng bị hạ bệ xuống tận bùn đen về sự xảo trã, sự độc ác khát máu, tính vô nhân. Từ 1985, cơ quan an ninh quốc gia KGB thú nhận đã can thiệp thô bạo quyền công dân, dựng nên vô số vụ án oan, vụ án giả. Tháng 9. 1990 tôi đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô trên đại lộ Karl Marx. Ngôi nhà đồ sộ nay vắng tanh vắng ngắt, trong khi ngay cạnh đó, người ta xếp hàng thành đuoi dài để mua bánh mì và...diêm! Mấy anh cán bộ Đài phát thanh Moscow kháo nhau lo lắng: Còn một tuần nữa phải khai cho xong hộ khẩu từng gia đình để chuẩn bị nhận thẻ phân phối thực phẩm và các hàng hiếm khác! "Trở lại y như thời chiến và mấy năm sau chiến tranh!" "Lùi lại gần nửa thế kỷ!" Giá cả đang lên dữ dội! Tôi đã từng đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô hồi 20 năm trước, đâu có vắng như chùa bà đanh hôm nay! Hồi ấy người ta ra vào tấp nập, các đoàn xe đen bóng loáng đỗ tại bãi xe cực lớn phía bên, người ta ăn mặc chỉnh tề, sách cặp lên xuống, vẻ trang nghiêm mà hối hả. Giá cả đứng nguyên một chỗ trong hàng 30 năm ròng. Họ khắc vào chân chiếc quạt máy 18 rúp 2, vào chiếc bàn là 6 rúp 6 là cứ như vậy suốt hàng chục năm...
Trước kia phần lớn người Việt nam đều cho rằng người Liên Xô ai cũng tốt cả. Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai. Đó là mẫu mực của con người mới, con người lao động hăng say, có năng xuắt cao và có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa cao quý- Mọi người đều quý mến và tin cậy chuyên gia Liên Xô...
Tháng 4. 1986, tôi ghé qua Liên Xô trên đường từ Berlin về nước. ở Moscow, tôi gặp đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam. Có anh em vốn là đại tá quân đội chuyên ngành, quen biết tôi từ lâu- Thế là tôi được biết rõ thêm về sự cộng tác Việt Xô trong tổ chức Việt -Xô Pétro, tổ chức hợp tác để tìm kiếm và khai thác dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Chuyên gia Liên xô trước kia nhiều người tốt. Nhưng không ít người nặng về quyền lợi riêng của đất nước mình. Cơ quan nhà nước Liên Xô là cả một hệ thống nặng nề, cồng kềnh, làm việc quan liêu, thông tin thiếu chặt chẽ, quan hệ dọc còn chậm và quan hệ ngang rất lỏng lẽo. Việc hợp tác về dầu khí những tưởng thuận buồm xuôi gió, rằng Liên Xô giúp Việt Nam rất vô tư và hào phóng vì Liên Xô ứng ra hàng chục tỷ rúp mua biết bao thiết bị đắt tiền và hiện đại...Thế nhưng sau gần 10 năm làm việc, phía ta khôn dần lên, thì té ra không phải hoàn toàn như vậy! Liên Xô đã đưa sang quá nhiều chuyên gia, cả những chuyên gia mà ta có khả năng tự đảm nhận, tạo thành cả làng chuyện gia ở Vũng Tàu (cũng như làng Liên Xô ở công trình thủy điện Hòa Bình). Những chi phí lớn ấy ngoặm khá nhiều vào số tiền họ ứng ra và cho ta vay nợ. Gía cả ta tính cho bạn cũng rất hớ, từ tiền nhà, cung cấp nhu yếu phẩm, đưa đón họ, phục vụ họ di chuyển...đều với giá hữu nghị...Đã vậy những thiết bị họ cung cấp cho ta, có thứ mua từ Ấn Độ, từ Hồng Kông, từ Singapore đưa tới, ta đều tính theo hóa đơn họ đưa, cao hơn rất nhiều giá bạn mua thật sự! Có anh cay cú bảo tôi: Đó, bạn thân thiết, ông anh cả, tinh thần quốc tế vô sản cao cả là như vậy đó. Càng là anh em càng lèn cho đau! Đây là bài học rất sâu sắc. Ta dại dột, ngây thơ qúa. Dại từ ông lãnh đạo trên cao xuống cán bộ các Bộ, các tổng cục...Cuối cùng, nhân dân ta phải gánh chịu tuốt.
Tôi đã ghé Cộng hòa dân chủ Đức 4 lần. Tháng 10. 1965 tôi đã đến cổng Brandenburg nhìn sang trụ sở quốc hội Đức cũ ở Tây Berlin. Bức tường Berlin dựng lên vừa được ba năm. Tôi được viên trung tá Muller chỉ huy đơn vị biên phỏng dẫn vào phòng chỉ huy, nghe giới thiệu trên bản đồ và qua một cuốn phim việc xây dựng bức tường kiến cố này, cũng như hệ thống phòng thủ bằng điện tử, mìn, giây điện, hệ thống canh gác cẩn mật ngăn cách đông với tây Berlin, chia cắt Cộng hòa dân chủ Đức với Cộng hòa liên bang Đức. Không ai có thể nghĩ rằng bức tường kiến cố ấy đã bị phá không phải bằng tiến công quân sự, mà bằng ý muốn của nhân dân. Anh Horn, hồi ấy là cán bộ phòng Việt nam trong vụ châu á bộ ngoài giao CHDC Đức, đã hướng dẫn chúng tôi đi thăm Dresden, nơi có bản doanh của bộ đội khối Vacsovie, thăm Leipzig, Potsdam, thăm Weimar, nơi có di tích phòng làm việc của văn hào Goethe, thăm lò thiêu người của phát xít Hitler ở Buchenwald, thăm hải cảng ở phía bắc Rostov. ở Berlin, anh cùng cả gia đình đưa tôi lên tháp truyền hình cao gần 300m gọi là Télé-Café, nơi có cửa hàng giải khát quay 360 độ mỗi giờ, để ngồi ngắm quang cảnh đông và tây Berlin buổi chiều và ban đêm...ít lâu sau tôi gặp anh ở Hà Nội, anh đã là bí thư thứ nhất đại sứ quán CHDC Đức ở Việt nam. Sau đó tôi ghé Viêntian thì anh là đại sứ CHDC Đức tại Lào. Sau năm 1979, anh là đại sứ đầu tiên của CHDC Đức ở Pnom-penh rồi trở về công tác tại Bộ ngoại giao với chức Vụ trưởng-Một nhà báo ở Berlin sang Hà Nội đầu năm 1989 cho biết anh có thể sắp là thứ trưởng ngoại giao. Hôm nay nhớ đến Berlin, tôi lại nhớ đến anh. Bức tường ngăn cách đã biến mất, nước Đức đã thống nhất trong vui buồn lẫn lộn...Không biết anh và gia đình nay ở đâu, làm gì? Anh còn ở ngành ngoại giao? Có còn là cán bộ của đảng viên của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức? Những quan niệm về chủ nghĩa Mác, Lê Nin, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa quốc tế vô sản của anh hồi ấy nay đang được anh nhìn nhận ra sao, sau biết bao biến thiên đột ngột và sâu sắc hơn một năm qua...
Tháng 4. 1986 tôi dự đại hội đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức ở cung Cộng hòa Berlin. CHDC Đức đã có những bước tiến rõ rệt trong xây dựng, dẫn đầu các nước xã hội chủ nghĩa về sản xuất các hệ thống CAD-CAM (Computer aided designed - Computer aided manufactured), về máy tính điện tử tốc độ cao. Tuy vậy nước này vẫn một mực đứng ngoài việc "đổi mới và ngay thật" (perestroika và glasnost), tự cho rằng đã thực hiện điều đó từ khá lâu rồi, đã đứng ở trong số 10 nước công nghiệp hóa cao nhất thế giới. Tôi không ngờ đó là đại hội cuối cùng của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức trên cương vị cầm quyền. Một đảng nổi tiếng trong các nước xã hội chủ nghĩa là rất nghiêm, bản chất công nhân rất đậm, kỷ luật rất chặt, tính thống nhất cao và đất nước có nền an ninh rất vững! CHDC Đức và Liên Xô là hai nước giúp đỡ tận tình nhất cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam về mặt an ninh, như đào tạo cán bộ về các mặt chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm về phát hiện điều tra, xét hỏi, về xử lý các phương tiện thông tin, kỹ thuật chuyên môn trong công tác an ninh và phản gián...Những năm gần đây cơ quan mặt vụ Liên Xô KGB đã được chấn chỉnh khá sâu sắc, đã thải loại hàng chục nghìn nhân viên có sai lầm nghiêm trọng gây oan ức biết bao công dân lương thiện. KGB đã công khai tạ tội trước nhân dân về những hành vi lạm dụng quyền hành, vu cáo, chụp mũ một cách độc đoán, vi phạm nặng nề hiến pháp và pháp luật Liên Xô, đã minh oan cho nhiều công dân, trong đó có nhiều nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo...Hàng chục nghìn người đã chết trong cảnh tù đầy và oan ức. Tháng 6. 1991 vừa qua, nhiều tờ báo ở Moscow đưa tin, nhà văn kiêm nhà báo Alexandre Cheltalinski thành viên của "ủy ban bảo về di sản văn học của những nhà văn bị đàn áp, " được sự giúp đỡ tận tình của ủy viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Liên Xô Alexandre Yacovlev và được phép của viện kiểm sát tối cao Liên Xô đã khui được một đống tài liệu tuyệt mặt cực kỳ quý giá trong kho tư liệu lưu trữ của cơ quan KGB. Nhà báo này được đọc nhiều biên bản hỏi cung, nhiều bản thảo có giá trị đã bị tịch thu dưới thời Stalin, trong đó những tác phẩm độc đáo của Platsnov, của Bulgacov, của Isaccs Babel, của linh mục Pavel Flarenski, của Guopuy Davidox. Nhiều tập nhật ký viết ngay trong nhà tù của KGB ở cạnh trụ sở này, tác giả đã bị xử bắn, hoặc đã chết trong tù do bị tra tấn và ngược đại. Một số cán bộ của KGB cố tình dấu diếm những hồ sơ và tác phẩm trên đây đã bị phát hiện, thải loại và chờ ngày xét xử trước pháp luật.
ở CHDC Đức, chính vào ngày bức tường chia cắt đông-tây bị sụp đổ, viên tướng cầm đầu cơ quan an ninh STASI (An ninh quốc gia của nhà nước và của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức) đã tự kết liễu mình bằng một phát đạn súng ngắn. Con người có uy quyền gần như tuyệt đối, từng hét ra lửa, đã hoảng sợ trước sự vùng dậy của quần chúng hay đã hối hận về những việc làm quá đáng của mình. Hắn đã cho bắt bớ, xử lý thô bạo, không theo pháp luật nhiều công dân chân chính, chụp mũ bừa cho những ai đấu tranh cho dân chủ là tay sai phát xít, tay sai của CHLB Đức, tay sai CIA, đầy đọa họ, gia đình và bạn bè họ...Hồi ấy, STASI là bàn tay sắt, có trụ sở to lớn, trang bị hiện đại ở khắp các vùng, còn to lớn và hiện đại hơn cơ quan GESTAPO hồi xưa, tiêu biểu cho một chế độ luôn lên gân và chỉ lo trấn áp những công dân bất đồng ý kiến...Cơ quan an ninh của ta từng tiếp thu nhiều kinh nghiệm của Liên Xô và CHDC Đức nên tìm đọc kỹ những bài báo, tài liệu được công bố về cơ quan KGB và STASI trong năm qua để chấn chỉnh kịp thời công tác của mình. Qua trả lời báo Nation (Băng Kok) của bộ trưởng Mai Chí Thọ, trong những cuộc họp báo của đại diện cơ quan phản gián Bộ Nội Vụ ở Hà Nội, cung cách nhận định và chụp mũ đối với nhà văn Dương Thu Hương và bản thân tôi là rất cũ, coi chúng tôi là những kẻ phản bội(!), phạm pháp(!), là bị đế quốc và phản động lôi kéo, mua chuộc, nguy hiểm cho an ninh quốc gia! Điều mà cơ quan KGB và cơ quan STASI đã phải từ bỏ và sám hối thì những người chỉ đạo cơ quan an ninh ở Hà Nội được họ huấn luyện vẫn còn bám giữ, vi phạm luật pháp và đi ngược lại quyền tự do, dân chủ của công dân...ở Hà Nội, ta cứ đi qua các đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Thượng Hiền mà xem. Các cơ quan an ninh rộng lớn, bề thế, cao đẹp đến lộng lẫy ra sao, thiết bị hảo hạng cho nơi làm việc, phòng họp, nhà khách ra sao...thì ở sát đó trường Đại học Mỹ thuật vốn có truyền thống từ đầu thế kỷ, hiện trong tình trạng đổ nát, bệ rạc, thầy giáo và sinh viên sống chật chội và nhếch nhác như thế nào. Điều mà cơ quan STASI bị dư luận ở Đức lên án đáng làm cho những người lãnh đạo Việt Nam, đậc biệt ở Bộ Nội Vụ suy nghĩ nghiêm chỉnh và rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước. Khi chính những người cầm đầu KGB và STASI thú nhận đã phạm tội nặng nề, khi đặt "một nhà nước ở trong một nhà nước, " có trách nhiệm thi hành luật pháp lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp, khi những người cầm đầu KGB đã công khai nói lên niềm hối hận, nỗi hổ thẹn của mình thì những người lãnh đạo cơ quan an ninh và bảo vệ chính trị (trong và ngoài quân đội) ở nước ta lẽ nào lại không biết hối hận và hổ thẹn gì về những việc làm sai trái của mình?
Theo tôi Budapest là thành phố đẹp nhất trên sông Danube với 8 chiếc cầu nối liền hai bờ: Buda ở phía dưới và Pest ở phía trên. Trụ sở quốc hội rất đặc sắc, soi bóng xuống dòng sông xanh. Người Hungari dễ thương, chân thành, cởi mỡ, giống người Việt Nam ở sự tinh tế và ấm cúng trong tình bạn. Hai lần ở thăm Hungari tôi nhận ra rất rõ sự gắn bó của dân tộc này với Tự do. Một nét "rất lạ": Hongarie là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất xưa nay vẫn cho phép công dân của mình được đi thăm viếng và du lịch bất kỳ nước nào-xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản chủ nghĩa, như sang áo, Nam Tư, ý, Pháp, Thụy Sĩ, và cả Mỹ, Canada, Anh...Trong khi bức tường ngăn cách hai nước Đức, trong khi công dân Liên Xô, Tiệp, Bulgarie hầu như không được ra các nước tư bản chủ nghĩa để tham quan du lịch. Tôi hỏi các bạn Hungari và được biết chính nhờ được tự do đi về mà rất ít người Hungari ở lại các nước đó. Người Hungari định cư ở nước ngoài không nhiều, họ gắn bó rất sâu đậm với quê cha đất tổ...Chính nét đặc sắc về tự do dân chủ đã làm cho Hungari là nước đi sớm nhất, từ hồi năm 1956, để tìm tòi một mô hình chính trị và kinh tế thích hợp với bản sắc dân tộc mình ở giữa môi trường châu Âu đầy những lực kéo theo đủ phương khác nhau. Chính do đó, sự chuyển đổi hiện nay của Hungari tuy đầy những phức tạp, khó khăn nhưng không hàm chứa nhiều bi kịch lớn như ở Đông Đức, Rumani, Anbani, Nam Tư, Ba Lan và cả Liên Xô nữa...
Đầu năm 1989, tôi có dịp ở Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) ba tuần lễ, dự một cuộc hội nghị của tổ chức đoàn kết á Phi bàn về tình hình quân sự và chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Chúng tôi tham quan khu vực Bàn Môn Điếm, trong khu phi quân sự ở vĩ tuyến 38, thăm thành phố Khai Thành cổ kính, với những khu vườn và ruộng trồng nhân sâm-một đặc sản của Bắc Triều Tiên, thăm những đập và hồ lớn ở miền Tây. Bình Nhưỡng là thủ đô được xây dựng lớn, rất nhiều nhà cao tầng được thiết kế và thi công sau chiến tranh. Tôi ở khách sạn Kô-ri-ô cao 44 tầng, cách đó không xa một khách sạn cao 105 tầng đang được hoàn tất. Phải công nhận cuộc sống ở đây còn kém khá xa Nam Triều Tiên, nhưng so với quá khứ thì một trời một vực. Bắc Triều Tiên chỉ có 19 triệu dân mà tài nguyên lại rất phong phú: Than, thủy điện, đá làm xi măng, quặng sắt thép, nhôm, vàng. Thủy sản nhiều, công nghiệp hóa chất sớm phát triển, vải lụa nhân tạo dồi dào, tính ra mỗi đầu người có đến hơn 40m/một năm. Người dân Bắc Triều Tiên vẫn còn sống trong môi trường cách biệt. Không được nghe đài nước ngoài. Không được xem sách báo nước ngoài, không được xem ti vi nước ngoài-Bất cứ ai phạm phải những điều cấm kỵ ấy đều có thể vào tù. Tôi gặp mấy chục cán bộ Triều Tiên, từ Tổng biên tập báo Rô-đông Shimun, đến ông Chủ tịch tổng công đoàn, Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại giao, giám đốc khách sạn Kuriu, cho đến ông phó chủ tịch thành phố Khai Thành, đại tà Rô và đại tá Kim ở Bàn Môn Điễm...tất cả đều "tụng" những câu giống nhau, gần như thuộc lòng "chúng tôi độc lập, tự do và hạnh phúc ngày nay là nhờ lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành, nhờ tư tưởng chủ thể của Người, lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành và lãnh tụ kính mến Kim Chung I (Kim Trung Nhất, con trai của ông Kim Nhật Thành) đã dìu dắt gần 20 triệu nhân dân Triều Tiên từ cuộc sống nô lệ đói nghèo đến cuộc sống hạnh phúc hôm nay..." Ai cũng mang huy hiệu ông Kim ở ngực, từ cán bộ cao cấp nhất đến người phát thư, người bảo vệ ở khách sạn, người quét rác trên hè phố. ở đây không còn một cửa hàng tư nhân nào, kể cả hiệu giải khát nhỏ, cửa hiệu cắt tóc cũng không. Người dân không biết perestroika ở Liên Xô, cũng chẳng biết cải cách ở Trung quốc ra sao hết. Các tờ báo của nhà nước chỉ đang hoạt động của lãnh tụ, ảnh của lãnh tụ đi thăm nơi này nơi khác. Nhà xuất bản trong nướcvà ngoài văn cũng chỉ có in và bầy bán các bài viết, bài nói của ông Kim Nhật Thành và người con sắp kế nghiệp bố. Những cuốn sách in rất đẹp, tít sách được in bằng kim nhũ, cùng những sách in về bố mẹ của ông Kim, được coi là "Quốc phụ" và "Quốc mẫu" của đất nước này, một số cuốn sách kể về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh...Một nền văn học đáng kính, để mà vái chào từ xa! Chúng tôi được dẫn đến xem Tháp Chủ Thể cao hơn 120 mét, trên cùng là một ngọn lửa lớn, riêng nó cao hơn 8 mét, kết bằng ánh sáng điện đỏ chói, ngày đêm lấp lánh. chân tháp là những viên gạch lớn bằng đá vân ghi tên và địa chỉ những câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu học thuyết Chủ Thể ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ Ai cập, Syri, Tunisie, ở Bắc Phi đến Columbia, Urugoay ở Nam Mỹ, từ Canada, San Francisco ở Bắc Mỹ đến Mo zambic, Madagaska ở Nam Phi, từ Bruxells (bỉ), Tây Ban Nha, Pháp, Anh ở châu Âu cho đến ấn Độ, Ceylan, Philipine ở châu á. Tháp được xây dựng bằng hơn 21. 000 khối đá hoa cương quý, vừa đúng bằng số ngày mà lãnh tụ tối cao họ Kim đã sống từ khi lọt lòng mẹ đến khi 60 tuổi tròn. Ngọn tháp lớn đỏ rực lửa này dựng lên để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 60 của lãnh tụ kiệt xuất. Chúng tôi cũng đã được ngắm vô vàn bức tượng bằng đá, bằng đồng, bằng xi-măng, bằng thạch cao của ông Kim rải ra trên khắp đất nước. Có điều gì rất không bình thường là từ tự do, no ấm đến hạnh phúc của mỗi con người ở đây đều được coi là đặc ân ban cho từ một con người kiệt xuất, có tài thánh. Con trai của vị thánh sống này sẽ được kế tục trị vì đất nước theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến. Trên dải đất thiên liêng, cứ mỗi mét vuông là có 120 mảnh sắt thép lớn nhỏ bom đạn, cuối cùng con người được tự do, với kiểu tự do như vậy!
Hồi 1987, ở thủ đô Adis Abebas của Ethiopie, tôi đi dạo một buổi chiều chủ nhật ở quảng trường Cách mạng, có bức tượng đá Lê-Nin cao hơn 6 thước, do một nhà điêu khắc Liên Xô làm cho nước này. Bức tượng được báo chí Liên Xô nhân xét là tiêu biểu cho sức mạnh của chủ nghĩa Lê Nin đã lan tới Châu Phi. Tôi nói với mấy anh bạn Việt Nam đi cùng hôm ấy: "Thật là quá sớm!" Khi người dân Ethiopie còn bị nạn đói từ Đông sang Tây, khi người dân da mầu ở đây còn đói chữ, giáo dục còn lâu mới được phổ cập, đã có ai hiểu gì mấy về Lê-Nin và chủ nghĩa Lê-Nin? Khi đảng cầm quyền ở đây tuy tự nhận là Mác xit lê-nin-nit nhưng tất cả các biểu hiện của nó lại còn mao ít hơn cả Mao! Cán bộ cơ quan nhà nước và cơ quan đảng bị bắt buộc nhất thiết phải mặc đồng phục mầu xanh kiểu đại cán Trung Hoa, mặc dù trời nắng như thiêu! Những lời của lãnh tụ, nguyên là đại úy Mengistu Mariam được in và ghi thành khẩu hiệu ở khắp nơi, như một kiểu Mao tuyển màu đỏ chót. Vừa rồi, ông Mengistu Mariam đã bỏ chạy sang Zimbabue và bức tượng Lê-Nin nói trên đã bị một số người dân trẻ nước này buộc dây thép vào cổ và dùng xe tải kéo cho đổ nhào. Họ nghĩ một cách giản đơn rằng đó là nguyên nhân của sự nghèo khổ và nội chiến liên miên ở đất nước bất hạnh này. Bức tượng Lê-Nin đã trở thành cái bung xung để hứng chịu mọi căm phẫn của nhân dân.
Tôi đã sang Argentina ở Nam Mỹ. Đây là cả một lục địa, mà kích thước về mọi mặt thật lớn, rừng rậm bạt ngàn, nợ nước ngòai cũng cực lớn (gần 300 tỷ đô la), có một bề dài đến 3000 km, có thành phố hơn 10 triệu dân và có những con sông rộng ơi là rộng, không phải chỉ rộng ở cửa biển, mà ngay quãng giữa đã rộng từ 3 đến 7 km! Đó là dòng sông Parana, phải đi trên máy bay, bay thật chậm nhìn xuống mới thấy hết cái kỳ vĩ của sông nước lục địa này!
Đó là bãi đất bằng phẳng rộng tít tắp gọi là Pampa, đường ôtô rộng chạy xuyên qua các vùng trồng cam, quýt, lê, táo mênh mông, chẳng có bóng người, những đàn ngựa, cừu, dê hàng ngàn vạn con, chẳng ai chăn dắt trên những bãi cỏ xanh vô tận...Con người ở đây sôi nổi, đi nhanh, nói lớn, ôm chặt, khiêu vũ sôi động, quay cuồng, thích màu sắc nóng...Họ ưa xem đua ngựa, vật bò tót, thích bóng chầy hơn bóng đá vì bóng đá thư thái, uyển chuyển qúa, chẳng mạnh mẽ, dữ dằn như bóng chày...Chính trong cai nhiệt tình Mỹ La tinh ấy, tôi đã làm bạn vỡi những người cộng sản Uruguay, Bolivie và Argentina...Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Và hơn một năm nay, họ băn khoăn, chán nản, vỡ mộng, nhưng vẫn tìm một con đường cho lục địa này. Một anh nhà báo Argentina gặp ở Hà Nội tháng 7. 1990 bảo tôi: "Có thời tao là mao ít, mao ít cuồng nhiệt. Cả thế giới không ai bằng Mao! Sau cách mạng Trung Quốc, tao vỡ mộng. Thế rồi tao yêu Fidel, yêu hơn cả người yêu. Nhà tao đầy ảnh Fidel, "ông có râu rậm", mấy thằng em tao bảo vậy. Thế rồi có một dạo xuống đường hô: Hồ! Hồ Chí Minh! Che, Che, Che, Che-Ghêvra! Nay thì chẳng biết hô gì, chẳng còn say mê ảnh ai nữa! Tao theo dõi chặt tình hình thế giới, tình hình Việt Nam, nay đến để nhìn cho rõ. Sao đất nước của Hồ Chí Minh thống nhất 15 năm rồi mà nghèo, mà đói, mà nạn cờ bạc, nạn gái điếm, nạn tham nhũng, nạn hối lộ trở thành nổi tiếng đến vậy? Người ta dặn tao là đến Việt Nam phải đề phòng ngay kẻo mất cắp!!!" Tôi nói đến tình trạng Việt Nam bị bao vây, cô lập, anh ta lắc đầu: "Không, không phải như vậy. Đó không phải là lý do. Cái đầu này này! Cái đầu lãnh đạo của Việt Nam ấy! Phải xem lại! Phải xem lại!"
Tôi đã nhiều lần ở thăm các nước láng giềng Đông Nam á:
Thái Lan, Malasie, Indonesie, Philipine...Bangkok ồn ào, ôtô chạy ầm ĩ, các kênh rạch giữa phố xá đen ngòm, hôi thối bên những cao ốc, siêu thị hiện đại, đầy ắp hàng hóa, để lại cho khách du lịch cảm giác căng thẳng, xô bồ. Kualămpua thoáng rộng, có hồ, nước, vườn cây xanh chứa muông thú giữa thủ đô để lại mọt ấn tượng êm mát thanh bình. Manila, bên cạnh những cao ốc 20, 30 tầng trên những đại lộ thênh thang là những dẫy phố nghèo, nhà cữa lụp xụp, đường ghồ ghề. Djacarta là thành phố rộng nhất khu vực Đông Nam á với hơn 200 khách sạn, 30 ngân hàng lớn với khu vực giải trí dựng theo huyễn thoại cho trẻ em, hấp dẫn cho cả người lớn. Nhưng vẫn lồ lộ khó khăn do nạn nhân mãn đè nặng lên đất nước: Gần 200 triệu dân chen chân trên những hòn đảo lộng gió...
Mỗi lần ghé qua nước bạn, đi một vòng thăm thú, lòng tôi canh cánh một nỗi đau cứ ngấm mãi-Hà Nội ta, thành phố Hồ Chí Minh ta, nước Việt Nam ta trên tất cả các mặt cứ tụt hậu, tụt hậu mãi thế này! Sân bay Băng cốc hồi 1973, 1974 còn kém khá xa sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Thế mà nay rộng lớn hiện đại hơn cả sân bay quốc tế Vnecouvô hay Chérémétivô ở Moscow! Hàng không Thái Lan vừa hợp nhất hai hãng hàng không nội địa và quốc tế, có hơn 200 máy bay, tỏa rộng đến 42 nước, được tiếng là phục vụ lịch sự nhất, sang trọng nhất Đông Nam á. Còn ở ta? Hàng không của ta? ở Djacarta, riêng xe ôtô con đã gần 1 triệu, còn xe buýt là 26. 000, 8000 xe tắc xi luôn tỏa trên các nẻo đường phục vụ sự đi lại của nhân dân thủ đô-Còn ta? Tôi ghé thăm những trường đại học ở Băng Cốc và Kualalampua thư viện, phòng họp, trường học...đều thiết kế rộng rãi, trang bị đầy đủ máy tính, máy ghi dữ liệu, máy hỏi và trả lời các bộ môn, học toán, lý, hóa, văn, sử, địa...đều bằng máy chiếu phim...Các trường đều có các phòng chơi thể thao đủ môn loại, nhà ăn, nhà giải khát, nơi đọc các loại sách báo. Câu lạc bộ được trang bị đầy đủ về âm nhạc, chiếu phim, ca hát, nhảy, múa...
Họ là những nước gần ta, điều kiện tự nhiên không có gì hơn ta, vậy mà họ đã cất cánh, tạo nên tốc độ trên con đường phát triển, đang là những con rồng dự bị của Châu . Theo thống kê của ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc, năm 1990 vừa qua thu nhập tính theo đầu người của Indônésie đã đạt 545 đô la Mỹ, Philipine đạt 727 đô la Mỹ, Thái Lan gần ta đạt 1. 418 đô la và Malaisie đã đạt tới 2. 300 đô la. Ta thì chưa tới 200 đô la! Cũng theo thống kê này năm 1990, Singapore và Hồng Kông đều đạt trên 12. 000 đô la Mỹ (gấp 60 lần ta)-Những nước phát triển cao như Australia (úc) và Anh đã đạt trên 16. 000 đô la, Pháp, Đức vượt 20. 000 đô la. Mỹ vượt 21. 000 đô la và Nhật bản đạt tới 23. 500 đô la- Nhân nói đến Nhật bản mà sức mạnh kinh tế và tài chính đã vươn tới đỉnh cao nhất của thế giới ngày nay, tôi nhớ đến cuộc nói chuyện với giáo sư Tari Yokohama ở khách sạn quốc tế Narita cuối năm 1988. Ông gần 70 tuổi chuyên nghiên cứu và dạy về kinh tế. Ông am hiểu chủ nghĩa Mác. Ông kể lại bí quyết làm giầu của người Nhật bản sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đó là nỗi tủi nhục của kẻ thua trận, nỗi lo sợ khôn nguôi của kẻ mắc nợ lớn do phải bồi thường chiến tranh cho Đồng minh, sự bó buộc phải trông cậy vào sức lao động của chính dân tộc mình trên đất nước quá nhỏ hẹp của mình mà thôi. Trong thất bại và tủi nhục của kẻ bị chiếm đóng, cả một dân tộc nín lặng, nhẫn nhục, bặm môi lại làm việc, cố kết với nhau. Ông ta cười giữa hai hớp rượu Sa-kê: "Hồi ấy chúng tôi dạy cho học sinh từ lớp thấp: Các em bất hạnh đã sinh ra trên đất Nhật này, một đất nước bị bom nguyên tử và bom đạn tàn phá, bị nhục vì thua trận, bị trừng phạt, bị mắc nợ lớn. Có thoát khỏi hoạn nạn này là do các em. Do nghi lực và tri tuệ của các em. Các em phải học cho giỏi, chiếm các lĩnh vực hiểu biết và các quy trình công nghệ tiên tiến nhất...Chúng tôi cho học sinh trẻ xuất sắc đi làm công và đi học: Nghề ôtô ở Mỹ, nghề làm máy thu thanh ở HàLan, nghề đồng hồ ở Thụy sĩ, nghề chế tạo máy ảnh ở Đức, nghề luyện kim, chế tạo cơ khí ở Pháp. Học, bắt chước họ để làm được như họ, rồi cải tiến, mỗi nghề một chút. " Sau đó ông kể rằng, người Nhật đã tận dụng một lợi thế lâu dài, đó là không có quân đội lớn, chỉ có một đơn vị dân phòng, lại không được sản xuất vũ khí, càng tốt! Ngân sách quân sự chỉ có 0, 6 %, mãi sau này mới nâng lên 1%, rồi hơn 1% ngân sách chung. Đêm ấy tôi nghĩ về đất nước Việt Nam của tôi. Trong khi mình huênh hoang là chiến thắng lịch sử huy hoàng vượt tất cả thời kỳ lịch sử hiển hách thời xưa, là đã toàn thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, rằng sẽ không còn ai dám động đến lông chân mình, rằng Việt Nam cứ ra ngõ là gặp anh hùng, rằng từ nay xây dựng thì dễ ợt, chẳng mấy chốc thì giầu to vì đánh giặc mới là khó nhất trên trần gian này, mà ta thì làm được một cách xuất sắc...Thế rồi càng bốc đồng: Nước ta rừng vàng, biển bạc, sông ngòi, bờ biển tha hồ nhiều tôm cá, làm chơi ăn thật, nay làm thật thì để đâu cho hết của...Sao lúc ấy không ai chỉ ra rằng ta đã mất bao nhiêu thời gian, sinh mạng trong chiến tranh, đã thua kém người ta trong xây dựng, phải tính rất cẩn thận bài toán phát triển đất nước, tận dụng từng chiến lợi phẩm, từng đồng vốn, tiết kiệm từng tấn nguyên liệu, đào tạo lại công nhân cán bộ kinh tế quản lý, kinh doanh...và nhất là phải đề phòng cái kiêu ngạo, tư phụ, coi trời bằng vung sau chiến thắng lớn này! Lẽ ra đại hội 7 phải nhìn lại một cách dũng cảm và ăn năn, hối hận trước nhân dân, xin lỗi nhân dân và cùng nhân dân đi vào con đường đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát, gỡ bỏ những bệnh tật đang hoành hành, bắt tay vào cuộc phấn đấu mới...Thế nhưng những người cầm quyền đã không làm được điều ấy! Cái khả năng "xin lỗi" và khả năng "nhận khuyết điểm" thật quá là mỏng manh, họ không tự vượt lên được chính mình!
Tôi ở Pháp đến nay đã được gần một năm. Tôi tận dụng thời gian ở đây để tận mắt tìm hiểu đất nước này, một nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tôi đã đến khá nhiều nơi ở Paris, ra vùng ngọai ô ở tất cả các hướng Tây, Bắc, Đông, Nam...tôi gặp gỡ hỏi chuyện các nhà kinh tế, chính trị, quân sự, sử học về nước Pháp, nước Pháp xưa kia, trong chiến tranh, sau chiến tranh và hiện nay...
Tôi từng đi các địa phương Lyon, Lille, Toulouse, Aix- en-Provence. Tôi đọc sách báo Pháp hàng ngày, có những buổi gặp gỡ thú vị với các nhà báo, nhà làm phim, nhà họat động chính trị thuộc nhiều mầu sắc-từ cực tả sang hữu. Nước Pháp đã để lại những ấn tượng mới mẻ đối với tôi, phong phú hơn nhiều so với nền văn hóa và văn học Pháp tôi tiếp thu khi còn ít tuổi- Nói về nước Pháp phải viết một cuốn sách dầy mới đủ. Tôi chỉ xin kể lại đây những điều sâu sắc.
Tự do cá nhân, tự do của công dân, là một quyền lợi, một thành tựu, một động lực rõ rệt của đất nước này. Tự do gắn với bình đẳng, với phát triển-Nước Pháp đúng là quê hương của cách mạng 1789, của: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Có người ở Việt Nam sẽ phê phán tôi đi ca ngợi chủ nghĩa tư bản! Rằng chính Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược, gây tai họa cho chúng ta. Tôi có lý do để căm thù đất nước này. Mẹ tôi, bà mẹ thương yêu vô vàn của tôi, bà mẹ nhân ái từng nuôi hàng chục con nuôi Vệ quốc quân, đã tắt thở vì những viên đạn ga-răng bắn vào giữa ngực ngay sau những ngày Tết Trung thu 1948. Một tốp lính lê-dương Pháp nhẩy dù xuống Vân Đình và tràn qua làng Liên Bạt quê tôi. Một tên chỉ điểm ở xã đã chỉ cho lính Pháp biết mẹ tôi là "vợ một Việt Minh cao cấp, " khi cha tôi đang là Trưởng Ban thường vụ quốc hội trên Việt Bắc. Cũng lại lính Pháp giết chết người bạn thân thiết nhất của tôi - người bạn con chấy cắn đôi - bạn Nguyễn Dung, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 14 trong một trận đánh ở Quảng trị năm 1947. Tôi đã vuốt mắt cho Dung và về sau còn vuốt mắt cho hàng trăm đồng đội thân thiết của tôi, với mối căm thù không nguôi quân xâm lược. Tuy vậy tôi vẫn giữ một cách nhìn khách quan đối với nước Pháp.
Đất nước của tự do từ những nét nhỏ. Vào hiệu ăn hay ở nhà, người Pháp chọn riêng cho mình rất kỹ từng món ăn-Người ta tôn trọng sở thích của nhau và mỗi người biểu hiện cái quyền sở thích của riêng mình-Lúc đầu tôi hơi lạ, chưa quen, có cá nhân quá không nhỉ? Thế là vào ăn hai người, ba người, bốn người, mỗi người tìm cho mình một thực đơn riêng. Anh ăn cá, tôi ăn gà, bạn này ăn thịt bò. Tôi uống rượu vang đỏ, anh uống rượu vang trắng, bạn kia uống bia Nhật, chị kia uống bia Tầu - Thuốc lá người hút, người không, nhưng anh này hút Camel, anh kia Philip Morris đậm, bạn kia nữa thì xì gà hay Gaulois. Đến nước chè cũng vậy - Anh chè có vị bạc hà, tôi chè Sri Lanka, chị kia chè Tizane...Thật lắm vẻ. Rượu thì khỏi nói, vài chục loại, tùy thích, mọi người một thứ, tự chọn, cho đến ở nhà, bữa cơm gia đình cũng vậy. Đã thành nếp, thành tập quán rồi. Người vợ muốn ăn cá hấp, anh chồng muốn ăn thịt bò, con trai thích thịt gà hầm, con gái thích xúp thịt cừu, khoai tây. ít khi ăn chung một món, trừ khi có đặc sản, có thức gì thật đặc biệt có bàn bạc. Cho đến khi ăn pho-mát, có cả một hộp lớn, có 6, 7 thứ pho-mát: Vị cừu, vị bò, có thứ hơi chua, có thứ rất mặn, thứ rắn, thứ mềm, thứ vàng, thứ trắng...mỗi người một sở thích...Trong gia đình ai ăn thứ gì, làm món ăn gì cứ tự tiện làm lấy-Khi bận thì cùng nhau làm, trao đổi ý kiến với nhau. Giờ ăn cũng vậy. Cứ việc tùy ý, tiện lúc nào thì ăn. Không ai làm phiền ai, cản trở ai, quấy rầy ai, làm khó chịu cho ai cả. Tôi quan sát cháu Alise bốn tuổi trong nhà tôi ở. Từ bé cháu đã vậy. Tự do lựa chọn, lễ phép, lịch sự mà lựa chọn, thoải mái mà lựa chọn.
Cháu có bà ngoại là chị Ngọc, ông ngoại là anh Jacques.
Thế mà từ khi biết nói đã gọi: Ngọc! Jacques! Gọi mẹ cháu cũng bằng tên: Luce! Gọi bố cũng bằng tên: Michel! Đó là thói quen, là phong tục, không cần thưa bẩm, không cần gọi rõ ông, bà, cha, mẹ. Chỉ cần một cái tên trần trụi là đủ. Gọi tổng thống, gọi thủ tướng, đảng viên gọi tổng bí thư cũng chỉ gọi bằng cái tên trần trụi. Chẳng có gì là bất kính, là hỗn hào, là láo xược cả-ở ta mà gọi thủ tướng, tổng bí thư bàng cái tên là không quen, không thể được, là bất kính, là qúa trớn, và trong hội họp gọi như vậy là nguy tai, nói chuyện riêng với nhau mà gọi như vậy là có thể bị báo cáo, bị chất vấn, bị xét hỏi về chính trị, bị phiền phức, rầy rà đến suốt cả đời.
Tôi đến thăm một gia đình Việt kiều- Anh tham gia phong trào ủng hộ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở bên nhà từ rất sớm. Chị người Pháp, vào đảng cộng sản, rồi từ năm 1982 chuyển sang đảng xã hội. Con gái đầu của anh chị làm nghề vẽ quảng cáo. Cháu theo chủ nghĩa Mao từ những năm đầu học đại học Mỹ thuật, nay lại chuyển sang đảng xã hội. Đó tính chất đa nguyên ở trong gia đình. Họ thảo luận, đôi khi tranh luận náo nhiệt, nhưng tôn trọng nhau, tôn trọng sư suy xét, lựa chọn của mỗi người, và họ rất phục thiện. Trước hết là phục thiện với chính minh. Mình thấy con đường nào đúng, tổ chức nào đúng thì theo. Không bắt chước, không a-dua, không mù quáng, luôn tỉnh táo, và xử dụng trọn vẹn quyền lựa chọn của chính mình. Dân chủ là thế. Mỗi người chọn chỗ đứng của mình, dùng là phiếu của mình để chọn mặt gửi vàng. Đó là thước đo công bằng. Đảng xã hội Pháp hiện nay có được chừng 30 % tín nhiệm trong cử tri. Ba đảng phái hữu được hơn 40 % : Đảng cộng sản thuộc phái tả, xưa kia có lúc lên đến 32 % (đảng dẫn đầu nước Pháp, đảng của những người bị xử bắn), rồi 26 %, nay chỉ còn 8 %- Đang cực hữu của Le Pen, mang tính chất kỳ thị chủng tộc được 10 % vào giữa năm 1991. Có dân chủ, có cạnh tranh về chính trị, mỗi đảng phải tự lo xây dựng mối quan hệ với cử tri, phải có đường lối được cử tri tán thành, có biện pháp thực hiện, nội bộ giữ gìn ngay thật, trong sạch, không bị tai tiếng, không có xỉ căng đan trước dư luận.
Tôi quan sát nhiều cuộc biểu tình rộng lớn của học sinh trung học toàn nước Pháp hồi đầu tháng 11. 1990. Nội dung đấu tranh là đòi nâng cao chất lượng giảng dạy, sửa sang và trang bị lại các lớp học, giảm số học sinh mỗi lớp, trên dưới 40 xuống 35, xây dựng thêm trường lớp nơi đông dân cư. Các thầy cô giáo, cha mẹ học sinh tham gia rất đông đảo. Cuộc đấu tranh lớn ở Paris, Lyon, Bordeau, Marseille...lan nhanh ra cả nước. Các đòan học sinh đáp xe lửa, xe buýt từ các tỉnh đổ về Paris. 300. 000 học sinh biểu tình từ quảng trường La Bastille, qua Austerlitz, vòng về Champs Elysees trước trự sở của chính phủ Pháp. Biểu ngữ, cờ, khấu hiệu căng khắp nơi, truyền đơn phân phát rộng rãi, và tiếng hô của họ vang động cả Paris. Tôi đứng hàng giờ quan sát, rồi đi cùng các đoàn. Những đòan học sinh trẻ, từ 12 đến 18 tuổi hừng hực khí thế, vừa hát vừa đi, vừa hô khẩu hiệu, vừa đi, nghiêm chỉnh, tươi vui, suốt từ 9 giờ sáng cho đến tối mịt, trên một quảng đường dài gần 10 km. Thế là quyền thủ tướng, bộ trưởng bộ Giáo Dục Jospin phải tiếp các đại biếu, nhận các kiến nghị và trao đổi ý kiến với họ- Tổng thống Mitterand phải tiếp các đại biểu học sinh trẻ. Tôi thích thú, cảm thấy như trẻ lại khi đứng ở chỗ các nhà báo trước trụ sở quốc hội và trước phủ tổng thống, nhìn các đại biểu học sinh vai đeo cặp sách, đàng hoàng bước lên các bậc thềm lớn để vào nơi trang nghiêm nhất của chính quyền trung ương, ngồi đối diện với các bộ trưởng và nghị sĩ không chút mặc cảm, tự ty, họ trình bày rõ những yêu sách của mình, tranh cãi đàng hoàng. Và tối đó, qua các kênh truyền hình, hàng triệu người xem ti-vi của nước Pháp và thế giới được thấy cảnh ở trong điện Elysees, tổng thống Pháp Mitterand và các nhà chức trách cao cấp nhất của nước Pháp tiếp kiến, lắng nghe, thảo luận với hơn 20 học sinh trung học đại diện của các cuộc biểu tình tuần hành và chấp nhận những yêu sách ấy. Hai hôm sau, phủ tổng thống thông báo, chính phủ Pháp đã quyết định trích ngay từ ngân sách dự trữ 5 tỷ Francs (gần bằng 1 tỷ đô la) để chi cho việc mở rộng trường lớp của các trường trung học, đáp ứng một phần yêu sách của cuộc đấu tranh...Đại diện hoc sinh trung học quyết định: tất cả trở về học tập bình thường, ghi nhận sự đáp ứng bước đầu của tổng thống và chính phủ, kiên quyết đấu tranh tiếp tục vì chất lượng giáo dục trung học là nền tảng của chất xám, của văn minh và văn hóa quốc gia...Có những khẩu hiệu rất được dư luận chủ ý như: Không một Franc cho chiến tranh vùng Vịnh! Bớt ngân sách quân sự cho giáo dục quốc dân! Giáo dục trung học là nền tảng của tương lai! Chúng tôi muốn học giỏi, hãy bảo dảm điều kiện cho chúng tôi!...
Tôi nhìn lớp lớp học sinh phấn chấn trở về trong đêm với khí thế của những chiến sĩ vừa thắng trận, ca hát vang ở các bến tầu điện, các ga xe lửa mà nhớ, mà tủi cho các em học sinh trung học và đại hoc ở nước ta! Bao giờ các em cũng sẽ tổ chức được đội ngũ của mình, đề ra yêu sách thiết thực và giành được nhung quyền lợi thiết thân như thế...ở ta người ta hay nói về quyền làm chủ, nhưng lại không có phương tiện và biện pháp để thực hiện cái quyền tối thiểu ấy trong xã hội!
Tôi rất chú ý đến hành động của cảnh sát Paris với cuộc biểu tình này. Cuộc đấu tranh được các ban đại diện học sinh hoạch định rất kỹ, với một kỹ năng tổ chức và huy động rất cao, thành kế hoạch cụ thể. Những ai dự, từ đâu đến, giờ giấc ra sao, ai phụ trách, những điểm tập trung, lộ trinh tuần hành đều được quy định thống nhất. Cảnh sát được Ban lãnh đạo biểu tình thông baó trước hai ngày, và chính cảnh sát trưởng Paris phải huy động hơn 3000 cảnh binh với 30 xe buýt tỏa đi dọc các tuyến đường để bảo vệ an toàn cho các người tham gia đấu tranh. Thật là lý thú.
Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ học sinh đi đấu tranh, ngăn ngừa bọn càn quấy, bọn phá dám, bọn lưu manh trà trộn vào, chúng gỉả danh học sinh để gây chuyện, phá phách các cửa hiệu nhằm cướp bóc.
