Chương 4
Tác giả: Maxime Chattam
Mặt trời chầm chậm xuống sau ngọn đồi cao của dãy West Hills, chiếu lên các cao ốc trong thành phố những mảng bóng râm và những hình ảnh phản chiếu ngũ sắc. Những hình khối không rõ ràng âm thầm giành giật quyền được sáng bừng lên trong khoảnh khắc, trong khi ở xa hơn một chút, các khu phố màu gỉ sắt đang dần biến thành đỏ nâu để đi vào bóng đêm. Đó là vở ba lê hàng ngày của mặt trời, cảnh tượng mà Joshua Brolin thích ngắm nhìn đều đặn qua vách kính của phòng làm việc. “Cái chết bé nhỏ của ngày”, anh vẫn thường gọi đùa như thế. Mỗi lần như vậy cảm giác thất vọng lại xâm chiếm anh trong nhiều phút, và khi đêm xuống, anh nhanh chóng lấy lại được tinh thần.
Đã gần hết tháng Chín, nhưng nhiệt độ vẫn cao như mùa hè, nhiều người tranh thủ đi dạo chơi. Các con phố ở khu vực quán xá, đặc biệt là những quán bán loại bia sản xuất ở địa phương, không còn chỗ trống, chật ních sinh viên, cả giới bình dân tìm kiếm chút vui thú và vài nhóm du khách tới để cảm nhận sự náo nhiệt của các quán bia ở “Beervana” (Chơi chữ với từ “beer”. Biệt danh của Portland, nơi sản xuất bia nhiều nhất nước Mỹ, chiếm 10% lượng bia bán ra trên toàn nước Mỹ). Thế nhưng Brolin lại không cảm thấy có hứng để uống vài cốc. Mùa hè trôi qua, tinh thần anh ngày một rã rời. Sự vui mừng nhường chỗ cho nỗi u sầu chủ yếu xuất hiện lúc thức dậy vào sáng sớm và khi đêm xuống. Những khoảnh khắc then chốt của nỗi cô đơn.
Anh tự hỏi về lý do của sự thay đổi này, vì bản chất của anh không phải là bi quan – hoàn toàn không – nhưng không có câu trả lời nào. Đôi lúc, anh tự hỏi liệu đó có phải là hệ quả của khoảng cách giữa nghề nghiệp của anh và cuộc sống dưới vẻ bề ngoài bình thường nhất của nó. Thật khó mà nhận ra rằng một ngày tuyệt vời, nắng đẹp, trời xanh, cũng có thể đồng nghĩa với ác mộng đối với một số người.
Hồi tháng Tám, anh được gọi tới khu phố phía Bắc, đến một tòa nhà gần đường cao tốc số 5. Anh còn nhớ như in sự tương phản quá rõ nét hôm đó. Sáng hôm ấy, anh đi tới trụ sở cảnh sát trên chiếc Mustang của mình, vừa lái xe vừa nghe radio, miệng hát theo một giai điệu của U2 dưới ánh mặt trời rạng rỡ. Một ngày đẹp trời bắt đầu. Gần hai giờ sau, ở khu phố phía Bắc, anh vừa huýt sáo vừa bước qua cửa vào tòa nhà để khám phá một vụ giết người kinh hoàng. Nạn nhân là một cô gái khoảng 20 tuổi, gốc Phi, hẳn phải rất xinh đẹp với đôi bím tóc dài. Giờ đây, cô chỉ còn là một túi thịt và máu bị vứt công khai. Một cơn hận thù mù quáng đã dẫn tới ý thích phơi bày nội tạng của cô gái này. Tất cả là do tính ghen tuông của bạn trai cô.
Từ những vụ vợ chồng giết nhau đến các vụ trọng án, rồi xâm hại tình dục, suốt ba tháng hè không ngừng nghỉ. Thậm chí nhơ bẩn.
Brolin yêu thích công việc của mình, nhưng đôi khi anh chịu sức ép nặng nề vì không thể trút bỏ căng thẳng bằng cách này hay cách khác. Thể thao giúp cơ thể thư giãn, nhưng đầu óc cần đến thứ khác. Mối quan hệ không có tương lai với cô phụ trách truyền thông ở tòa thị chính trong suốt 4 tháng mùa đông vừa qua, đó là trải nghiệm tình cảm mới nhất của anh.
Gần 32 tuổi, mặc dù có ngoại hình khỏe mạnh, Brolin vẫn chìm sâu trong cái giếng độc thân không thể lấp bỏ. Anh sống khổ sở giữa những khoảng thời gian dài cô đơn và một mối quan hệ thoáng qua. Thực ra, chưa bao giờ có gì nghiêm túc. Brolin lớn lên ở Logan, một thị trấn nhỏ cách Portland khoảng 30 cây số, và không giữ một kỷ niệm khó chịu nào về thị trấn ấy cả. