Phần II - MÀU TÍM HOA LAU -Chương 1
Tác giả: Doãn Quốc Sỹ
I
Thì Miên vẫn đẹp, nhưng nàng đẹp dịu dàng quá, thùy mị quá nên khi ngắm nàng đức tính dịu dàng thùy mị đó tỏa ra từ gương mặt, từ ánh nhìn, từ cử chỉ, từ lời nói mà choán hết mọi ý nghĩ khác muốn so sánh về vẻ đẹp quyến rũ của hình thức. Có thể nói Miên là hiện thân của hiền dịu.
Cha nàng là người Phúc Yên, mẹ nàng là người Bắc Ninh. Hai người lấy nhau rồi lên huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) sinh sống tại làng Hạc Thủy. Cha mẹ nàng chỉ có một nghề: ngày ngày thức dậy từ sớm – mùa hè cũng như mùa đông – đi vào rừng đốn củi làm than rồi đợi đến ngày phiên chợ - ngày bốn, ngày chín – gánh than đi bán. Công việc thì nặng nhọc, nhà thì nghèo, hai người ít dám nghỉ. Khi có mang lần thứ ba, người con gái xinh ròn xứ Bắc trông đã hom hem như một bà già tứ tuần. Đứa con được đẻ ngay trong khu rừng làm than. Người mẹ đem hết sức tàn rặn đẻ, khi đứa con trai nhoai khỏi lòng bà, cất tiếng chào đời, thì bà cũng vừa kiệt lực, hắt hơi thở cuối cùng, toàn thân dúm lại lẫn với đống giẻ rách là váy và áo của bà. Đứa con trai đó là Mẫn. Sau này Miên tuy không hề chủ tâm mà vẫn nhớ đến ngày sinh nhật của em, vì ngày đó chính là ngày nàng thắp đèn thắp nhang và quỳ xuống lễ trước bàn thờ cha mẹ.
Kể ra ở hoàn cảnh như vậy mà ba anh em nàng cũng ăn học khả dĩ tạm gọi là đến nơi đến chốn cũng là điều hiếm có trên đời. Nguyên do sau ngày mẹ nàng chết trong rừng, cha nàng vừa phiền muộn lo âu vừa cố công gắng sức trong nhiều công việc nên phát bệnh tê thấp. Căn bệnh hành hạ ông một năm giời liền. Thoạt những buổi sớm mùa đông rét cắt ruột ông vẫn đi rừng làm củi. “Không đi để con chết đói sao?” – ông tự nhủ thầm vậy. Và theo tiếng gọi của linh tính ông ra công làm gấp, dành dụm được một số tiền nhỏ. Rồi căn bệnh hành ông liệt giường trong một tháng, số tiền để dành đủ nuôi ba con bằng cơm độn ngô rưới nước tương. Rồi ông hấp hối… Ai cũng tưởng chỉ qua đêm là ông tắt nghỉ nhưng ông đã hấp hối năm ngày liền. Hình như ông chờ…. Và ông tắt thở vào đúng khoảng nửa đêm về sáng cùng với ngày mà hai năm trước đây vợ oongsinh thằng út rồi chết ngay trong rừng làm củi. Khi đó Hiển, người anh đầu lòng vừa lên chín, Miên lên năm và Mẫn lên ba. Ba anh em mồ côi được bà hàng xóm góa chồng giàu và nhân đức – bà quản Mão – nhận nuôi.
Ông quản Mão đi lính khố đỏ tự bao giờ không ai rõ chỉ biết ông có sang Tây đánh trận 1914-1918. Khi vừa vào lính ông tuyên bố với các bạn đồng đội: “Tôi chỉ học ba tháng là khối chữ!”. Không ai hiểu phương pháp ông học ra sao nhưng quả ba tháng sau ông đã cãi nhau văng mạng với lính Tây bằng tiếng Tây, tiếng Tây bồi lẽ cố nhiên, nhưng với tất cả sự phản ứng mau lẹ, sự am hiểu đối tượng câu chuyện cùng tinh thần ngoại ngữ đó. Năm 1917 ông bị bắt làm tù binh, ông hón miệng huýt một tiếng sáo rồi nói với các bạn đồng hội đồng thuyền: “Khó đếch gì tiếng Đức, tôi chỉ học ba tháng là khối chữ!” Rồi người ta thấy mỗi khi giao thiệp với tên cái tù Đức – tên này khi nói tiếng Đức khi nói tiếng Pháp – ông giở sổ ghi ghi chép chép. Cũng chỉ trong vòng ba tháng ông đối đáp tiếng Đức với tên cai tù Đức, chiếm cảm tình tên này, và được y cất nhắc lên chức phụ tá, giúp y trong việc phân phát thực phẩm, phân phát dụng cụ làm việc hàng ngày và phân phát cả thư từ nữa. Năm 1918, Đức thua trận thành ra đương ở cương vị “thằng tù” ông lên địa vị “ông tù” để quân Đức phải thù phụng. Ông lại được thăng lon tù đội lên phó Quản. Ông và mấy trăm bạn đồng ngũ còn ở lại ăn hại nước Đức ngót hai năm sau nữa. Trong thời gian đó ông lấy một người vợ Đức. Nhưng khi được gọi về Pháp để xuống tầu về nước ông không một chút bịn rịn với người đàn bà tóc vàng mắt xanh, cũng hiền hậu, cũng chịu khó, không khác gì bà Quản ở quê nhà. Ông nhớ quê nhà lắm! Ông quý quê nhà lắm! Tuy là đi lính cho Tây, đánh Đức cho Tây, lĩnh lương của Tây mà ông vẫn một điều gọi chúng là “thằng Tây”, hai điều gọi chúng là “thằng lõ”, ông yêu quý quê nhà hồn nhiên như thế nào, đi lính hồn nhiên như thế nào thì ông cũng ghét Tây hồn nhiên như thế ấy. Bà Quản đã xin được thẻ căn cước để vào tận Sài Gòn đón ông lại bến tàu. Ông Quản được đóng ngay ở Sài Gòn! Gặp lại bà Quản, ông không hối hận về việc mình đã lấy vợ Đức vì ông nghĩ rằng: “Cũng may chưa có giây có rễ gì với nó” – (chưa có con)! Chuyến đi đón chồng của bà Quản vô tình lại hóa hay; bà gặp một người chị em bạn đương buôn bán ở Sài Gòn, người đó rủ bà buôn chung, bà bèn cho đón hai cô con gái còn ở ngoài Bắc vào Nam để bà yên chí sinh cơ lập nghiệp tại đây. Thời ấy ở Sài Gòn buôn bán dễ lắm, chỉ cần chịu khó chút xíu là được, mà bà Quản lại là con gái huyện Lập Thạch, quê của những người đàn bà Bắc đảm có tiếng, đảm đến nỗi dư luận đã thốt thành ca dao:
Nửa đêm ân ái cùng chồng,
Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi.
Bà Quản buôn bán thịnh vượng, ba năm sau, ông Quản tự ý xin giải ngũ để về giúp việc bà! Ông giúp việc bà được hơn bốn năm thì một buổi chiều kia ông kêu rức đầu, rồi ông ho mấy tiếng, mười giờ tối tiếng ông nói hơi khàn khàn và mười giờ sáng hôm sau ông ra đi vĩnh viễn, người vẫn béo tốt. Người ta bảo ông đứt mạch máu. Cả cuộc đời của ông thực hồn nhiên cho đến lúc chết!
Ông Quản mất đi, bà Quản còn nán lại Sài Gòn hơn một năm nữa nhưng thấy chán buốn chán bán, bà thu xếp mang ba con về Bắc (một con bà sinh ở Sài Gòn). Về tới quê, làng Hạc Thủy, bà tậu ruộng và xoay sang nghề nông. Bà trông nom cầy cấy cũng đảm như bà buôn bán vậy. Ngoài căn nhà cũ ở giữa làng mà bà sửa sang làm nhà ở và cũng đồng thời là nơi thiết lập ban thờ ông Quảng, bà còn lập một cái trại chăn nuôi gà, lợn, trâu, bò ở trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ giữa đồng làng.
Ngày về tới làng, cô gái lớn của bà vừa mười sáu, tên cô là Nẵng – cô sinh ở Đà Nẵng – hồi đó ông Mão còn mang lon Cai. Cô gái thứ hai kém cô chị hai tuổi, mười bốn, tên là Nhơn – cô sinh ở Quy Nhơn – đúng vào năm ông Mão lên lon “Cai Xế”. Cậu út sinh ở Gia Gòn mới lên ba. Quãng cách mười năm đó đúng vào thời gian “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc” và ông Mão lên chức Đội, sang Tây dự chiến. Cậu út này mang tên là Tài. Lẽ ra cậu phải tên là Goòng mới đúng lề lối của ông bà Quảng thường lấy địa danh nơi sinh đặt tên con làm kỷ niệm. Nhưng có lẽ ông Quảng thấy tên Goòng không hay và đúng vào thời thần tài mở rộng cửa, ông Quảng sau một cái tặc lưỡi bèn bảo bà Quản đặt tên cho thằng bé là Tài.
Về đến làng Hạc Thủy thì một năm sau Nẵng đi ở riêng, chồng là người làng bên. Năm sau nữa đến lượt Nhơn đi lấy chồng người cùng làng. Đúng vào năm cha Miên mất! Bà Quản vốn tính tình rộng rãi nhân đức bèn nhận nuôi cả ba anh em mồ côi đó: Hiển, Miên, Mẫn.
Hiển, Miên và sau này Mẫn nữa tuy có phải làm việc nặng nhọc nhưng ngày ngày nửa buổi sáng vẫn được theo học trường làng. Căn nhà nhỏ, mảnh đất của ba anh em ở ngay sát bên nhà bà Quản vẫn được rào dậu kín đáo.
Cứ như vậy ba năm qua…
Chợt một hôm có một người lạ đến tìm ba anh em mồ côi, người đó tự xưng là chú ruột. Câu chuyện thật nhiều uẩn khúc! Ba anh em khi đó nào đã biết đâu cảnh cha mình thủa nhỏ bị hất hủi rồi hai vợ chồng bỏ làng lên đây. Hiển vừa mới mười bốn tuổi, qua lời kể của ông chú, cậu bé chỉ lờ mờ hiểu rằng bà nội cậu mất đã được hai năm nay, tên ông chú này là Thuật, tên cha mình xưa là Lễ và trên ông Lễ còn người anh trưởng tên là Hoạch hiện cũng giàu lớn vì buôn chung với ông Thuật ở Sài Gòn. Chuyến đi này một công đôi ba việc, ông Thuật ra Bắc vừa để thực hiện một việc kinh doanh vừa để thăm nơi chôn rau cắt rốn vừa để lên huyện Lập Thạch tìm hiểu gia đình ông Lễ. Ông đã lần mò hỏi thăm đến làng Hạc Thủy thì chỉ còn được thấy ba đứa cháu mồ côi. Ông ngỏ ý với Hiển là sẽ mang Mẫn vào Nam nuôi cho ăn học. Lời đó thoạt nghe Hiển tưởng như một tia sét từ lưng trời bổ xuống đầu mình. Tin đó đến tại Miên nàng òa khóc ôm lấy em.
Bà Quản mời ông Thuật ở lại trại mấy ngày; vì việc kinh doanh ở Hà Nội đã sớm thu xếp xong ông nhận lời. Bốn chú cháu được dịp chung sống gần nhau để hiểu nhau. Ông Thuật đã ở lại trại đúng một tuần lễ. Trước khi đem Mẫn cùng đi, ông mang Hiển và Miên đến ủy thác cho gia đình một người bạn buôn già ở Hà Nội. Lẽ ra với sự quảng giao của ông, ông có thể xin cho Hiển học ở Lycée Albert Sarraut, ngặt vì Hiển đã quá lớn tuổi mà sức học lại non quá. Sau cùng ông đành cho Hiển, Miên học tư ở ngoài, cùng một trường để anh em trông nom dẫn dắt lẫn nhau. Ông hứa tháng tháng sẽ gửi tiền đều đều cho. Ông đã làm như lời.
Vốn là con nhà nghèo, ông chú thỉnh thoảng có viết thư báo cho hai anh em biết về sức khỏe và việc học của Mẫn (Mẫn học ở Lycée Chasseloup Laubat). Tuyệt nhiên không có lá thơ nào của chính tay Mẫn viết. Miên được Hiển phân tích và giải thích cho hay là ông chú hẳn có ý muốn độc chiếm Mẫn nên tìm cách cắt đứt mọi liên lạc trực tiếp giữa Mẫn với anh và chị. Sự thực Hiển đã hiểu lầm! Đâu phải ông cốt ý như vậy, ông đã có một gái và một trai, ông hiện tới mức buôn bán quốc tế, công việc giấy má giao thiệp thật bề bộn, thỉnh thoảng ông còn để được chút thì giờ viết cho hai cháu ở Bắc đã là chu đáo lắm. Mẫn còn trẻ người non dạ, phải có người bảo người giục mới viết, ông Thuận còn làm gì có thì giờ giục Mẫn viết thư, gà Mẫn viết thư?
Cũng trong khoảng tám năm ấy, vào các dịp lễ nghỉ nhiều ngày, cùng suốt các vụ hè ba tháng, Miên đều được Hiển đưa về Lập Thạch. Hai anh em qua lại thăm hỏi rất thân mật bà Quản và thực tình coi bà như mẹ nuôi. Bà Quản đã giúp hai anh em sửa sang lại căn nhà cũ của cha mẹ để ở. Đặc biệt chiều ba mươi tết năm nào hai anh em cũng về làng để vác sẻng cuốc ra đồng tảo mộ cha và mẹ chôn bên nhau trong cùng một thửa ruộng.
Tài, cậu con út bà Quản, đồng niên với Hiển, cũng lên Hà Nội học từ mấy năm nay nhưng mới đỗ xong Thành Chung. Tuy hai người học ở hai trường ít gặp nhau, nhưng vẫn nhớ nhau quý nhau và mỗi dịp hè là một dịp vui gặp mặt họ.
Miên lớn lên, tính tình càng thùy mị nhiều khi đến rụt rè. Đồ trang điểm duy nhất của Miên chỉ là chiếc nhẫn Saphir màu đỏ hoa lựu. Chiếc nhẫn này nàng mua vào dịp đầu xuân năm mười bốn tuổi. Thoạt nàng đeo nó ở ngón giữa, sang năm mười sáu tuổi, nàng chuyển nó sang ngón đeo nhẫn, rồi tới năm nàng mười tám tuổi chiếc nhẫn được chuyển một lần cuối cùng sang ngón tay út. Kể từ ngày Miên tới tuổi đôi tám, Tài thường có thái độ rất lúng túng mỗi khi giáp mặt Miên. Lớn lên tới tuổi mười tám, dáng người Miên nhỏ nhắn với một vẻ dịu hiền từ nụ cười đến khóe mắt. Nàng như một nàng tiên nhỏ ngỡ ngàng vui với cảnh trần mà vẫn chưa biết mình bị đày xuống đó.
Ngay từ đầu làng Hạc Thủy là khu rừng đưa dần lên là khu rừng đưa dần lên đỉnh một ngọn núi đất khá cao. Trong vụ hè những đêm có trăng sáng Miên rất thích ra đầu làng ngẩng đầu nhìn bóng trăng ngọc ngà hoặc lẫn trong mây bạc, hoặc lùng lững đi sâu vào khoảng vô tận với những đợt mây khói xám trôi nhè nhẹ như một dòng sông xuân.
Tài nhận biết điều đó và thường theo dõi bằng mắt bóng trắng hiền lành của Miên lặng lẽ tiến ra rồi khuất sau khúc quanh của con đường lát gạch dẫn tới đầu làng. Sau nhiều lần suy nghĩ Tài đặt tên thầm cho Miên là “Nàng tiên đi dưới trăng”. Và sau nhiều lần ngập ngừng, đến một đêm trăng mười sáu kia Tài đánh bạo theo bóng Miên ra đầu làng. Khi tiến lên, Tài giả vờ như vô tình gặp Miên rồi - phải bạo dạn lắm – Tài cười nói với Miên:
“Cô Miên này, cô đúng là nàng tiên đi dưới trăng”. Tài cười tiếp để che giọng bẽn lẽn vừa qua, rồi đi luôn để chân tay khỏi lúng túng. Miên không kịp đáp lại câu nào.
Mà Miên quả là nàng tiên đi dưới trăng thật! Một nàng tiên – như trên đã nói – trong trắng, lòng lâng lâng không vẫn bụi đời. Nàng đắm đuối nhìn muôn màu, nghe muôn thành âm của thiên nhiên với một niềm rung cảm thuần thúy. Chỉ có thế và chỉ có thế.
II
Sự thật không phải Miên chỉ riêng thích đêm trăng, nàng còn thích những sớm rạng đông và những buổi chiều nắng nhạt, nói chung nàng thích những cái gì nhè nhẹ. Có rất nhiều sớm hạ, nàng leo lên tận đỉnh núi đầu làng để kịp ngắm vạn vật xuất hiện dưới tia nắng đầu tiên của vừng đông. Mặt trời lên cao rất chóng, nhưng vẫn chưa xua đuổi hết hơi mát của rừng núi và nàng đứng lặng chú mục vào dòng sông Đáy lấp lánh như con rắn thần vẩy bạc bò lẫn dưới vòm xanh của cây cỏ.
Có những khoảng không gian – hoặc những hình ảnh trong một khoảng không gian nào – chợt nhiên được mình chú ý để rồi mãi mãi ngự trị trong tâm tư mình. Trường hợp đến với Miên vào một buổi chiều cuối hạ (đã sắp hến nghỉ hè, nàng sắp theo anh ra Hà Nội tiếp tục sang niên học mới). Buổi chiều hôm đó Miên vừa leo tới đỉnh núi thì cả vùng tràn ngập một màu nắng quái huy hoàng và huyền ảo. Rừng, núi, cánh đồng dào dạt như sóng biển. Cây rừng qunh nàng xào xạc trong gió lộng khiến nàng nghĩ đến tiếng đập dồn dập của một trái tim rộng lớn, trái tim vũ trụ. Nàng ngẩng đầu nhìn lên cao, trời xanh mát không gợn một sợi mây như đương mỉm cười hiền hòa với cây cỏ bên dưới. Trong phút vạn vật tặ như mở hồn giao cảm đó, Miên tưởng mình cũng xuất thần để được sống trong một thời khắc dài vô hạn, hay đúng hơn một khoảnh khắc phi thời gian, phi không gian! Quanh nàng sực nức hương rừng. Tình cờ Miên chú ý đến một khoảng lay động màu xanh cẩm thạch ở phía núi xa. Miên tưởng hồn mình vừa vụt bay được tới đó để nhận ra đấy là khu rừng mía mênh mông, là mía dài, sắc nhọn, xanh non, thân mía trắng nõn căng nước ngọt. Mãi tới khi hoàng hôn thu nốt những tia nắng cuối cùng về chân trời, rừng núi chìm trong sương lam. Miên mới theo đường mòn đi xuống.
Chiều hôm sau Miên trở lên đỉnh núi đứng vào chỗ cũ. Thực là kỳ lạ, lần này cảnh cũ cũng ngập nắng vàng y như hôm qua, tựa hồ chiều hôm trước cách chiều hôm sau chỉ vừa một chớp mắt. Thinh không nhẹ và trong đến nỗi nhìn đàng xa tít có con chim bay mà Miên cảm tưởng thấy cả bóng chim lướt thành vệt dài xuống thảm có xanh. Xa hơn nữa vẫn là con sông Đáy; dòng sống như bốc thành ánh sáng và gợn sống khắp nơi. Nhìn thấy khoảng xanh cẩm thạch Miên lại nghĩ đó là rừng mía y như mình đã đoán trước, lá dài sắc nhọn, thân mía trắng nõn…. Cảnh những lùm cây và khu rừng mía (mà nàng tưởng tượng) chìm trong nắng vàng; rồi ngả nghiêng trong vắn lặng dưới gió lộng đẹp đến nỗi Miên ngây ngất bâng khuâng suốt ngày hôm sau. Lần thứ ba Miên vừa leo lên tới đây đứng vào chỗ cũ thì cũng vừa gặp Hiển xuất hiện từ sườn núi bên kia.
Miên chỉ về phía núi xa trước mặt nói với anh:
- Anh ạ, chắc khoảng xanh cẩm thạch đó là rừng mía.