Báo chí và truyền hình đưa rất đầy đủ tin tức của cuộc đấu tranh. Có đến hơn 20 tờ báo hàng ngày ở thủ đô và 6 kênh truyền hình - Các báo và đài đều có một cuộc cạnh trạnh, khi thì công khai, khi thì ngấm ngầm để đưa tin được sớm nhất (đua nhau đến từng phút như đưa tin chiến sự vùng Vịnh), đủ nhất và chính xác nhất. Trình độ nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp cao, các thiết bị in và truyền tin hiện đại. Dư luận là người trọng tài công tâm nhất, người cho điểm, người phán xét thật sự. Mối quan hệ giữa báo, đai, người xem, người nghe thật bén nhậy. Việc thăm dò, bình xét thái độ và ý kiến của công chúng là tức thời. Đang có cuộc tranh luận chính trị giữa hai người A và B. Ngay trong thời gian tranh luận, ai khen, hay chê A hay B, chỉ việc quay 4 số ở máy điện thoại rồi phát biểu ý kiến là đài có máy tính điện tử tổng hợp tức thời và đưa ngay kết qủa lên truyền hình. Ví như ông A được 42% ý kiến tán thành, ông B được 35% ý kiến tán thành, 23% chưa có ý kiến rõ trên tổng số 1000 người có ý kiến.
Trong làng báo Pháp có một tờ báo ở nước ngoài ít ai biết, nhưng người đọc ở Pháp thích thú vô cùng - Đó là tờ tuần báo "Con vịt bị trói" ra vào sáng thư nâm. Đây là tờ báo để cười, một tờ báo giải trí, được ăn khách nhất và cũng được lãi lớn nhất trong tất cả các tuần báo Pháp, bán chạy ở Paris, ở các thành phố và các vùng nông thôn. Mọi đảng phái, mọi tuối tác, nghề nghiệp đều ưa thích. Văn phong báo cực kỳ hóm hỉnh. Không có kiểu cù vào cột nhạt nhẽo, hay cù kiểu hạ đẳng, vô văn hóa. Báo này không thuộc đảng phái nào. Do đó, tôi nghĩ nó là tờ báo chính trị bổ ích lớn nhất cho cuộc sống dân chủ. Tờ báo chỉ trích, lên án, công kích một cách mỉa mai, chua cay mà hóm, tất cả những thói hư, tật xấu trong xã hội, dám vuốt râù những ông lớn nhất nếu như họ có dấu hiệu bê bối, không chút e dè, nể sợ. Báo "Con vịt bị trói" từ năm 1975 cho đến nay, vạch tội cả nhân viên phụ trách ngành hải quan, các quan tòa, rồi cả hệ thống thuế...Nó không buông tha bất cứ ai, từ tổng thống, thủ tướng, đến ông cẩm các quận, những tay buôn lậu, trốn thuế, những mafia tội ác và những kẻ phân biệt chủng tộc, nếu họ có thật những vấn đề, những xì căng đan. Đây là một công cụ lợi hại bảo vệ nền dân chủ và quyền công dân, cố giữ môi trường trong sạch cho xã hội. Tờ báo đươc dư luận quý trọng, tất cả những vấn đề nó nêu lên đều được ngành hữu quan ghi nhận làm cho sáng tỏ và phần không ít được trả lời, kết thúc, khép kín hồ sơ trên mặt báo. Các nhà báo sành nghề ở Paris bái phục "Con vịt bị trói" vì nó đụng chạm rất nhiều đến các vị tai to mặt lớn, có máu mặt và lắm quyền, đến nhiều tổ chức chính trị, kinh tế, tài chinh lắm thế lực-nếu hớ hênh là dễ bị chết kẹt, bị đưa ra tòa để bồi thường danh dự do tố điêu, tố láo...vậy mà "Con vịt bị trói" vẫn binh chân như vại, vẫn lớn tiếng kêu "cạc, cạc..." cho cả làng nghe, đế cả làng giải trí và phẫn nộ, để công bằng được thực hiện. Nó có tai mắt ở nhiều nơi, có hệ thống cộng tác viên ở lắm chỗ để làm công tác thẩm định, phán đoán có cơ sở, lượng định kỹ mọi chuyện trước khi gây cười cho độc giả.
Một điều được ghi thành văn trong hiến pháp các nước phương Tây và các văn bản pháp quy khác là không một ai có thể bị trừng phạt do những quan niệm chính trị và tư tưởng chính trị của mình. Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người cũng ghi rõ điều đó - ở các nước ấy, ai thích chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn tự do - Ai muốn theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin, hay chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trosky hay cả chủ nghĩa Staline là hoàn toàn tự do. Ai muốn ca ngợi Fidel Castro, Che Ghevara, hay Tito...là hoàn toàn tự do. Cũng như ai muốn theo Phật giáo, theo Kitô giáo, theo Hồi giáo...đều tự do cả. Không một ai được áp đặt cho ai một học thuyết nào, một lý luận, một quan điểm chính trị nào. Cả đến chính phủ, tổng thống và đảng được đa số phiếu cũng không được quyền, không được phép bắt buộc công dân tín nhiệm mình, phục tùng những chính kiến riêng của mình, ca ngợi, tâng bốc mình. Người công dân chỉ có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Mà pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân. Cho nên những chuyện ở ta như là đảng cộng sản cứ tự nhận là được nhân dân tín nhiệm, là nhân dân chỉ hoàn tòan tin cậy chúng tôi thôi, và yêu nước là bắt buộc phải yêu chủ nghĩa xã hội (mà chủ nghĩa xã hội nào, ra sao?), không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản bội...thì người phương Tây không làm sao hiểu nổi được! Nó trái với Hiến chương Liên hợp quốc, trái với hiến pháp các nước (và cả Hiến pháp của nước ta ghi rõ quyền tự do tư tưởng), nó có mầu sắc của những chế độ tiền tư bản, khi người dân đen không được láo xược với vua quan, vua là tuyệt đối sáng suốt theo mệnh trời, người dân chỉ được cúi đầu vâng dạ...
Rõ ràng chỉ có một nền dân chủ đa nguyên khi cho công dân nhiều lựa chọn, có cạnh tranh và có đối trọng. Người công dân có quyền tự do cao nhất là tự do suy nghĩ, tự do khen và tự do chê, tự do sử dụng lá phiếu bầu của mình, tự do tín nhiệm và tự do không tín nhiệm, bảo đảm một không khí chính trị lành mạnh, ổn định, thường xuyên phát triển và tiến bộ.
Điều nổi bật ở các nước tư bản là sự am hiểu luật pháp và tuân thủ luật pháp được biểu hiện ở khắp nơi. Nguyên tắc của nó là: người công dân có quyền làm mọi thứ, trừ những điều luật pháp cấm đoán. Cho nên phải biết từ khi còn nhỏ tuổi cho đến khi về già những gì luật cấm. Từ đi ra đường, đi làm, đi du lịch, mua bán, tậu tài sản, gữi tiền...đều có những luật lệ quy tắc rất chặt chẽ. Tôi không phạm luật lệ, tôi là người tự do, không ai đươc đụng chạm đến tôi. Tôi không sợ một ai hết, từ ông cẩm, ông cò, ông thị trưởng, ông hải quan, đến ông bộ trưởng, ông thủ tướng, ông tổng thống. Tôi đi đứng đàng hoàng, ung dung, thư thái với tất cả nhân cách bình đẳng với mọi người- Nếu có ai dụng đến tôi một cách phi pháp, nhà nước phải bảo vệ tôi, tôi có quyền thuê luật sư nếu như tôi chưa hiểu biết hết luật, để bảo vệ cho tôi một cách công bằng. Điện Panthéon là nơi chốn cất "những người con vĩ đại của nước Pháp". Không có tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng nằm đây đâu! Toàn là những nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng, nhà khoa học, bằng tài năng sáng tạo của mình, làm rạng danh cho đất nước. Phía trước điện là trường Đại học Luật khoa, trường lâu đời nhất, gần 200 năm. Nhà nước pháp quyền phải như thế- nắm quyền qua luật pháp-và luật pháp yêu cầu mọi người tuân theo, trên tinh thần bình đẳng của công dân. Các nhân viên cảnh sát ở Paris rất lịch sự, lễ độ. Cả những nhân viên cảnh sát giao thông mặc đồng phục xanh, đi phạt những xe đậu không đúng chỗ cũng lịch sự, nhưng cương quyết Không có: "Xin anh, xin chị thông cảm cho em..." như ở ta, mà đã phạt là phạt. Nếu không có tiền sẵn thì xem giấy, địa chỉ, gửi giấy phạt về nhà. Không trả đúng hẹn, thì bị phạt thêm. Cứ phép nước mà làm. Người có quyền không được cậy quyền thế, quát nạt, khinh người. Nhận tiền phạt đều có biên lai chính thức, có cuống đàng hoàng, không thể lèm nhèm. Luật pháp quy định chặt chẽ, bịt chặt mọi sơ hở. Suốt thời gian ở Paris, tôi chưa hề gặp một ai hỏi giấy tờ, vậy mà họ quản lý rất chặt chẽ những ai vừa đến nước Pháp, làm gì, ở đâu. Có anh Việt kiều ở đây hơn 30 năm, chưa một lần nào có ai hỏi giấy tờ cả, nhưng đến cuối năm phải khai đủ thứ: tình hình bản thân, gia đình, thu nhập, tính thuế, kinh doanh lỗ lãi, bảo hiểm, trợ cấp xã hội...Những dữ liệu trên đều được ghi và lưu tại các máy tính điện tử.
Tôi liên hệ đến tình hình đất nước. Rõ ràng, việc xây dựng một nhà nước phải trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp trị, xây dựng xã hội thành một xã hội công dân đã trở thành một yêu cầu cấp bách, nếu không dân chủ và công bằng vẫn chỉ là khẩu hiệu. Biết bao nhiêu luật pháp nữa cần đươc xây dựng. Trường đại học luật cần khẩn trương mở cưả đào tạo hàng loạt cán bộ pháp lý. Các luật sư cần phải được hành nghề rộng rãi. Và đảng phải tách khỏi nhà nước. Ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tách ra rõ rệt. Cái khó của ta là buông lỏng quá lâu theo tinh thần đảng trị rồi. Hồi xưa đảng còn trong sạch, dân có niềm tin và tinh thần tự giác, tự trọng rất cao. Nhưng khi lòng tham đã lan tràn từ trên xuống dưới, bất chấp pháp luật, nhà dột từ đỉnh nóc dột xuống, đạo lý không còn mà thiếu hẳn pháp lý để kiềm chế dục vọng thì xã hội mặc sức băng hoại. Từ năm 1945, các nhà luật học Phan Anh, Trần Công Tường và sau đó luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã đề ra việc xây dựng pháp luật là vấn đề cực kỳ cấp bách. Nhưng những ý kiến ấy đều bị bỏ qua, chỉ vì coi đảng là tất cả, đảng là "điều kiện cần và đủ" để xây dựng chính quyền rồi. Chính cái quan niệm đảng trị này là một nguồn gốc của sự hỗn loạn và xuống cấp của xã hội hôm nay.
Một điều cần nói rõ, nếu đảng thực sự tách ra khỏi nhà nước, đảng không còn bao biện, dẫm đạp lên chính quyền, đảng chỉ phát huy tác dụng bằng con đường thuyết phục như văn kiện của Đại hội đảng VII ghi rõ, thì đại hội VII lần này không nên làm ầm ĩ dư luận đến thế. Phải để cho việc bầu cử quốc hội mới và việc quốc hội ra các quyết định cần thiết là hệ trọng hơn, vì theo đúng Hiến pháp, "mọi quyền lực của nhân dân thuộc về các cơ quan dân cử. "



Với mọi quan hệ giao tiếp và thông tin ngày càng mở rộng, trái đất như bé nhỏ lại-Các nước như gần lại với nhau hơn-Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau giữa người nước này với người nước khác không phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò mà là một yêu cầu thật sự của cuộc sống, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa và tình cảm, mang lại những lợi ích thiết thực và lâu dài.
Trong hoàn cảnh Việt nam đang sống một cuộc sống riêng biệt, cách ly với cuộc sống thế giới, tôi là người may mắn được đi đến một số nước để dự hội nghị, đi tham quan và làm công tác báo chí...Tôi cho đó là những dịp may hiếm có để mở rộng tầm mắt, bổ sung sự hiểu biết của mình...
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi đã được tớí thăm gần hết-Từ Trung quốc, Liên xô đến Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, Hung ga ri, Bun ga ri...rồi Triều tiên tôi đều đã đi qua. Lào và Căm pu chia thì còn ở lại những thời kỳ khá lâu-Sau năm 1975, tôi có nhiều dịp đi ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Xanhgapo, Philipine. ở châu Phi tôi đã dự họp ở An giê, ghé qua Xê nê gan, Ai cập (thăm Kim tự tháp kỳ vĩ), và làm việc ở Etiopi và Zimbabue-ở châu Mỹ tôi đã từng làm việc ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York gần ba tuần, họp bàn tròn với những đại biểu các nước nói tiếng Pháp.
Phần lớn các chuyến đi là để làm công tác báo chí. Một số chuyến đi Indonexia, và Malaixia, cũng như Australia là theo danh nghĩa học giả, nhà nghiên cứu chiến lược, theo lời mời của Viện nghiên cứu chiến lược Gia các ta, Viện nghiên cứu chiến lược Kuala Lampue và trường đại học Griffith ở thành phố Brisbane, Australia-Các chuyến đi Angiê ri, Ethiopia, Bình Nhưỡng (Bắc Triều tiên) của tôi là trên danh nghĩa ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết á Phi của Việt nam đi dự những cuộc họp về đề tài chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, và tình hình chính trị, quân sự trên bán đảo Triều Tiên...
Tôi đã dự những cuộc tiếp đón long trọng, những cuộc đại yến chiêu đãi thượng khách ở những thủ đô lớn. Đó là buổi Tổng bí thư Brezhnev cùng nguyên soái Ustinov tiếp đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn đại biểu quân sự Việt nam ở điện Kremlin. Đó là buổi đại yến ở Đại lễ đường nhân dân do nguyên soái Điệp Kiếm Anh và tướng Trần Tích Liên khoản đãi đại tướng Giáp. Và sau đó là cuộc gặp gỡ với chủ tịch Hoa Quốc Phong. Đó là cuộc chiêu đãi trọng thể của bà Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandi mời Tổng bí thư Lê Duẩn trong nhà khách danh dự của chính phủ Ấn Độ. Nhân danh nhà báo tôi đã hỏi chuyện tổng thống Souharto, tướng Tổng tư lệnh Muadani của Indonexia, chủ tịch Nengistu Haisle Mariam của Ethiopia (vừa bỏ chạy sang Zimbabue tháng 5. 1991), thủ tướng Mugabe của Zimbabue, ngoại trưởng Manglaput của Philipin và thủ tướng Ragib Gandhi của ấn Độ...Năm 1986 tôi cũng từng qua Nam Mỹ, đến Buenos Aires của thủ đô Argentinia dự cuộc hội báo của tuần báo "Quepasa" của đảng cộng sản Argentinia và thăm một số tỉnh của phía Nam nước này.
Mỗi chuyến đi làm tôi thêm mở mắt một chút. Tôi thường tách khỏi các đoàn chính thức, thâm nhập cuộc sống của người dân bình thường, của tầng lớp trí thức, của các đồng nghiệp làm báo để có thông tin trực quan, từ nhiều đối tượng, nhiều tiếng chuông, do đó đáng tin cậy nhất.
Hàng chục lần ở Trung Quốc, từ Nam Ninh, Liễu Châu, Vũ Hán đến Bắc Kinh, Thượng Hải...cho tôi nhận thức rất nhiều vẻ về đất nước này. Thời kỳ trước 1965, những panô lớn Bắc Kinh và các thành phố lớn là hình Mao, là hình hai anh em Trung-Xô tay nắm tay tiêu biểu cho tình hữu nghị vĩ đại. "Lão tà cơ (Người Anh Cả)". Người anh cả Liên Xô hồi ấy là thần tượng của người dân Trung Quốc. Phong trào học tiếng Nga lan rất rộng. Rồi đến cảnh đấu tố trong cách mạng văn hóa vô sản. Rất Tầu, nghĩa là ầm ĩ, xô bồ, ồn ào, bát nháo, số đông theo nhau, học đòi nhau, lôi kéo nhau...Một đám đông theo định hướng cưồng nhiệt, cuồng tín, cuồng động, không cho phép nói ngược, đặt câu hỏi. Số đông là chân lý, số đông là sức mạnh. Một tỷ người, một tỷ cái đầu tuân theo một hiệu lệnh. Mọi ho hoe chống đối lập tức bị coi là phản bội, đáng nhổ vào mặt, đáng đội mũ lừa dong trên đường để mọi người mắng mỏ, xỉ vả, nguyền rủa.