Hiển đáp ngay giọng thành thạo:
- Đây là núi Sáng bên Bỉnh Di còn thuộc địa phận huyện Lập Thạch nhà; khu rừng mía của cô chỉ là khu rừng lau!
- Sao anh biết?
- Dạo này anh thường có việc phải sang bên đó. Chính giữa khu rừng lau có một cây cao vút thân trắng xóa, cô có thấy?
- Dạ có.
- Đó là cây trò chỉ cao tới ba mươi thước. Quanh cây đó còn nhiều vết tích hầm hố do quân cụ Hoàng Hoa Thám đào ngày xưa. Hiện giờ bên đó đương mùa hoa vàng của một giống cây leo nở rất đẹp, tiếc thay đứng ở đây xa quá không trông thấy gì.
Hiển chợt cười, chàng nhớ lại lời anh em thường nói để giờ đây nói lại với Miên:
- Anh đố cô đối được câu này: “Buổi sớm lên núi Sáng thấy cụm hoa vàng, nhớ cụ Hoàng Hoa”.
Hình như Miên không hề để ý đến chuyện hoa vàng nở đẹp, nàng bâng khuâng hỏi anh:
- Sao không là khu rừng mía mà lại là rừng lau anh nhỉ? Khu rừng lau vô tích sự!
Hiển gật đầu:
- Rừng lau thì vô tích sự thật!
Rồi Hiển đăm chiêu nhìn khoảng xanh cẩm thạch đó, dường như ý tưởng so sánh rừng mía với rừng lau cũng làm anh suy nghĩ.
Nhưng chợt nhớ mình công việc, anh hỏi Miên:
- Cô có xuống núi bây giờ không? Tuần sau anh em mình phải đi Hà Nội rồi.
Miên lắc đầu:
- Em ngồi một lát nữa anh ạ.
Đã biết tính em, Hiển gật đầu:
- Ừ, thôi anh xuống trước.
Rồi Hiển hấp tấp theo một con đường tắt đi xuống, đường quá dốc, nhiều chỗ Hiển phải ngửa hẳn người về phía sau, hai cánh tay hơi dang ra khi nghiêng về tả khi nghiêng về hữu để giữ thăng bằng.
Quên hẳn chuyện khu rừng lau, Miên đưa mắt theo dõi bóng vạm vỡ của anh thấp thoáng qua lá cành cho đến khi khuất hẳn sau một mỏm đá lớn.
Thốt nhiên nàng thở dài.
III
Mấy năm đầu khi mới ra Hà Nội học, Hiển cũng mảnh khảnh thôi. Kể từ năm chàng đỗ xong tú tài phần một và xin được vào học ban Toán ở Albert Sarraut, phần vì học hào hứng, phần vì Hiển bắt đầu chịu tập thể thao, phần vì cơ thể có lẽ bắt đầu vừa thuận dịp nở nang, Hiển to lớn vạm vỡ trông thấy.
Cũng đôi mắt to và đen như Miên, nhưng thay vì cái nhìn xa xôi, đôi mắt Hiển thường nhìn thẳng vào người đối thoại. Trán rộng cằm vuông, khi suy nghĩ điều gì miệng Hiển thường mím chặt, hai vành môi khép lại thành một đường thẳng. Trên khuôn mặt cương nghị đó chỉ có nước da mai mái là tố cáo ở anh một đời sống bên trong dồi dào tình cảm.
Có một buổi chiều thứ bảy, Hiển đi xi-nê về, khuôn mặt đăm đăm. Lúc ngồi vào bàn ăn, Miên nhận thấy mấy lần anh dằn bát cơm xuống mâm, cử chỉ bứt rứt, đó là điều rất khác thường ở Hiển. Tính tình rất hiền dịu, Miên đối với anh còn rất mực tế nhị. Lúc đó nàng gượng nhẹ từng cử chỉ và tuyệt nhiên không dám hỏi anh một lời. Thường vào những lúc Hiển khó chịu như vậy, nàng lẳng lặng đoán anh cần thứ gì thì mang lại hoặc ra phố mua, sự săn sóc âm thầm đó như dòng nước nhỏ nhưng bền bỉ làm mòn đá làm mát đất.
Hôm sau Miên ốm, nàng bị kiết lỵ. Vừa đi học về, hay tin, Hiển quẳng sách vở đó phóng xa đạp đi ngay nói là đi kiếm thuốc cho Miên. Trời đổ mưa… mưa rơi tầm tã… Một giờ sau Hiển về, ướt như chuột lột nhưng vẻ mặt hoan hỉ lạ thường, tay cầm một nắm lá mơ tam thể.
- Bị kiết lỵ mà kiếm được thứ này ăn khỏi liền!
Nói đọa Hiển đi thay quần áo khô rồi xuống bếp. Lá mơ tam thể trông chẳng giống lá mơ thường chút nào, bản lá rộng, thân lá dài, một màu xanh nhạt và tiết ra mùi hôi hôi, không hiểu sao các cụ xưa lại đặt cho nó cái tên là “lá mơ tam thể”. Trước đây vào một dịp về Lập Thạch, Hiển gặp bà Quản đương hái lá mơ này ở góc vườn rồi vào chưng với trứng để cho đứa bé con nhà hàng xóm ăn mà khỏi kiết lỵ. Hiển nhớ. Rồi một hôm khác, khi đã trở lại Hà Nội học, Hiển đến thăm một người bạn cùng lớp ở ngoại ô gần phía Ngã Tư Sở, có thấy ở góc vườn nhà bạn cây lá mơ tam thể. Vì vậy khi hay tin Miên bị kiết kỵ lập tức Hiển phóng xa về nhà bạn phía Ngã Tư Sở. Hiển xuống bếp thái lá mơ nhỏ như những sợi thuốc rồi chưng với trứng gà không có mỡ. Miên ăn rồi khỏi. Chắc lá mơ tam thể có tác dụng chống kiết lỵ nhưng còn có tác dụng tâm tình nữa. Bao giờ Miên ốm Hiển cũng chăm sóc tận tình như vậy, săn sóc hệt người mẹ hiện không quản công lao, không quản đêm hôm thức giấc, bất kỳ một việc gì có thể làm được là Hiển làm liền, Hiển làm thoăn thoắt, lanh chao, tự nhiên như không.
Sống dưới bóng anh, Miên luôn thấy mình bé bỏng như trẻ thơ, nhất là Hiển thường kể chuyện cổ tích, chàng kể cho Miên nghe những chuyện thần thoại Hy Lạp, những chuyện của Perrault, của anh em nhà Grimm, của Andersen. Có lần nghe anh kể xong chuyện “Em bé bán diêm” Miên ôm mặt khóc: nàng chạnh nghĩ đến cảnh mồ côi của ba anh em. Hiền kể cả một vài truyện Liêu trai và rất nhiều truyện cổ tích, lịch sử nước nhà như truyện Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, Mỵ Châu Trọng Thủy… Có thể là trong số truyện cổ tích Đông Tây có truyện Miên đã đọc qua nhưng khi lắng nghe Hiển kể, Miên vẫn thấy mới lạ. Rồi những truyện đức Trần Hưng Đạo đánh đuổi giặc Nguyên, truyện Nguyễn Thái Học cùng mười hai liệt sĩ đồng chí lên đoạn đầu đài ở rừng Yên Bái thẩy đều là chuyện thật mà nương theo giọng nói đầm ấm say mê của Hiển, Miên cũng thấy được đắm hồn trong một vẻ đẹp hoang đường của truyện cổ tích.
Lần này Miên vừa khỏi kiết lỵ xong, Hiển kể cho Miên nghe chuyện cụ Phan Bội Châu, giọng Hiển cũng đặc biệt nhiệt thành như khi chàng kể chuyện đức Trần Hưng Đạo và mười ba vị liệt sỹ tại rừng Yên Bái. Kể xong trời đã khuya chàng chợp ngủ, Miên vẫn chưa có dịp gợi hỏi xem chuyện gì đã làm anh bực mình vào chiều thứ bảy tuần trước khi ở rạp xi-nê về.
Về buồng nằm Miên vừa thiu thiu thì tiếng Hiển thét bên ngoài: “Quân ngu!” Miên vùng chạy ra, đôi mắt Hiển còn ngơ ngác.
Hiển vừa nằm mơ thấy Mẫn đã tự trong Nam về đây. Mẫn lại là anh của Miên và cả hai cùng còn nhỏ lắm. Hiển cho hai em ra chợ - chợ Đồng Xuân thì phải – xem tuồng. Tiếng kèn, tiếng thanh la, tiếng hát – (chính là tiếng radio nhà bên cạnh) – inh ỏi cả chợ, Hiển cùng các bạn vào một rạp và cho Mẫn và Miên vào một rạp khác ngay bên, nhưng Hiển đãng trí quên không cho Mẫn tiền mà Mẫn thì không dám hỏi. Nói chuyện một lúc với các bạn, khi sắp vào xem tuồng Hiển mới sực nhớ điều đó, rút ví đưa tiền cho Mẫn nhưng không thấy Miên đâu, chàng hỏi Mẫn thì Mẫn bảo Miên ngủ trong kia. “Trong kia” là một góc chợ rác rưởi bẩn thỉu. Miên nằm ngủ cạnh đứa bé con nhà nghèo khác, cả hai trong cùng lem luốc rất đáng thương.
- Mày nỡ bỏ vật bỏ vã em thế à? Trong khi mày xem tuồng em thức dậy thì sao? Quân ngu!
Hiển thét mắng Mẫn và sực tỉnh dậy đã thấy Miên đứng trước mặt. Hiển kể lại giấc mơ giọng còn hằn học với Mẫn. Tội nghiệp – Miễn nghĩ thầm – cho người anh có dáng vóc lực sỹ và tâm hồn văn nhân của nàng! Miên nhớ lại mấy tháng trước đây vào một đêm nàng ăn không tiêu, rồi nửa đêm về sáng nôn ọe… Mỗi lần nôn trán lạnh toát khuôn mặt xám nhợt hoặc trắng bệch, như khuôn mặt người chết trôi – lời Hiển thuật lại hôm sau – Có khi đương thiêm thiếp Miên sực dậy và chỉ kịp nghiêng đầu để nôn vào một cái bô, nước vàng ứa ra trên mép. Mỗi lần nôn xong lập tức Hiển lấy khăn lau miệng, lau chiếu nơi bị rây rớt, lấy nước cho Miên xúc miệng rồi đi đổ bô. Miên sực dậy lúc nào Hiển biết ngay lúc đó. Thấy trán, chân và tay Miên nóng đều Hiển yên lòng. Khi trời sáng rõ, Hiển thiếp ngủ, sự lo lắng đêm qua còn bám lấy anh thể hiện thành một giấc mơ lạ: Lần đó Hiển mơ thấy lúc chuột lúc nhức leo lên giường Miên, mặc cho hiển ngồi canh, mặc cho anh đánh chết, cứ một con bị gạt xuống là hai ba con leo lên. Thật là ghê gớm!
- Mẫn không hề viết cho anh em mình một lá thư nào – tiếng hiển nói kéo Miên về thực tại – thằng bé tệ thật!
- Thôi anh ngủ đi – Miên nói – mấy hôm nay anh đã mệt quá vì em rồi, mai anh còn đi học sớm.
Hiển đứng dậy ra ngồi trước bàn học rồi mới đáp:
- Đã ngủ thế nào được, còn hai con toán đây.
Miên lẳng lặng đưa mắt nhìn Hiển ngồi trước bài toán, ngọn bút chì nhọn hoắt của anh lướt theo dòng chữ. Miên hiểu chỉ vừa đọc dứt bài là anh đã linh cảm thấy con đường phải theo để tìm ra được một lối giải độc đáo. Vị giáo sư của Hiển, thạc sỹ về toán, nhiều lần phải thốt lời khen ngợi, điểm này làm một số bạn cùng lớp ghen tức. Một lần Hiển vừa lên bảng, một anh bạn ghen tài dưới lớp thốt lời thô bỉ. Giờ ra chơi Hiển tới chỉ vào mặt anh bạn:
- Về lời nói vừa rồi, tao với mày thanh toán bằng võ lực! (Hiển cho cách giải quyết đó là công bằng hơn cả).
Anh chàng kia biết trái xử nhũn, Hiển nhún vai cười nhạt và quay đi, nhưng rồi sau đó anh cũng quên ngay câu chuyện cũ.
Thường thường những việc nhỏ tương tự như vậy, khi về nhà, Hiển đều kể lại cho Miên nghe. Chẳng phải anh ưa kể lại những chuyện vặt, anh nghĩ chỉ có cách cho người em được tham dự vào những chi tiết nhỏ nhặt của đời mình như thế mới khiến em vững lòng mà quên đi một phần nào sầu tủi mồ côi cha mẹ từ sớm.
Hiển đã có lý, Miên kính mến anh như một người cha!
Hiển làm xong hai bài toán quay lại còn thấy Miên ngồi đó làm ra vẻ học bài, nhưng đôi mắt lơ đãng.
- Cô chưa đi ngủ?
- Em còn học bài.
- Cô cần đi ngủ vì cô còn yếu.
Hiển thu gọn sách trên bàn. Miên ngập ngừng một phút rồi hỏi.
- Thứ bảy tuần trước anh hẳn có việc gì bực mình khi đi xi-nê về?
Miên thấy vành môi Hiển khép lại thành một đường thẳng, anh vơ chiếc bút chì nắm chắc lấy trong tay như đương cầm một khí giới để hộ thân, nhưng chỉ một phút sau Miên thấy anh đã trở lại trạng thái bình thường, giọng anh thuật lại câu chuyện cũng có vẻ - hay làm ra có vẻ thì đúng hơn – bình thường.