Tôi đã thu được biết bao tài liệu Trung quốc ở Căm pu chia, từ Hiệp định quân sự ký giữa hai nước hồi tháng 17. 71976, về công binh Trung quốc sang xây dựng sân bay Kong pong Chnang, dài rộng nhất Đông Nam á, về lời khen của Mao Trạch Đông khi xiết chặt và lắc đi lắc lại bàn tay đẫm máu của Pôn Pốt: "Xin chúc mừng! Hảo, hảo à-Các đồng chí đã lập nên kỳ công của lịch sử, diệt hết bọn tư bản, bọn địa chủ bóc lột bọn tay sai phản động chỉ trong thời gian ngắn! hảo a, hảo a!" Một cuộc cách mạng bằng gậy, bằng vồ, bằng cuốc đập vào đầu hàng triệu con người! Nhân danh chủ nghĩa xã hội, chũ nghĩa cộng sản thuần chất, trong sạch nhất, nhân danh chủ nghĩa Mác Lê Nin, những định tạo nên mẫu mực cho cách mạng vô sản thế giới!
Tôi đã ngắm nhìn rất lâu chiếc ảnh bìa của báo Newsweek tháng 6. 1989: Một đòan xe tăng, xe bọc thép Trung Quốc gắn súng lớn trên quảng trường Thiên An Môn dừng tất cả lại trước một thanh niên tay cầm sách vở, chiếc áo vắt vai, tự nhiên, điềm tĩnh lạ thường-sắt thép chùn bước trước con người. Để sau đó sắt thép khạc lửa, khạc bão lửa vào đám đông, đem lại cái chết cho hàng ngàn con người, dìm trong máu khát vọng dân chủ. Và đó là chủ nghĩa xã hội ư? Là nhân đạo cộng sản ư?
Tôi nhớ lại những quyển Mao tuyển hồi cách mạng văn hóa vô sản. Tôi thấy những mầu đỏ rực ấy hồi 1965 trên hè phố Bắc Kinh. Cờ đỏ, sách báo đỏ, huy hiệu đỏ, khẩu hiệu đỏ. Cái gì cũng nhiều, cũng lóe mắt-Vào hiệu sách, người bán, người mua cùng ngừng lại để tụng vài đoạn Mao tuyển...Trên hè phố, trong vườn hoa, trẻ em tay cầm Mao tuyển, miệng hát đồng ca Mao chủ tịch! ở bệnh viện người ta tụng Mao tuyển để chữa bệnh với niềm tin vu vơ! Và cách mạng đựơc hiểu là lật nhào mọi giá trị cũ. Học sinh đại học kéo cổ thầy giáo xuống bắt qùy, cho đội mũ lừa đi dong phố xá. Tôi gặp những sinh viên Bắc Kinh buộc phải trốn sang đây, ở Paris, làm người Trung hoa lưu vong vì cái tội mê say dân chủ đúng hai năm trước. Các anh chị còn rất trẻ ấy vẫn một niềm tin: "khát vọng dân chủ bị dập bởi bạo quyền, nhưng nó âm ỉ, nó không tắt, nó chờ thời cơ. Tất cả đau nhục là thuốc nổ, sẽ bùng lên khi các cụ gìa cộng sản-phong kiến nhắm mắt.
ở Liên Xô hồi 1965, tôi đã vào viếng lăng Lê Nin-Stalin, cả hai chữ ấy in trên đá vân phủ trên mộ lớn, đi vào trong là hai quan tài kính Lê Nin ở bên phải (hướng nhìn ra) và Stalin ở bên trái. Stalin với bộ quân phục và huân chương đầy ngực làm cho Lê Nin nằm bên như bé hẳn lại...ít lâu sau, Stalin biến mất khỏi lăng. Bao điều bí ẩn phơi bầy ra ánh sáng. Con người được sùng bái, ca ngợi, yêu mến như thần tượng bị hạ bệ xuống tận bùn đen về sự xảo trã, sự độc ác khát máu, tính vô nhân. Từ 1985, cơ quan an ninh quốc gia KGB thú nhận đã can thiệp thô bạo quyền công dân, dựng nên vô số vụ án oan, vụ án giả. Tháng 9. 1990 tôi đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô trên đại lộ Karl Marx. Ngôi nhà đồ sộ nay vắng tanh vắng ngắt, trong khi ngay cạnh đó, người ta xếp hàng thành đuoi dài để mua bánh mì và...diêm! Mấy anh cán bộ Đài phát thanh Moscow kháo nhau lo lắng: Còn một tuần nữa phải khai cho xong hộ khẩu từng gia đình để chuẩn bị nhận thẻ phân phối thực phẩm và các hàng hiếm khác! "Trở lại y như thời chiến và mấy năm sau chiến tranh!" "Lùi lại gần nửa thế kỷ!" Giá cả đang lên dữ dội! Tôi đã từng đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô hồi 20 năm trước, đâu có vắng như chùa bà đanh hôm nay! Hồi ấy người ta ra vào tấp nập, các đoàn xe đen bóng loáng đỗ tại bãi xe cực lớn phía bên, người ta ăn mặc chỉnh tề, sách cặp lên xuống, vẻ trang nghiêm mà hối hả. Giá cả đứng nguyên một chỗ trong hàng 30 năm ròng. Họ khắc vào chân chiếc quạt máy 18 rúp 2, vào chiếc bàn là 6 rúp 6 là cứ như vậy suốt hàng chục năm...
Trước kia phần lớn người Việt nam đều cho rằng người Liên Xô ai cũng tốt cả. Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai. Đó là mẫu mực của con người mới, con người lao động hăng say, có năng xuắt cao và có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa cao quý- Mọi người đều quý mến và tin cậy chuyên gia Liên Xô...
Tháng 4. 1986, tôi ghé qua Liên Xô trên đường từ Berlin về nước. ở Moscow, tôi gặp đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam. Có anh em vốn là đại tá quân đội chuyên ngành, quen biết tôi từ lâu- Thế là tôi được biết rõ thêm về sự cộng tác Việt Xô trong tổ chức Việt -Xô Pétro, tổ chức hợp tác để tìm kiếm và khai thác dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Chuyên gia Liên xô trước kia nhiều người tốt. Nhưng không ít người nặng về quyền lợi riêng của đất nước mình. Cơ quan nhà nước Liên Xô là cả một hệ thống nặng nề, cồng kềnh, làm việc quan liêu, thông tin thiếu chặt chẽ, quan hệ dọc còn chậm và quan hệ ngang rất lỏng lẽo. Việc hợp tác về dầu khí những tưởng thuận buồm xuôi gió, rằng Liên Xô giúp Việt Nam rất vô tư và hào phóng vì Liên Xô ứng ra hàng chục tỷ rúp mua biết bao thiết bị đắt tiền và hiện đại...Thế nhưng sau gần 10 năm làm việc, phía ta khôn dần lên, thì té ra không phải hoàn toàn như vậy! Liên Xô đã đưa sang quá nhiều chuyên gia, cả những chuyên gia mà ta có khả năng tự đảm nhận, tạo thành cả làng chuyện gia ở Vũng Tàu (cũng như làng Liên Xô ở công trình thủy điện Hòa Bình). Những chi phí lớn ấy ngoặm khá nhiều vào số tiền họ ứng ra và cho ta vay nợ. Gía cả ta tính cho bạn cũng rất hớ, từ tiền nhà, cung cấp nhu yếu phẩm, đưa đón họ, phục vụ họ di chuyển...đều với giá hữu nghị...Đã vậy những thiết bị họ cung cấp cho ta, có thứ mua từ Ấn Độ, từ Hồng Kông, từ Singapore đưa tới, ta đều tính theo hóa đơn họ đưa, cao hơn rất nhiều giá bạn mua thật sự! Có anh cay cú bảo tôi: Đó, bạn thân thiết, ông anh cả, tinh thần quốc tế vô sản cao cả là như vậy đó. Càng là anh em càng lèn cho đau! Đây là bài học rất sâu sắc. Ta dại dột, ngây thơ qúa. Dại từ ông lãnh đạo trên cao xuống cán bộ các Bộ, các tổng cục...Cuối cùng, nhân dân ta phải gánh chịu tuốt.
Tôi đã ghé Cộng hòa dân chủ Đức 4 lần. Tháng 10. 1965 tôi đã đến cổng Brandenburg nhìn sang trụ sở quốc hội Đức cũ ở Tây Berlin. Bức tường Berlin dựng lên vừa được ba năm. Tôi được viên trung tá Muller chỉ huy đơn vị biên phỏng dẫn vào phòng chỉ huy, nghe giới thiệu trên bản đồ và qua một cuốn phim việc xây dựng bức tường kiến cố này, cũng như hệ thống phòng thủ bằng điện tử, mìn, giây điện, hệ thống canh gác cẩn mật ngăn cách đông với tây Berlin, chia cắt Cộng hòa dân chủ Đức với Cộng hòa liên bang Đức. Không ai có thể nghĩ rằng bức tường kiến cố ấy đã bị phá không phải bằng tiến công quân sự, mà bằng ý muốn của nhân dân. Anh Horn, hồi ấy là cán bộ phòng Việt nam trong vụ châu á bộ ngoài giao CHDC Đức, đã hướng dẫn chúng tôi đi thăm Dresden, nơi có bản doanh của bộ đội khối Vacsovie, thăm Leipzig, Potsdam, thăm Weimar, nơi có di tích phòng làm việc của văn hào Goethe, thăm lò thiêu người của phát xít Hitler ở Buchenwald, thăm hải cảng ở phía bắc Rostov. ở Berlin, anh cùng cả gia đình đưa tôi lên tháp truyền hình cao gần 300m gọi là Télé-Café, nơi có cửa hàng giải khát quay 360 độ mỗi giờ, để ngồi ngắm quang cảnh đông và tây Berlin buổi chiều và ban đêm...ít lâu sau tôi gặp anh ở Hà Nội, anh đã là bí thư thứ nhất đại sứ quán CHDC Đức ở Việt nam. Sau đó tôi ghé Viêntian thì anh là đại sứ CHDC Đức tại Lào. Sau năm 1979, anh là đại sứ đầu tiên của CHDC Đức ở Pnom-penh rồi trở về công tác tại Bộ ngoại giao với chức Vụ trưởng-Một nhà báo ở Berlin sang Hà Nội đầu năm 1989 cho biết anh có thể sắp là thứ trưởng ngoại giao. Hôm nay nhớ đến Berlin, tôi lại nhớ đến anh. Bức tường ngăn cách đã biến mất, nước Đức đã thống nhất trong vui buồn lẫn lộn...Không biết anh và gia đình nay ở đâu, làm gì? Anh còn ở ngành ngoại giao? Có còn là cán bộ của đảng viên của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức? Những quan niệm về chủ nghĩa Mác, Lê Nin, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa quốc tế vô sản của anh hồi ấy nay đang được anh nhìn nhận ra sao, sau biết bao biến thiên đột ngột và sâu sắc hơn một năm qua...
Tháng 4. 1986 tôi dự đại hội đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức ở cung Cộng hòa Berlin. CHDC Đức đã có những bước tiến rõ rệt trong xây dựng, dẫn đầu các nước xã hội chủ nghĩa về sản xuất các hệ thống CAD-CAM (Computer aided designed - Computer aided manufactured), về máy tính điện tử tốc độ cao. Tuy vậy nước này vẫn một mực đứng ngoài việc "đổi mới và ngay thật" (perestroika và glasnost), tự cho rằng đã thực hiện điều đó từ khá lâu rồi, đã đứng ở trong số 10 nước công nghiệp hóa cao nhất thế giới. Tôi không ngờ đó là đại hội cuối cùng của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức trên cương vị cầm quyền. Một đảng nổi tiếng trong các nước xã hội chủ nghĩa là rất nghiêm, bản chất công nhân rất đậm, kỷ luật rất chặt, tính thống nhất cao và đất nước có nền an ninh rất vững! CHDC Đức và Liên Xô là hai nước giúp đỡ tận tình nhất cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam về mặt an ninh, như đào tạo cán bộ về các mặt chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm về phát hiện điều tra, xét hỏi, về xử lý các phương tiện thông tin, kỹ thuật chuyên môn trong công tác an ninh và phản gián...Những năm gần đây cơ quan mặt vụ Liên Xô KGB đã được chấn chỉnh khá sâu sắc, đã thải loại hàng chục nghìn nhân viên có sai lầm nghiêm trọng gây oan ức biết bao công dân lương thiện. KGB đã công khai tạ tội trước nhân dân về những hành vi lạm dụng quyền hành, vu cáo, chụp mũ một cách độc đoán, vi phạm nặng nề hiến pháp và pháp luật Liên Xô, đã minh oan cho nhiều công dân, trong đó có nhiều nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo...Hàng chục nghìn người đã chết trong cảnh tù đầy và oan ức. Tháng 6. 1991 vừa qua, nhiều tờ báo ở Moscow đưa tin, nhà văn kiêm nhà báo Alexandre Cheltalinski thành viên của "ủy ban bảo về di sản văn học của những nhà văn bị đàn áp, " được sự giúp đỡ tận tình của ủy viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Liên Xô Alexandre Yacovlev và được phép của viện kiểm sát tối cao Liên Xô đã khui được một đống tài liệu tuyệt mặt cực kỳ quý giá trong kho tư liệu lưu trữ của cơ quan KGB. Nhà báo này được đọc nhiều biên bản hỏi cung, nhiều bản thảo có giá trị đã bị tịch thu dưới thời Stalin, trong đó những tác phẩm độc đáo của Platsnov, của Bulgacov, của Isaccs Babel, của linh mục Pavel Flarenski, của Guopuy Davidox. Nhiều tập nhật ký viết ngay trong nhà tù của KGB ở cạnh trụ sở này, tác giả đã bị xử bắn, hoặc đã chết trong tù do bị tra tấn và ngược đại. Một số cán bộ của KGB cố tình dấu diếm những hồ sơ và tác phẩm trên đây đã bị phát hiện, thải loại và chờ ngày xét xử trước pháp luật.