Câu chuyện làm Hiển bực mình thứ bẩy tuần trước đó xảy ra trước rạp xi-ne Eden phố Tràng Tiền. Trong khi mọi người chen nhau lấy vé, một cô đầm thốt lời thóa mạ một thanh niên Việt, thanh niên này cự lại, tức thì cô đầm làm vẻ hung hăng xông lại đánh. Cô đầm không to lớn gì, nhưng chàng thanh niên Việt phải chạy vì chống lại một người đàn bà đã làm một việc không đẹp đẽ gì mà còn khiến một số thanh niên Pháp đứng quanh đó có cớ nhảy vào đánh hôi. Cô đầm đuổi theo không được bèn vênh vang chạy lại giơ tay phân trần với đám thanh niên Pháp bằng giọng kiêu hãnh:
- Các anh xem, đồ hèn, nó không dám đứng lại!
Hiển tưởng có thể phát điên được lúc đó. Vào xi-nê, suốt hai giờ chàng không để ý đến chuyện phim, cảnh chàng thanh niên Việt cam chịu nhục chạy trước cô đầm như cô đọng lại kết tinh thành một cảnh điển hình cho nhục vong quốc.
IV
Miên vẫn ngồi kia, Quanh nàng cây rừng xào xạc, nhưng nàng không chú ý đến, nàng chăm chú nhìn mỏm đá dưới xa, nơi anh nàng vừa khuất.
Vụ hè đó là vụ hè thứ tám hai anh em ở Hà Nội về quê. Miên thấy Hiển đỗ xong Tú tài mà không hề chú ý sửa soạn ghi tên vào Đại học. Nàng mang máng biết anh đang hoạt động việc gì bí mật lắm. Suốt vụ hè nàng thấy anh ít khi ở nhà. Và cũng chỉ nghe riêng chuyện này vì Hiển chưa lần nào thuật lại chi tiết cho Miên nghe, mà Miên thì không hỏi và cũng chẳng bao giờ muốn hỏi. (Phải chăng vì vậy mà khi nãy nhìn anh hấp tấp đi xuống nàng thốt nhiên thở dài?) Thỉnh thoảng Miên thấy có vài người lạ mặt đến thăm anh rồi lại đi ngay. Đồng thời đây đó dân chúng xì xào nói đến Mặt trận Việt Minh và khẩu hiệu “Đánh Tây đuổi Nhật” của họ.
Miên có ý định nhờ anh đưa đi Bỉnh Di trèo lên núi Sáng để thực mục sở thị nhìn khu rừng lau, đích thân đi vào khu rừng lau, nhưng dịp may chưa tới thì vụ hè đã hết, nàng phải xuôi Hà Nội tiếp tục học. Hiển có đi theo, nhưng không để học mà để tiếp tục hoạt động bí mật. Nàng biết.
Vào một đêm khá khuya, trung tuần tháng giêng… Lúc đó Miên còn ngồi học ở bàn học trên gác. Nàng chợt giật mình nghe tiếng kêu từ mặt phố gần đấy – phố Bạch Mai:
- Bắt lấy nó!
Rồi tiếng chân dồn dập đuổi lại gần.
- Bắt lấy nó!
Tiếng thét còn vang lên một lần nữa. Tiếng người đuổi hổn hển dừng lại dưới hè:
- Nó chạy mất rồi, nó cướp cái bánh chưng!
Tiếng một bà cụ già:
- Thôi, kể cũng tội nghiệp, đói mà!
Đó mới chỉ là cảnh đầu mở màn vụ đói mà đã khiến Miên ngẩn ngơ thương cảm. Nghe xong lời giải thích của bà cụ già. Miên ôn lại tiếng thét vừa rồi “Bắt lấy nó!” mà thấy tiếng thét đó rạch xé hồn nang. Miên tưởng tượng đến một người dân hiền lành sau nhiều ngày bị lửa đói dày vò, mắt chợt loáng tia chớp, cướp giựt miếng ăn rồi phóng chân chạy miết.
Đồng hồ điểm mười hai giờ khuya… Miên vẫn cúi nhìn trang sách mà không đọc được dòng nào. Miên tưởng tượng lại cảnh cha mẹ mình ngày xưa, những đêm đông về sáng lạnh giá căm căm, vẫn phải gọi nhau dậy co ro sửa soạn dao, rìu, quang gánh để vào rừng làm than kiếm tiền nuôi con khỏi đói.
- Bắt lấy nó! Nó chạy mất rồi nó cướp cái bánh chưng!
- Thôi, kể cũng tội nghiệp, đói mà!
Miên có ngờ đâu chỉ một tháng sau, khung cảnh bi thảm đó đột nhiên rộng lớn vô cùng. Tới đâu nhìn quanh cũng chỉ thấy muôn ngàn khuôn mặt xám với những tia mắt leo lét, tất cả kết lại thành một bức tranh sống của CHẾT! Màn tang tóc thật sự nhuộm ố cả sơn hà. Đã sang tháng ba được mấy ngày mà sao còn những hôm đổi chiều gió bấc rét kinh hồn. Hầu như cả vũ trụ u uất điêu tàn chợt nghẹn ngào sụp xuống vùng đất nhỏ bé Việt Nam này.
Một buổi sớm ảm đạm kia, Miên đã theo anh ra khỏi kinh thành qua cửa ô Cầu Rền. Hai anh em phóng xe đạp về phía Văn Điển, cứ không đầy một trăm thước đã lại gặp ngổn ngang năm bảy cái xác không đét, trần truồng, xạm đen chống chất lên nhau. Đó là từng gia đình nhỏ bỏ làng đi tha phương cầu thực. Miên đau đớn tê dại, nhưng mỗi lần gặp một đám xác chết, nàng cũng dám cho xe đi từ từ để nhìn cho kỹ. Những xác chết đó chỉ có thể phân biệt được lớn bé mà không sao phân biệt được già trẻ trai gái.
Khi đã quay trở về tới nhà, Miên nghe Hiển nghiến răng giọng lạc đi vì căm hờn:
- Lịch sử nước ta, lịch sử nhân loại sẽ thích chàm lên mặt lũ tư bản đế quốc Nhật Pháp.
Miên hỏi anh:
- Có phải mình phải bán thóc theo tỷ lệ ruộng cày và nhổ lúa trồng đay cho Nhật mà nên nông nỗi này phải không hở anh?
- Đành rằng là thế nhưng thủ mưu là thực dân Pháp. Ném đất giấu tay, thực dân Pháp gạt cho quân phiệt Nhật chịu trách nhiệm về vụ hàng trăm vạn dân Việt oan thác này.
Miên chớp mắt, hỏi lại:
- Có thực không anh?
Hiển dằn giọng.
- Phải, dân tộc Pháp không thể nại rằng vì mình xa lũ con hoang thực dân mà tuyên bố là không chịu trách nhiệm về vụ ám sát khổng lồ thần sầu quỷ khốc này.
Cuối niên học đó Miên thi đậu, nhưng con số hàng trăm vạn đồng bào oan thác từ tháng giêng đến tháng tư khiến hồn nàng ngột ngạt. Nàng cảm thấy cái vô vị mênh mông của mảnh bằng khi nước nhà còn bị tụi ngoại bang khát máu tanh lòng dày xéo, nàng quyết định thôi không theo học tiếp lên ban tú tài mà theo học lớp y tá những mong với tấm áo choàng trắng nàng sẽ trực tiếp làm nhẹ vết thương đời. Hiển hoàn toàn đồng ý, chàng cũng linh cảm thấy rằng nghề nữ y tá là nghề thích hợp nhất đối với cô em dịu hiền của mình.
V
Toàn dân đại đoàn kết đánh Tây đuổi Nhật!
Khẩu hiệu đó của đoàn thể Việt Minh mấy năm trước đây, Miên nghe sao mà hoang đường! Toàn dân đại đoàn kết! Thì dân ta bao giờ chẳng đại đoàn kết? Nhưng còn Đánh Tây đuổi Nhật! Làm sao với hai bàn tay trắng mà đánh Tây đuổi Nhật được bây giờ? Miên có ngờ đâu niềm mong ước của toàn dân đạt được dễ dàng quá mức tưởng tượng của con người, vào mùa hè năm ấy nàng về thăm quê vừa dịp quê hương tưng bừng trong màu cờ cách mạng. Trước khi về quê, Miên có được xem một phim thời sự, chứng minh sức nóng kinh khủng của một tấm kĩnh trũng thu ánh mặt trời. Miên mang máng muốn ví ý chí dành độc lập của dân tộc nhà với sức mạnh của tấm kính trũng đó.
Có lẽ vì ít kiến thức chính trị nên Miên không muốn nghĩ sâu về điều ví von đó, nhưng chúng ta phải công nhận với trực giác bén nhạy Miên đã tìm được một hình ảnh cực kỳ xác đáng mà ví với sức mạnh ý chí dân tộc. Cái khôn ngoan của người lãnh đạo chính là ở chỗ họ biết cư xử ra sao để thành tấm gương trũng thu hút và tập trung được nhiệt tình của toàn dân. Than ôi, ăn gian tình cảm của nhân loại, ăn gian tình cảm của dân tộc, đó là cái đê mạt nhất của loại chính trị gian thương đầy rẫy trong thời đại chúng ta.
Tới làng Miên gặp lại Tài, anh chàng đã mệnh danh nàng là “Nàng tiên đi dưới trăng”. Hiển đã về quê hoạt động từ mấy tháng trước cùng với một cán bộ huyện. Tài đại diện cho một số thanh niên làng Hạc Thủy thường liên lạc với Hiển để nhận chỉ thị. Cũng vì vậy đã có đôi dịp anh chàng lảng vảng lại gần Miên đưa đón một vài lời thân mật nhưng xem ra còn lúng túng lắm. Có lần anh chàng nói:
- Cô Miên này nếu có dịp cùng anh Hiển đi Bình Di tôi sẽ nhắc anh Hiển mang cô đi theo để cô lên xem khu rừng lau trên núi Sáng”
Miên nghĩ thầm: “Đàn ông họ gớm thật, làm sao Tài biết nàng ao ước được xem khu rừng lau trên núi Sáng?”
Nàng mỉm cười đáp:
- Cảm ơn anh, được thế thì còn gì băng!
Đôi mắt Tài sáng lên vì cảm động, anh càng lúng túng không nói thêm được lời nào nữa, anh cúi chào Miên rồi vội vã bước đi.
Tiếc thay thời cách mạng bừng sáng huy hoàng chưa được bao lâu đã vẫn mây báo ngày giông tố. Quân Pháp đã hèn mạt quá lộ liễu trước quân đội Nhật, giờ đây chúng biết hèn mạt kín đáo hơn, khôn khéo hơn: chúng lẩn sau quân đội Anh – (một cốt một đông, thực dân bè lũ với nhau) – để tìm cách tái chiếm Nam Bộ. Hiển và Tài cùng gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tiếng ca hào hùng và man mác vang lên trong hồn dân tộc, tràn ngập khắp sơn hà:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có mong chi đâu ngày trở về…
Lẽ ra trong số sỹ quan trẻ tuổi Nam tiến này còn một thanh niên tên là Kinh nữa. Kinh cũng là người làng Hạc Thủy kém Hiển đến sáu tuổi. Hiển coi Kinh là thế hệ đàn em, ít giao thiệp với. Kinh có người anh tên là Huynh hơn Hiển chừng năm tuổi, Hiển coi là thế hệ đàn anh và cũng ít giao thiệp với. Sau ngày Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8, không khí cách mạng nung chảy bức thành phân chia ngôi thứ, các thế hệ chênh lệch nhau trên dưới mươi tuổi đều hòa đồng trong thân ái, Hiển gặp Kinh trong một khóa huấn luyện quân sự cấp tốc. (Kinh mười bảy tuổi đã theo ba năm trung học; với trình độ văn hóa đó Kinh được xếp vào cấp chỉ huy như Hiển). Thuở ban đầu cách mạng, chính những sĩ quan chịu huấn luyện cấp tốc trong ba tháng này ra đương đầu với những sỹ quan Pháp từng được huấn luyện trong ba năm tại trường Võ Bị Saint Cyr, ấy là không kể còn biết bao nhiêu kinh nghiệm dày dạn chiến trường của họ từ thuộc địa này qua thuộc địa nọ.
Cuộc đảng tranh Quốc Cộng từ tháng 10-1945 đến tháng 6-1946 ngấm ngầm khốc liệt bao nhiêu, nhưng Hiển, Tài, Kinh cũng như hầu hết các thanh niên cứu quốc chiến đấu trong nước từ hồi Mặt trận Việt Minh còn có bí mật nào có biết gì đâu. Phòng quân của tướng Lư Hán từ Vân Nam đổ xuống phần lớn theo trục giao thông Lao Kay Hà Nội, một số ít qua ải Nam Quan (Lạng Sơn). Đoàn quân đói rách này đã được đồng bào ta mệnh danh là “đoàn quân Tàu phù”. Nhạc điệu một bài ca cách mạng thời đó được hát đùa theo lời đồng dao riễu cợt:
Đoàn quân Tàu ô đi…
Sao mà ốm thế…
Theo xong lớp huấn luyện quân sự cấp tốc, Kinh được đề cử cùng Hiển và Tài sửa soạn Nam tiến. Bộ đội Kinh gặp một đội Phòng quân đã bệ rạc lại hách dịch, Kinh bèn tự động ra lệnh đánh úp, tước lấy khí giới. Không may việc làm quá hớ hênh bị lộ, viên tướng phụ trách liên lạc giữa Phòng quân với chính quyền địa phương cực lực phản đối điều đó. Không may cho Kinh hơn nữa lại đúng vào lúc chiến thuật Cộng sản chịu nhượng bộ tuyên bố giải tán Đảng. Kinh bị chính quyền tuyên án tử hình để lấy lòng bộ chỉ huy Phòng quân.