ở CHDC Đức, chính vào ngày bức tường chia cắt đông-tây bị sụp đổ, viên tướng cầm đầu cơ quan an ninh STASI (An ninh quốc gia của nhà nước và của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức) đã tự kết liễu mình bằng một phát đạn súng ngắn. Con người có uy quyền gần như tuyệt đối, từng hét ra lửa, đã hoảng sợ trước sự vùng dậy của quần chúng hay đã hối hận về những việc làm quá đáng của mình. Hắn đã cho bắt bớ, xử lý thô bạo, không theo pháp luật nhiều công dân chân chính, chụp mũ bừa cho những ai đấu tranh cho dân chủ là tay sai phát xít, tay sai của CHLB Đức, tay sai CIA, đầy đọa họ, gia đình và bạn bè họ...Hồi ấy, STASI là bàn tay sắt, có trụ sở to lớn, trang bị hiện đại ở khắp các vùng, còn to lớn và hiện đại hơn cơ quan GESTAPO hồi xưa, tiêu biểu cho một chế độ luôn lên gân và chỉ lo trấn áp những công dân bất đồng ý kiến...Cơ quan an ninh của ta từng tiếp thu nhiều kinh nghiệm của Liên Xô và CHDC Đức nên tìm đọc kỹ những bài báo, tài liệu được công bố về cơ quan KGB và STASI trong năm qua để chấn chỉnh kịp thời công tác của mình. Qua trả lời báo Nation (Băng Kok) của bộ trưởng Mai Chí Thọ, trong những cuộc họp báo của đại diện cơ quan phản gián Bộ Nội Vụ ở Hà Nội, cung cách nhận định và chụp mũ đối với nhà văn Dương Thu Hương và bản thân tôi là rất cũ, coi chúng tôi là những kẻ phản bội(!), phạm pháp(!), là bị đế quốc và phản động lôi kéo, mua chuộc, nguy hiểm cho an ninh quốc gia! Điều mà cơ quan KGB và cơ quan STASI đã phải từ bỏ và sám hối thì những người chỉ đạo cơ quan an ninh ở Hà Nội được họ huấn luyện vẫn còn bám giữ, vi phạm luật pháp và đi ngược lại quyền tự do, dân chủ của công dân...ở Hà Nội, ta cứ đi qua các đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Thượng Hiền mà xem. Các cơ quan an ninh rộng lớn, bề thế, cao đẹp đến lộng lẫy ra sao, thiết bị hảo hạng cho nơi làm việc, phòng họp, nhà khách ra sao...thì ở sát đó trường Đại học Mỹ thuật vốn có truyền thống từ đầu thế kỷ, hiện trong tình trạng đổ nát, bệ rạc, thầy giáo và sinh viên sống chật chội và nhếch nhác như thế nào. Điều mà cơ quan STASI bị dư luận ở Đức lên án đáng làm cho những người lãnh đạo Việt Nam, đậc biệt ở Bộ Nội Vụ suy nghĩ nghiêm chỉnh và rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước. Khi chính những người cầm đầu KGB và STASI thú nhận đã phạm tội nặng nề, khi đặt "một nhà nước ở trong một nhà nước, " có trách nhiệm thi hành luật pháp lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp, khi những người cầm đầu KGB đã công khai nói lên niềm hối hận, nỗi hổ thẹn của mình thì những người lãnh đạo cơ quan an ninh và bảo vệ chính trị (trong và ngoài quân đội) ở nước ta lẽ nào lại không biết hối hận và hổ thẹn gì về những việc làm sai trái của mình?
Theo tôi Budapest là thành phố đẹp nhất trên sông Danube với 8 chiếc cầu nối liền hai bờ: Buda ở phía dưới và Pest ở phía trên. Trụ sở quốc hội rất đặc sắc, soi bóng xuống dòng sông xanh. Người Hungari dễ thương, chân thành, cởi mỡ, giống người Việt Nam ở sự tinh tế và ấm cúng trong tình bạn. Hai lần ở thăm Hungari tôi nhận ra rất rõ sự gắn bó của dân tộc này với Tự do. Một nét "rất lạ": Hongarie là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất xưa nay vẫn cho phép công dân của mình được đi thăm viếng và du lịch bất kỳ nước nào-xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản chủ nghĩa, như sang áo, Nam Tư, ý, Pháp, Thụy Sĩ, và cả Mỹ, Canada, Anh...Trong khi bức tường ngăn cách hai nước Đức, trong khi công dân Liên Xô, Tiệp, Bulgarie hầu như không được ra các nước tư bản chủ nghĩa để tham quan du lịch. Tôi hỏi các bạn Hungari và được biết chính nhờ được tự do đi về mà rất ít người Hungari ở lại các nước đó. Người Hungari định cư ở nước ngoài không nhiều, họ gắn bó rất sâu đậm với quê cha đất tổ...Chính nét đặc sắc về tự do dân chủ đã làm cho Hungari là nước đi sớm nhất, từ hồi năm 1956, để tìm tòi một mô hình chính trị và kinh tế thích hợp với bản sắc dân tộc mình ở giữa môi trường châu Âu đầy những lực kéo theo đủ phương khác nhau. Chính do đó, sự chuyển đổi hiện nay của Hungari tuy đầy những phức tạp, khó khăn nhưng không hàm chứa nhiều bi kịch lớn như ở Đông Đức, Rumani, Anbani, Nam Tư, Ba Lan và cả Liên Xô nữa...
Đầu năm 1989, tôi có dịp ở Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) ba tuần lễ, dự một cuộc hội nghị của tổ chức đoàn kết á Phi bàn về tình hình quân sự và chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Chúng tôi tham quan khu vực Bàn Môn Điếm, trong khu phi quân sự ở vĩ tuyến 38, thăm thành phố Khai Thành cổ kính, với những khu vườn và ruộng trồng nhân sâm-một đặc sản của Bắc Triều Tiên, thăm những đập và hồ lớn ở miền Tây. Bình Nhưỡng là thủ đô được xây dựng lớn, rất nhiều nhà cao tầng được thiết kế và thi công sau chiến tranh. Tôi ở khách sạn Kô-ri-ô cao 44 tầng, cách đó không xa một khách sạn cao 105 tầng đang được hoàn tất. Phải công nhận cuộc sống ở đây còn kém khá xa Nam Triều Tiên, nhưng so với quá khứ thì một trời một vực. Bắc Triều Tiên chỉ có 19 triệu dân mà tài nguyên lại rất phong phú: Than, thủy điện, đá làm xi măng, quặng sắt thép, nhôm, vàng. Thủy sản nhiều, công nghiệp hóa chất sớm phát triển, vải lụa nhân tạo dồi dào, tính ra mỗi đầu người có đến hơn 40m/một năm. Người dân Bắc Triều Tiên vẫn còn sống trong môi trường cách biệt. Không được nghe đài nước ngoài. Không được xem sách báo nước ngoài, không được xem ti vi nước ngoài-Bất cứ ai phạm phải những điều cấm kỵ ấy đều có thể vào tù. Tôi gặp mấy chục cán bộ Triều Tiên, từ Tổng biên tập báo Rô-đông Shimun, đến ông Chủ tịch tổng công đoàn, Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại giao, giám đốc khách sạn Kuriu, cho đến ông phó chủ tịch thành phố Khai Thành, đại tà Rô và đại tá Kim ở Bàn Môn Điễm...tất cả đều "tụng" những câu giống nhau, gần như thuộc lòng "chúng tôi độc lập, tự do và hạnh phúc ngày nay là nhờ lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành, nhờ tư tưởng chủ thể của Người, lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành và lãnh tụ kính mến Kim Chung I (Kim Trung Nhất, con trai của ông Kim Nhật Thành) đã dìu dắt gần 20 triệu nhân dân Triều Tiên từ cuộc sống nô lệ đói nghèo đến cuộc sống hạnh phúc hôm nay..." Ai cũng mang huy hiệu ông Kim ở ngực, từ cán bộ cao cấp nhất đến người phát thư, người bảo vệ ở khách sạn, người quét rác trên hè phố. ở đây không còn một cửa hàng tư nhân nào, kể cả hiệu giải khát nhỏ, cửa hiệu cắt tóc cũng không. Người dân không biết perestroika ở Liên Xô, cũng chẳng biết cải cách ở Trung quốc ra sao hết. Các tờ báo của nhà nước chỉ đang hoạt động của lãnh tụ, ảnh của lãnh tụ đi thăm nơi này nơi khác. Nhà xuất bản trong nướcvà ngoài văn cũng chỉ có in và bầy bán các bài viết, bài nói của ông Kim Nhật Thành và người con sắp kế nghiệp bố. Những cuốn sách in rất đẹp, tít sách được in bằng kim nhũ, cùng những sách in về bố mẹ của ông Kim, được coi là "Quốc phụ" và "Quốc mẫu" của đất nước này, một số cuốn sách kể về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh...Một nền văn học đáng kính, để mà vái chào từ xa! Chúng tôi được dẫn đến xem Tháp Chủ Thể cao hơn 120 mét, trên cùng là một ngọn lửa lớn, riêng nó cao hơn 8 mét, kết bằng ánh sáng điện đỏ chói, ngày đêm lấp lánh. chân tháp là những viên gạch lớn bằng đá vân ghi tên và địa chỉ những câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu học thuyết Chủ Thể ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ Ai cập, Syri, Tunisie, ở Bắc Phi đến Columbia, Urugoay ở Nam Mỹ, từ Canada, San Francisco ở Bắc Mỹ đến Mo zambic, Madagaska ở Nam Phi, từ Bruxells (bỉ), Tây Ban Nha, Pháp, Anh ở châu Âu cho đến ấn Độ, Ceylan, Philipine ở châu á. Tháp được xây dựng bằng hơn 21. 000 khối đá hoa cương quý, vừa đúng bằng số ngày mà lãnh tụ tối cao họ Kim đã sống từ khi lọt lòng mẹ đến khi 60 tuổi tròn. Ngọn tháp lớn đỏ rực lửa này dựng lên để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 60 của lãnh tụ kiệt xuất. Chúng tôi cũng đã được ngắm vô vàn bức tượng bằng đá, bằng đồng, bằng xi-măng, bằng thạch cao của ông Kim rải ra trên khắp đất nước. Có điều gì rất không bình thường là từ tự do, no ấm đến hạnh phúc của mỗi con người ở đây đều được coi là đặc ân ban cho từ một con người kiệt xuất, có tài thánh. Con trai của vị thánh sống này sẽ được kế tục trị vì đất nước theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến. Trên dải đất thiên liêng, cứ mỗi mét vuông là có 120 mảnh sắt thép lớn nhỏ bom đạn, cuối cùng con người được tự do, với kiểu tự do như vậy!
Hồi 1987, ở thủ đô Adis Abebas của Ethiopie, tôi đi dạo một buổi chiều chủ nhật ở quảng trường Cách mạng, có bức tượng đá Lê-Nin cao hơn 6 thước, do một nhà điêu khắc Liên Xô làm cho nước này. Bức tượng được báo chí Liên Xô nhân xét là tiêu biểu cho sức mạnh của chủ nghĩa Lê Nin đã lan tới Châu Phi. Tôi nói với mấy anh bạn Việt Nam đi cùng hôm ấy: "Thật là quá sớm!" Khi người dân Ethiopie còn bị nạn đói từ Đông sang Tây, khi người dân da mầu ở đây còn đói chữ, giáo dục còn lâu mới được phổ cập, đã có ai hiểu gì mấy về Lê-Nin và chủ nghĩa Lê-Nin? Khi đảng cầm quyền ở đây tuy tự nhận là Mác xit lê-nin-nit nhưng tất cả các biểu hiện của nó lại còn mao ít hơn cả Mao! Cán bộ cơ quan nhà nước và cơ quan đảng bị bắt buộc nhất thiết phải mặc đồng phục mầu xanh kiểu đại cán Trung Hoa, mặc dù trời nắng như thiêu! Những lời của lãnh tụ, nguyên là đại úy Mengistu Mariam được in và ghi thành khẩu hiệu ở khắp nơi, như một kiểu Mao tuyển màu đỏ chót. Vừa rồi, ông Mengistu Mariam đã bỏ chạy sang Zimbabue và bức tượng Lê-Nin nói trên đã bị một số người dân trẻ nước này buộc dây thép vào cổ và dùng xe tải kéo cho đổ nhào. Họ nghĩ một cách giản đơn rằng đó là nguyên nhân của sự nghèo khổ và nội chiến liên miên ở đất nước bất hạnh này. Bức tượng Lê-Nin đã trở thành cái bung xung để hứng chịu mọi căm phẫn của nhân dân.
Tôi đã sang Argentina ở Nam Mỹ. Đây là cả một lục địa, mà kích thước về mọi mặt thật lớn, rừng rậm bạt ngàn, nợ nước ngòai cũng cực lớn (gần 300 tỷ đô la), có một bề dài đến 3000 km, có thành phố hơn 10 triệu dân và có những con sông rộng ơi là rộng, không phải chỉ rộng ở cửa biển, mà ngay quãng giữa đã rộng từ 3 đến 7 km! Đó là dòng sông Parana, phải đi trên máy bay, bay thật chậm nhìn xuống mới thấy hết cái kỳ vĩ của sông nước lục địa này!
Đó là bãi đất bằng phẳng rộng tít tắp gọi là Pampa, đường ôtô rộng chạy xuyên qua các vùng trồng cam, quýt, lê, táo mênh mông, chẳng có bóng người, những đàn ngựa, cừu, dê hàng ngàn vạn con, chẳng ai chăn dắt trên những bãi cỏ xanh vô tận...Con người ở đây sôi nổi, đi nhanh, nói lớn, ôm chặt, khiêu vũ sôi động, quay cuồng, thích màu sắc nóng...Họ ưa xem đua ngựa, vật bò tót, thích bóng chầy hơn bóng đá vì bóng đá thư thái, uyển chuyển qúa, chẳng mạnh mẽ, dữ dằn như bóng chày...Chính trong cai nhiệt tình Mỹ La tinh ấy, tôi đã làm bạn vỡi những người cộng sản Uruguay, Bolivie và Argentina...Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Và hơn một năm nay, họ băn khoăn, chán nản, vỡ mộng, nhưng vẫn tìm một con đường cho lục địa này. Một anh nhà báo Argentina gặp ở Hà Nội tháng 7. 1990 bảo tôi: "Có thời tao là mao ít, mao ít cuồng nhiệt. Cả thế giới không ai bằng Mao! Sau cách mạng Trung Quốc, tao vỡ mộng. Thế rồi tao yêu Fidel, yêu hơn cả người yêu. Nhà tao đầy ảnh Fidel, "ông có râu rậm", mấy thằng em tao bảo vậy. Thế rồi có một dạo xuống đường hô: Hồ! Hồ Chí Minh! Che, Che, Che, Che-Ghêvra! Nay thì chẳng biết hô gì, chẳng còn say mê ảnh ai nữa! Tao theo dõi chặt tình hình thế giới, tình hình Việt Nam, nay đến để nhìn cho rõ. Sao đất nước của Hồ Chí Minh thống nhất 15 năm rồi mà nghèo, mà đói, mà nạn cờ bạc, nạn gái điếm, nạn tham nhũng, nạn hối lộ trở thành nổi tiếng đến vậy? Người ta dặn tao là đến Việt Nam phải đề phòng ngay kẻo mất cắp!!!" Tôi nói đến tình trạng Việt Nam bị bao vây, cô lập, anh ta lắc đầu: "Không, không phải như vậy. Đó không phải là lý do. Cái đầu này này! Cái đầu lãnh đạo của Việt Nam ấy! Phải xem lại! Phải xem lại!"
Tôi đã nhiều lần ở thăm các nước láng giềng Đông Nam á:
Thái Lan, Malasie, Indonesie, Philipine...Bangkok ồn ào, ôtô chạy ầm ĩ, các kênh rạch giữa phố xá đen ngòm, hôi thối bên những cao ốc, siêu thị hiện đại, đầy ắp hàng hóa, để lại cho khách du lịch cảm giác căng thẳng, xô bồ. Kualămpua thoáng rộng, có hồ, nước, vườn cây xanh chứa muông thú giữa thủ đô để lại mọt ấn tượng êm mát thanh bình. Manila, bên cạnh những cao ốc 20, 30 tầng trên những đại lộ thênh thang là những dẫy phố nghèo, nhà cữa lụp xụp, đường ghồ ghề. Djacarta là thành phố rộng nhất khu vực Đông Nam á với hơn 200 khách sạn, 30 ngân hàng lớn với khu vực giải trí dựng theo huyễn thoại cho trẻ em, hấp dẫn cho cả người lớn. Nhưng vẫn lồ lộ khó khăn do nạn nhân mãn đè nặng lên đất nước: Gần 200 triệu dân chen chân trên những hòn đảo lộng gió...
Mỗi lần ghé qua nước bạn, đi một vòng thăm thú, lòng tôi canh cánh một nỗi đau cứ ngấm mãi-Hà Nội ta, thành phố Hồ Chí Minh ta, nước Việt Nam ta trên tất cả các mặt cứ tụt hậu, tụt hậu mãi thế này! Sân bay Băng cốc hồi 1973, 1974 còn kém khá xa sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Thế mà nay rộng lớn hiện đại hơn cả sân bay quốc tế Vnecouvô hay Chérémétivô ở Moscow! Hàng không Thái Lan vừa hợp nhất hai hãng hàng không nội địa và quốc tế, có hơn 200 máy bay, tỏa rộng đến 42 nước, được tiếng là phục vụ lịch sự nhất, sang trọng nhất Đông Nam á. Còn ở ta? Hàng không của ta? ở Djacarta, riêng xe ôtô con đã gần 1 triệu, còn xe buýt là 26. 000, 8000 xe tắc xi luôn tỏa trên các nẻo đường phục vụ sự đi lại của nhân dân thủ đô-Còn ta? Tôi ghé thăm những trường đại học ở Băng Cốc và Kualalampua thư viện, phòng họp, trường học...đều thiết kế rộng rãi, trang bị đầy đủ máy tính, máy ghi dữ liệu, máy hỏi và trả lời các bộ môn, học toán, lý, hóa, văn, sử, địa...đều bằng máy chiếu phim...Các trường đều có các phòng chơi thể thao đủ môn loại, nhà ăn, nhà giải khát, nơi đọc các loại sách báo. Câu lạc bộ được trang bị đầy đủ về âm nhạc, chiếu phim, ca hát, nhảy, múa...
Họ là những nước gần ta, điều kiện tự nhiên không có gì hơn ta, vậy mà họ đã cất cánh, tạo nên tốc độ trên con đường phát triển, đang là những con rồng dự bị của Châu . Theo thống kê của ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc, năm 1990 vừa qua thu nhập tính theo đầu người của Indônésie đã đạt 545 đô la Mỹ, Philipine đạt 727 đô la Mỹ, Thái Lan gần ta đạt 1. 418 đô la và Malaisie đã đạt tới 2. 300 đô la. Ta thì chưa tới 200 đô la! Cũng theo thống kê này năm 1990, Singapore và Hồng Kông đều đạt trên 12. 000 đô la Mỹ (gấp 60 lần ta)-Những nước phát triển cao như Australia (úc) và Anh đã đạt trên 16. 000 đô la, Pháp, Đức vượt 20. 000 đô la. Mỹ vượt 21. 000 đô la và Nhật bản đạt tới 23. 500 đô la- Nhân nói đến Nhật bản mà sức mạnh kinh tế và tài chính đã vươn tới đỉnh cao nhất của thế giới ngày nay, tôi nhớ đến cuộc nói chuyện với giáo sư Tari Yokohama ở khách sạn quốc tế Narita cuối năm 1988. Ông gần 70 tuổi chuyên nghiên cứu và dạy về kinh tế. Ông am hiểu chủ nghĩa Mác. Ông kể lại bí quyết làm giầu của người Nhật bản sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đó là nỗi tủi nhục của kẻ thua trận, nỗi lo sợ khôn nguôi của kẻ mắc nợ lớn do phải bồi thường chiến tranh cho Đồng minh, sự bó buộc phải trông cậy vào sức lao động của chính dân tộc mình trên đất nước quá nhỏ hẹp của mình mà thôi. Trong thất bại và tủi nhục của kẻ bị chiếm đóng, cả một dân tộc nín lặng, nhẫn nhục, bặm môi lại làm việc, cố kết với nhau. Ông ta cười giữa hai hớp rượu Sa-kê: "Hồi ấy chúng tôi dạy cho học sinh từ lớp thấp: Các em bất hạnh đã sinh ra trên đất Nhật này, một đất nước bị bom nguyên tử và bom đạn tàn phá, bị nhục vì thua trận, bị trừng phạt, bị mắc nợ lớn. Có thoát khỏi hoạn nạn này là do các em. Do nghi lực và tri tuệ của các em. Các em phải học cho giỏi, chiếm các lĩnh vực hiểu biết và các quy trình công nghệ tiên tiến nhất...Chúng tôi cho học sinh trẻ xuất sắc đi làm công và đi học: Nghề ôtô ở Mỹ, nghề làm máy thu thanh ở HàLan, nghề đồng hồ ở Thụy sĩ, nghề chế tạo máy ảnh ở Đức, nghề luyện kim, chế tạo cơ khí ở Pháp. Học, bắt chước họ để làm được như họ, rồi cải tiến, mỗi nghề một chút. " Sau đó ông kể rằng, người Nhật đã tận dụng một lợi thế lâu dài, đó là không có quân đội lớn, chỉ có một đơn vị dân phòng, lại không được sản xuất vũ khí, càng tốt! Ngân sách quân sự chỉ có 0, 6 %, mãi sau này mới nâng lên 1%, rồi hơn 1% ngân sách chung. Đêm ấy tôi nghĩ về đất nước Việt Nam của tôi. Trong khi mình huênh hoang là chiến thắng lịch sử huy hoàng vượt tất cả thời kỳ lịch sử hiển hách thời xưa, là đã toàn thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, rằng sẽ không còn ai dám động đến lông chân mình, rằng Việt Nam cứ ra ngõ là gặp anh hùng, rằng từ nay xây dựng thì dễ ợt, chẳng mấy chốc thì giầu to vì đánh giặc mới là khó nhất trên trần gian này, mà ta thì làm được một cách xuất sắc...Thế rồi càng bốc đồng: Nước ta rừng vàng, biển bạc, sông ngòi, bờ biển tha hồ nhiều tôm cá, làm chơi ăn thật, nay làm thật thì để đâu cho hết của...Sao lúc ấy không ai chỉ ra rằng ta đã mất bao nhiêu thời gian, sinh mạng trong chiến tranh, đã thua kém người ta trong xây dựng, phải tính rất cẩn thận bài toán phát triển đất nước, tận dụng từng chiến lợi phẩm, từng đồng vốn, tiết kiệm từng tấn nguyên liệu, đào tạo lại công nhân cán bộ kinh tế quản lý, kinh doanh...và nhất là phải đề phòng cái kiêu ngạo, tư phụ, coi trời bằng vung sau chiến thắng lớn này! Lẽ ra đại hội 7 phải nhìn lại một cách dũng cảm và ăn năn, hối hận trước nhân dân, xin lỗi nhân dân và cùng nhân dân đi vào con đường đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát, gỡ bỏ những bệnh tật đang hoành hành, bắt tay vào cuộc phấn đấu mới...Thế nhưng những người cầm quyền đã không làm được điều ấy! Cái khả năng "xin lỗi" và khả năng "nhận khuyết điểm" thật quá là mỏng manh, họ không tự vượt lên được chính mình!
Tôi ở Pháp đến nay đã được gần một năm. Tôi tận dụng thời gian ở đây để tận mắt tìm hiểu đất nước này, một nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tôi đã đến khá nhiều nơi ở Paris, ra vùng ngọai ô ở tất cả các hướng Tây, Bắc, Đông, Nam...tôi gặp gỡ hỏi chuyện các nhà kinh tế, chính trị, quân sự, sử học về nước Pháp, nước Pháp xưa kia, trong chiến tranh, sau chiến tranh và hiện nay...
Tôi từng đi các địa phương Lyon, Lille, Toulouse, Aix- en-Provence. Tôi đọc sách báo Pháp hàng ngày, có những buổi gặp gỡ thú vị với các nhà báo, nhà làm phim, nhà họat động chính trị thuộc nhiều mầu sắc-từ cực tả sang hữu. Nước Pháp đã để lại những ấn tượng mới mẻ đối với tôi, phong phú hơn nhiều so với nền văn hóa và văn học Pháp tôi tiếp thu khi còn ít tuổi- Nói về nước Pháp phải viết một cuốn sách dầy mới đủ. Tôi chỉ xin kể lại đây những điều sâu sắc.
Tự do cá nhân, tự do của công dân, là một quyền lợi, một thành tựu, một động lực rõ rệt của đất nước này. Tự do gắn với bình đẳng, với phát triển-Nước Pháp đúng là quê hương của cách mạng 1789, của: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Có người ở Việt Nam sẽ phê phán tôi đi ca ngợi chủ nghĩa tư bản! Rằng chính Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược, gây tai họa cho chúng ta. Tôi có lý do để căm thù đất nước này. Mẹ tôi, bà mẹ thương yêu vô vàn của tôi, bà mẹ nhân ái từng nuôi hàng chục con nuôi Vệ quốc quân, đã tắt thở vì những viên đạn ga-răng bắn vào giữa ngực ngay sau những ngày Tết Trung thu 1948. Một tốp lính lê-dương Pháp nhẩy dù xuống Vân Đình và tràn qua làng Liên Bạt quê tôi. Một tên chỉ điểm ở xã đã chỉ cho lính Pháp biết mẹ tôi là "vợ một Việt Minh cao cấp, " khi cha tôi đang là Trưởng Ban thường vụ quốc hội trên Việt Bắc. Cũng lại lính Pháp giết chết người bạn thân thiết nhất của tôi - người bạn con chấy cắn đôi - bạn Nguyễn Dung, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 14 trong một trận đánh ở Quảng trị năm 1947. Tôi đã vuốt mắt cho Dung và về sau còn vuốt mắt cho hàng trăm đồng đội thân thiết của tôi, với mối căm thù không nguôi quân xâm lược. Tuy vậy tôi vẫn giữ một cách nhìn khách quan đối với nước Pháp.
Đất nước của tự do từ những nét nhỏ. Vào hiệu ăn hay ở nhà, người Pháp chọn riêng cho mình rất kỹ từng món ăn-Người ta tôn trọng sở thích của nhau và mỗi người biểu hiện cái quyền sở thích của riêng mình-Lúc đầu tôi hơi lạ, chưa quen, có cá nhân quá không nhỉ? Thế là vào ăn hai người, ba người, bốn người, mỗi người tìm cho mình một thực đơn riêng. Anh ăn cá, tôi ăn gà, bạn này ăn thịt bò. Tôi uống rượu vang đỏ, anh uống rượu vang trắng, bạn kia uống bia Nhật, chị kia uống bia Tầu - Thuốc lá người hút, người không, nhưng anh này hút Camel, anh kia Philip Morris đậm, bạn kia nữa thì xì gà hay Gaulois. Đến nước chè cũng vậy - Anh chè có vị bạc hà, tôi chè Sri Lanka, chị kia chè Tizane...Thật lắm vẻ. Rượu thì khỏi nói, vài chục loại, tùy thích, mọi người một thứ, tự chọn, cho đến ở nhà, bữa cơm gia đình cũng vậy. Đã thành nếp, thành tập quán rồi. Người vợ muốn ăn cá hấp, anh chồng muốn ăn thịt bò, con trai thích thịt gà hầm, con gái thích xúp thịt cừu, khoai tây. ít khi ăn chung một món, trừ khi có đặc sản, có thức gì thật đặc biệt có bàn bạc. Cho đến khi ăn pho-mát, có cả một hộp lớn, có 6, 7 thứ pho-mát: Vị cừu, vị bò, có thứ hơi chua, có thứ rất mặn, thứ rắn, thứ mềm, thứ vàng, thứ trắng...mỗi người một sở thích...Trong gia đình ai ăn thứ gì, làm món ăn gì cứ tự tiện làm lấy-Khi bận thì cùng nhau làm, trao đổi ý kiến với nhau. Giờ ăn cũng vậy. Cứ việc tùy ý, tiện lúc nào thì ăn. Không ai làm phiền ai, cản trở ai, quấy rầy ai, làm khó chịu cho ai cả. Tôi quan sát cháu Alise bốn tuổi trong nhà tôi ở. Từ bé cháu đã vậy. Tự do lựa chọn, lễ phép, lịch sự mà lựa chọn, thoải mái mà lựa chọn.
Cháu có bà ngoại là chị Ngọc, ông ngoại là anh Jacques.
Thế mà từ khi biết nói đã gọi: Ngọc! Jacques! Gọi mẹ cháu cũng bằng tên: Luce! Gọi bố cũng bằng tên: Michel! Đó là thói quen, là phong tục, không cần thưa bẩm, không cần gọi rõ ông, bà, cha, mẹ. Chỉ cần một cái tên trần trụi là đủ. Gọi tổng thống, gọi thủ tướng, đảng viên gọi tổng bí thư cũng chỉ gọi bằng cái tên trần trụi. Chẳng có gì là bất kính, là hỗn hào, là láo xược cả-ở ta mà gọi thủ tướng, tổng bí thư bàng cái tên là không quen, không thể được, là bất kính, là qúa trớn, và trong hội họp gọi như vậy là nguy tai, nói chuyện riêng với nhau mà gọi như vậy là có thể bị báo cáo, bị chất vấn, bị xét hỏi về chính trị, bị phiền phức, rầy rà đến suốt cả đời.
Tôi đến thăm một gia đình Việt kiều- Anh tham gia phong trào ủng hộ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở bên nhà từ rất sớm. Chị người Pháp, vào đảng cộng sản, rồi từ năm 1982 chuyển sang đảng xã hội. Con gái đầu của anh chị làm nghề vẽ quảng cáo. Cháu theo chủ nghĩa Mao từ những năm đầu học đại học Mỹ thuật, nay lại chuyển sang đảng xã hội. Đó tính chất đa nguyên ở trong gia đình. Họ thảo luận, đôi khi tranh luận náo nhiệt, nhưng tôn trọng nhau, tôn trọng sư suy xét, lựa chọn của mỗi người, và họ rất phục thiện. Trước hết là phục thiện với chính minh. Mình thấy con đường nào đúng, tổ chức nào đúng thì theo. Không bắt chước, không a-dua, không mù quáng, luôn tỉnh táo, và xử dụng trọn vẹn quyền lựa chọn của chính mình. Dân chủ là thế. Mỗi người chọn chỗ đứng của mình, dùng là phiếu của mình để chọn mặt gửi vàng. Đó là thước đo công bằng. Đảng xã hội Pháp hiện nay có được chừng 30 % tín nhiệm trong cử tri. Ba đảng phái hữu được hơn 40 % : Đảng cộng sản thuộc phái tả, xưa kia có lúc lên đến 32 % (đảng dẫn đầu nước Pháp, đảng của những người bị xử bắn), rồi 26 %, nay chỉ còn 8 %- Đang cực hữu của Le Pen, mang tính chất kỳ thị chủng tộc được 10 % vào giữa năm 1991. Có dân chủ, có cạnh tranh về chính trị, mỗi đảng phải tự lo xây dựng mối quan hệ với cử tri, phải có đường lối được cử tri tán thành, có biện pháp thực hiện, nội bộ giữ gìn ngay thật, trong sạch, không bị tai tiếng, không có xỉ căng đan trước dư luận.