Huynh (anh Kinh) – khi đó là chủ tịch xã – hai hàng nước mắt ròng ròng, vỗ ngực thùm thụp nói lớn với Hiển:
- Thằng Kinh nhà tôi bị tử hình anh tính có giời đất nào nữa?! Việc này tôi quyết tìm cụ Hồ hỏi cho ra lẽ.
Kể ra việc người Việt xử tử người Việt vào buổi sơ khởi của nền độc lập nước như thế đã là một việc lạ lùng huống hồ Kinh lại bị xử tử vì đã diệt “Tàu phù” để làm giàu võ khí cho bộ đội nhà càng là một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng. Kinh còn trẻ măng, hăng hái, dũng cảm. Cán bộ Đảng vào giải thích cho Kinh nghe nhiều lắm, nhưng Kinh nhất định không chịu … “thông cảm”. Kinh trừng mắt nói: “Tôi hành động như vậy mà các anh xử tử tôi để lấy lòng Phòng quân, thì trước khi chết tôi nhổ vào mặt các anh!”
Nhưng tới khi anh em đồng đội điệu Kinh ra bãi bắn, Kinh bước đi điềm nhiên, không vùng vằng, không la hét. Điều đó càng khiến anh em đau đớn.
Năm khẩu Mousquetons giơ lên, trong số có một khẩu không nạp đạn – trong năm bạn, ai là kẻ có diễm phúc tì vai lên khẩu súng không đạn đây? Tuân theo khẩu lệnh, năm ngón tay trỏ bấm cò, kẻ thấy súng không giật vui như gặp đức Phật, bốn kẻ kia thấy súng giật chĩu vai cùng thấy lòng đau đớn như chính mình vừa cầm dao đâm ruột mình. Đường đạn đi chệch choạc, Kinh không chết ngay, anh cán bộ Đảng rút súng lục ý muốn bắn phát tối hậu, Huynh chạy ra ôm thi thể em gục mặt vào vai máu, khóc rống lên rồi ngẩng nhìn lên mà rằng: “Công việc của anh thi hành xong rồi, giờ anh kệ xác cha chúng tôi! Anh muốn bắn phát súng tối hậu thì cứ việc kề vào mang tai tôi mà bắn! Một giờ sau Kinh mới tắt nghỉ hẳn.
Hiển không được chứng kiến cảnh xử bắn đó, chỉ nghĩ đến thôi mà cũng thấy lòng nhói buốt, nhưng trên đường Nam tiến Hiển đinh ninh rằng Kinh đã không chết uổng. Kinh chết để giành ưu thế cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc! Sau cái chết của Kinh chắc chắn đoàn thể lãnh đạo sẽ khuất phục được quân đội đồng minh để tranh thủ lấy những điều kiện tiên quyết cho việc củng cố nền độc lập.
Sau này khi đã tỉnh ngộ và ôn lại cái chết của Kinh, Hiển cũng không buồn phân tích tìm hiểu đường lối của đoàn thể dạo đó, chỉ biết tự đáy lòng chàng bốc lên một cảm giác vừa kinh tởm cho chính trị và chàng thương Kinh vô cùng. Gương chiến thắng chói lọi của đức Trần Hưng Đạo, cái chết chói lọi của mười ba liệt sỹ Quốc Dân Đảng trên đoạn đầu đài, nhiệt tình chói lọi của cụ Phan Bội Châu với đất nước, cái chết vô nghĩa của Kinh, đó là bốn điều ám ảnh lớn trong suốt cuộc đời Hiển.
Sau khi Kinh chết, Huynh bỏ chức chủ tịch xã, xuôi Hà Nội, xin một chân thơ ký tại sở tư kia. Hết giờ làm việc, trở về nhà trọ, Huynh thức thật khuya làm thơ ca ngợi tình thương nhân loại, giọng thơ chân thành, nhưng lời thơ non nớt. Cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Huynh mất tích trong khói lửa kinh thành. Không ai tìm thấy xác anh đâu.
Đoàn Vệ quốc Quân một lần ra đi,
Nào có mong chi đâu ngày trở về…
Những bước chân chàng trai ra đi tưng bừng, yêu nước, yêu đời, rất hào hùng đấy mà vẫn đồng thời thương cha thương mẹ nhớ anh em, nhớ người tình. Tình thương nhớ này nuôi cho ý chí giành độc lập, phục thù rửa hận thêm thiết tha vững bền. Chẳng cái đẹp nào bằng cái đẹp của chiến sỹ vừa vượt ngục tù nô lệ, vừa chiến đấu giành tự do, vừa tự băng bó về thương củ
a mình; đó là cái đẹp của cả dân tộc nhà thủa ban đầu cách mạng!
Và những đoàn quân vô Nam. Ra đi không mong ngày trở về nhưng say chiến thắng, say tin tưởng chứ chẳng say rượu cho đã đời như trong cổ thi:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi….
Trước ngày ra đi, mấy lần Tài bần thần đến đứng trước Miên, rồi chẳng hiểu vì dút dát hay vì quá cảm động, chẳng nói được lời nào. Mãi đến lúc Miên thay bà Quản tiễn Hiển và Tài ra đến đầu làng… Cố ý để cho Hiển đi trước mấy bước, Tài cười và nói khẽ với Miên:
- Cô Miên này, bao giờ về tôi sẽ đưa cô đi thăm khu rừng lau trên núi Sáng.
Cũng như lần trước Miên gật đầu mỉm cười ngỏ lời cám ơn và cũng như lần trước Tài cảm động ra mặt nhưng lần này anh tiếp tục đi chậm bước để gần Miên thêm vài giây nữa, như thể đó là lần cuối cùng hai người gặp nhau.
Thế là Miên vẫn chưa có dịp đi Bỉnh Di, leo lên núi Sáng thăm khu rừng lau!
Miên nhớ lại vế câu đối anh nàng đã đọc cho nghe ngày nào:
“Buổi sớm lên núi Sáng thấy cụm hoa vàng nhớ cụ Hoàng Hoa”
Trong trí nàng thoáng hiện hình ảnh Tài với dáng điệu lúng túng… Nàng nghĩ đến “Cô Miên này…” Tài thường khởi đầu mỗi khi nắm hết can đảm trong lòng hai bàn tay để quyết định tiến tới gợi chuyện nàng.
“ Cô Miên này…” Miên liên tưởng đến một câu thơ trong “Cung oán” mà nàng đã được giáo sư Việt Văn giảng dạy trong niên học vừa qua:
Lạnh lùng thay giấc cô miên…
Nàng đăm chiêu một giây rồi mỉm cười vì nàng nghĩ rằng sau này nàng có thể ra một vế câu đối vào loại “hắc búa” cho anh nào – Tài chăng – muốn gá nghĩa cùng nàng:
Cô Miên ngủ một mình!