Tôi quan sát nhiều cuộc biểu tình rộng lớn của học sinh trung học toàn nước Pháp hồi đầu tháng 11. 1990. Nội dung đấu tranh là đòi nâng cao chất lượng giảng dạy, sửa sang và trang bị lại các lớp học, giảm số học sinh mỗi lớp, trên dưới 40 xuống 35, xây dựng thêm trường lớp nơi đông dân cư. Các thầy cô giáo, cha mẹ học sinh tham gia rất đông đảo. Cuộc đấu tranh lớn ở Paris, Lyon, Bordeau, Marseille...lan nhanh ra cả nước. Các đòan học sinh đáp xe lửa, xe buýt từ các tỉnh đổ về Paris. 300. 000 học sinh biểu tình từ quảng trường La Bastille, qua Austerlitz, vòng về Champs Elysees trước trự sở của chính phủ Pháp. Biểu ngữ, cờ, khấu hiệu căng khắp nơi, truyền đơn phân phát rộng rãi, và tiếng hô của họ vang động cả Paris. Tôi đứng hàng giờ quan sát, rồi đi cùng các đoàn. Những đòan học sinh trẻ, từ 12 đến 18 tuổi hừng hực khí thế, vừa hát vừa đi, vừa hô khẩu hiệu, vừa đi, nghiêm chỉnh, tươi vui, suốt từ 9 giờ sáng cho đến tối mịt, trên một quảng đường dài gần 10 km. Thế là quyền thủ tướng, bộ trưởng bộ Giáo Dục Jospin phải tiếp các đại biếu, nhận các kiến nghị và trao đổi ý kiến với họ- Tổng thống Mitterand phải tiếp các đại biểu học sinh trẻ. Tôi thích thú, cảm thấy như trẻ lại khi đứng ở chỗ các nhà báo trước trụ sở quốc hội và trước phủ tổng thống, nhìn các đại biểu học sinh vai đeo cặp sách, đàng hoàng bước lên các bậc thềm lớn để vào nơi trang nghiêm nhất của chính quyền trung ương, ngồi đối diện với các bộ trưởng và nghị sĩ không chút mặc cảm, tự ty, họ trình bày rõ những yêu sách của mình, tranh cãi đàng hoàng. Và tối đó, qua các kênh truyền hình, hàng triệu người xem ti-vi của nước Pháp và thế giới được thấy cảnh ở trong điện Elysees, tổng thống Pháp Mitterand và các nhà chức trách cao cấp nhất của nước Pháp tiếp kiến, lắng nghe, thảo luận với hơn 20 học sinh trung học đại diện của các cuộc biểu tình tuần hành và chấp nhận những yêu sách ấy. Hai hôm sau, phủ tổng thống thông báo, chính phủ Pháp đã quyết định trích ngay từ ngân sách dự trữ 5 tỷ Francs (gần bằng 1 tỷ đô la) để chi cho việc mở rộng trường lớp của các trường trung học, đáp ứng một phần yêu sách của cuộc đấu tranh...Đại diện hoc sinh trung học quyết định: tất cả trở về học tập bình thường, ghi nhận sự đáp ứng bước đầu của tổng thống và chính phủ, kiên quyết đấu tranh tiếp tục vì chất lượng giáo dục trung học là nền tảng của chất xám, của văn minh và văn hóa quốc gia...Có những khẩu hiệu rất được dư luận chủ ý như: Không một Franc cho chiến tranh vùng Vịnh! Bớt ngân sách quân sự cho giáo dục quốc dân! Giáo dục trung học là nền tảng của tương lai! Chúng tôi muốn học giỏi, hãy bảo dảm điều kiện cho chúng tôi!...
Tôi nhìn lớp lớp học sinh phấn chấn trở về trong đêm với khí thế của những chiến sĩ vừa thắng trận, ca hát vang ở các bến tầu điện, các ga xe lửa mà nhớ, mà tủi cho các em học sinh trung học và đại hoc ở nước ta! Bao giờ các em cũng sẽ tổ chức được đội ngũ của mình, đề ra yêu sách thiết thực và giành được nhung quyền lợi thiết thân như thế...ở ta người ta hay nói về quyền làm chủ, nhưng lại không có phương tiện và biện pháp để thực hiện cái quyền tối thiểu ấy trong xã hội!
Tôi rất chú ý đến hành động của cảnh sát Paris với cuộc biểu tình này. Cuộc đấu tranh được các ban đại diện học sinh hoạch định rất kỹ, với một kỹ năng tổ chức và huy động rất cao, thành kế hoạch cụ thể. Những ai dự, từ đâu đến, giờ giấc ra sao, ai phụ trách, những điểm tập trung, lộ trinh tuần hành đều được quy định thống nhất. Cảnh sát được Ban lãnh đạo biểu tình thông baó trước hai ngày, và chính cảnh sát trưởng Paris phải huy động hơn 3000 cảnh binh với 30 xe buýt tỏa đi dọc các tuyến đường để bảo vệ an toàn cho các người tham gia đấu tranh. Thật là lý thú.
Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ học sinh đi đấu tranh, ngăn ngừa bọn càn quấy, bọn phá dám, bọn lưu manh trà trộn vào, chúng gỉả danh học sinh để gây chuyện, phá phách các cửa hiệu nhằm cướp bóc.
Báo chí và truyền hình đưa rất đầy đủ tin tức của cuộc đấu tranh. Có đến hơn 20 tờ báo hàng ngày ở thủ đô và 6 kênh truyền hình - Các báo và đài đều có một cuộc cạnh trạnh, khi thì công khai, khi thì ngấm ngầm để đưa tin được sớm nhất (đua nhau đến từng phút như đưa tin chiến sự vùng Vịnh), đủ nhất và chính xác nhất. Trình độ nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp cao, các thiết bị in và truyền tin hiện đại. Dư luận là người trọng tài công tâm nhất, người cho điểm, người phán xét thật sự. Mối quan hệ giữa báo, đai, người xem, người nghe thật bén nhậy. Việc thăm dò, bình xét thái độ và ý kiến của công chúng là tức thời. Đang có cuộc tranh luận chính trị giữa hai người A và B. Ngay trong thời gian tranh luận, ai khen, hay chê A hay B, chỉ việc quay 4 số ở máy điện thoại rồi phát biểu ý kiến là đài có máy tính điện tử tổng hợp tức thời và đưa ngay kết qủa lên truyền hình. Ví như ông A được 42% ý kiến tán thành, ông B được 35% ý kiến tán thành, 23% chưa có ý kiến rõ trên tổng số 1000 người có ý kiến.
Trong làng báo Pháp có một tờ báo ở nước ngoài ít ai biết, nhưng người đọc ở Pháp thích thú vô cùng - Đó là tờ tuần báo "Con vịt bị trói" ra vào sáng thư nâm. Đây là tờ báo để cười, một tờ báo giải trí, được ăn khách nhất và cũng được lãi lớn nhất trong tất cả các tuần báo Pháp, bán chạy ở Paris, ở các thành phố và các vùng nông thôn. Mọi đảng phái, mọi tuối tác, nghề nghiệp đều ưa thích. Văn phong báo cực kỳ hóm hỉnh. Không có kiểu cù vào cột nhạt nhẽo, hay cù kiểu hạ đẳng, vô văn hóa. Báo này không thuộc đảng phái nào. Do đó, tôi nghĩ nó là tờ báo chính trị bổ ích lớn nhất cho cuộc sống dân chủ. Tờ báo chỉ trích, lên án, công kích một cách mỉa mai, chua cay mà hóm, tất cả những thói hư, tật xấu trong xã hội, dám vuốt râù những ông lớn nhất nếu như họ có dấu hiệu bê bối, không chút e dè, nể sợ. Báo "Con vịt bị trói" từ năm 1975 cho đến nay, vạch tội cả nhân viên phụ trách ngành hải quan, các quan tòa, rồi cả hệ thống thuế...Nó không buông tha bất cứ ai, từ tổng thống, thủ tướng, đến ông cẩm các quận, những tay buôn lậu, trốn thuế, những mafia tội ác và những kẻ phân biệt chủng tộc, nếu họ có thật những vấn đề, những xì căng đan. Đây là một công cụ lợi hại bảo vệ nền dân chủ và quyền công dân, cố giữ môi trường trong sạch cho xã hội. Tờ báo đươc dư luận quý trọng, tất cả những vấn đề nó nêu lên đều được ngành hữu quan ghi nhận làm cho sáng tỏ và phần không ít được trả lời, kết thúc, khép kín hồ sơ trên mặt báo. Các nhà báo sành nghề ở Paris bái phục "Con vịt bị trói" vì nó đụng chạm rất nhiều đến các vị tai to mặt lớn, có máu mặt và lắm quyền, đến nhiều tổ chức chính trị, kinh tế, tài chinh lắm thế lực-nếu hớ hênh là dễ bị chết kẹt, bị đưa ra tòa để bồi thường danh dự do tố điêu, tố láo...vậy mà "Con vịt bị trói" vẫn binh chân như vại, vẫn lớn tiếng kêu "cạc, cạc..." cho cả làng nghe, đế cả làng giải trí và phẫn nộ, để công bằng được thực hiện. Nó có tai mắt ở nhiều nơi, có hệ thống cộng tác viên ở lắm chỗ để làm công tác thẩm định, phán đoán có cơ sở, lượng định kỹ mọi chuyện trước khi gây cười cho độc giả.
Một điều được ghi thành văn trong hiến pháp các nước phương Tây và các văn bản pháp quy khác là không một ai có thể bị trừng phạt do những quan niệm chính trị và tư tưởng chính trị của mình. Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người cũng ghi rõ điều đó - ở các nước ấy, ai thích chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn tự do - Ai muốn theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin, hay chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trosky hay cả chủ nghĩa Staline là hoàn toàn tự do. Ai muốn ca ngợi Fidel Castro, Che Ghevara, hay Tito...là hoàn toàn tự do. Cũng như ai muốn theo Phật giáo, theo Kitô giáo, theo Hồi giáo...đều tự do cả. Không một ai được áp đặt cho ai một học thuyết nào, một lý luận, một quan điểm chính trị nào. Cả đến chính phủ, tổng thống và đảng được đa số phiếu cũng không được quyền, không được phép bắt buộc công dân tín nhiệm mình, phục tùng những chính kiến riêng của mình, ca ngợi, tâng bốc mình. Người công dân chỉ có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Mà pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân. Cho nên những chuyện ở ta như là đảng cộng sản cứ tự nhận là được nhân dân tín nhiệm, là nhân dân chỉ hoàn tòan tin cậy chúng tôi thôi, và yêu nước là bắt buộc phải yêu chủ nghĩa xã hội (mà chủ nghĩa xã hội nào, ra sao?), không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản bội...thì người phương Tây không làm sao hiểu nổi được! Nó trái với Hiến chương Liên hợp quốc, trái với hiến pháp các nước (và cả Hiến pháp của nước ta ghi rõ quyền tự do tư tưởng), nó có mầu sắc của những chế độ tiền tư bản, khi người dân đen không được láo xược với vua quan, vua là tuyệt đối sáng suốt theo mệnh trời, người dân chỉ được cúi đầu vâng dạ...
Rõ ràng chỉ có một nền dân chủ đa nguyên khi cho công dân nhiều lựa chọn, có cạnh tranh và có đối trọng. Người công dân có quyền tự do cao nhất là tự do suy nghĩ, tự do khen và tự do chê, tự do sử dụng lá phiếu bầu của mình, tự do tín nhiệm và tự do không tín nhiệm, bảo đảm một không khí chính trị lành mạnh, ổn định, thường xuyên phát triển và tiến bộ.
Điều nổi bật ở các nước tư bản là sự am hiểu luật pháp và tuân thủ luật pháp được biểu hiện ở khắp nơi. Nguyên tắc của nó là: người công dân có quyền làm mọi thứ, trừ những điều luật pháp cấm đoán. Cho nên phải biết từ khi còn nhỏ tuổi cho đến khi về già những gì luật cấm. Từ đi ra đường, đi làm, đi du lịch, mua bán, tậu tài sản, gữi tiền...đều có những luật lệ quy tắc rất chặt chẽ. Tôi không phạm luật lệ, tôi là người tự do, không ai đươc đụng chạm đến tôi. Tôi không sợ một ai hết, từ ông cẩm, ông cò, ông thị trưởng, ông hải quan, đến ông bộ trưởng, ông thủ tướng, ông tổng thống. Tôi đi đứng đàng hoàng, ung dung, thư thái với tất cả nhân cách bình đẳng với mọi người- Nếu có ai dụng đến tôi một cách phi pháp, nhà nước phải bảo vệ tôi, tôi có quyền thuê luật sư nếu như tôi chưa hiểu biết hết luật, để bảo vệ cho tôi một cách công bằng. Điện Panthéon là nơi chốn cất "những người con vĩ đại của nước Pháp". Không có tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng nằm đây đâu! Toàn là những nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng, nhà khoa học, bằng tài năng sáng tạo của mình, làm rạng danh cho đất nước. Phía trước điện là trường Đại học Luật khoa, trường lâu đời nhất, gần 200 năm. Nhà nước pháp quyền phải như thế- nắm quyền qua luật pháp-và luật pháp yêu cầu mọi người tuân theo, trên tinh thần bình đẳng của công dân. Các nhân viên cảnh sát ở Paris rất lịch sự, lễ độ. Cả những nhân viên cảnh sát giao thông mặc đồng phục xanh, đi phạt những xe đậu không đúng chỗ cũng lịch sự, nhưng cương quyết Không có: "Xin anh, xin chị thông cảm cho em..." như ở ta, mà đã phạt là phạt. Nếu không có tiền sẵn thì xem giấy, địa chỉ, gửi giấy phạt về nhà. Không trả đúng hẹn, thì bị phạt thêm. Cứ phép nước mà làm. Người có quyền không được cậy quyền thế, quát nạt, khinh người. Nhận tiền phạt đều có biên lai chính thức, có cuống đàng hoàng, không thể lèm nhèm. Luật pháp quy định chặt chẽ, bịt chặt mọi sơ hở. Suốt thời gian ở Paris, tôi chưa hề gặp một ai hỏi giấy tờ, vậy mà họ quản lý rất chặt chẽ những ai vừa đến nước Pháp, làm gì, ở đâu. Có anh Việt kiều ở đây hơn 30 năm, chưa một lần nào có ai hỏi giấy tờ cả, nhưng đến cuối năm phải khai đủ thứ: tình hình bản thân, gia đình, thu nhập, tính thuế, kinh doanh lỗ lãi, bảo hiểm, trợ cấp xã hội...Những dữ liệu trên đều được ghi và lưu tại các máy tính điện tử.
Tôi liên hệ đến tình hình đất nước. Rõ ràng, việc xây dựng một nhà nước phải trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp trị, xây dựng xã hội thành một xã hội công dân đã trở thành một yêu cầu cấp bách, nếu không dân chủ và công bằng vẫn chỉ là khẩu hiệu. Biết bao nhiêu luật pháp nữa cần đươc xây dựng. Trường đại học luật cần khẩn trương mở cưả đào tạo hàng loạt cán bộ pháp lý. Các luật sư cần phải được hành nghề rộng rãi. Và đảng phải tách khỏi nhà nước. Ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tách ra rõ rệt. Cái khó của ta là buông lỏng quá lâu theo tinh thần đảng trị rồi. Hồi xưa đảng còn trong sạch, dân có niềm tin và tinh thần tự giác, tự trọng rất cao. Nhưng khi lòng tham đã lan tràn từ trên xuống dưới, bất chấp pháp luật, nhà dột từ đỉnh nóc dột xuống, đạo lý không còn mà thiếu hẳn pháp lý để kiềm chế dục vọng thì xã hội mặc sức băng hoại. Từ năm 1945, các nhà luật học Phan Anh, Trần Công Tường và sau đó luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã đề ra việc xây dựng pháp luật là vấn đề cực kỳ cấp bách. Nhưng những ý kiến ấy đều bị bỏ qua, chỉ vì coi đảng là tất cả, đảng là "điều kiện cần và đủ" để xây dựng chính quyền rồi. Chính cái quan niệm đảng trị này là một nguồn gốc của sự hỗn loạn và xuống cấp của xã hội hôm nay.
Một điều cần nói rõ, nếu đảng thực sự tách ra khỏi nhà nước, đảng không còn bao biện, dẫm đạp lên chính quyền, đảng chỉ phát huy tác dụng bằng con đường thuyết phục như văn kiện của Đại hội đảng VII ghi rõ, thì đại hội VII lần này không nên làm ầm ĩ dư luận đến thế. Phải để cho việc bầu cử quốc hội mới và việc quốc hội ra các quyết định cần thiết là hệ trọng hơn, vì theo đúng Hiến pháp, "mọi quyền lực của nhân dân thuộc về các cơ quan dân cử. "
Hoa xuyên tuyết
Lời mở đầu
I- Từ những nỗi đau
II-Dấn thân
III-Cây Bút...
IV-Những bài học
IV-Những bài học (2)
V-Nhìn nhận
V Nhìn nhận (2)
VI - Người lính
VII - Mở tầm mắt
VII - Mở tầm mắt (2)
VIII Những tấm lòng
IX Lòng dân-ý trời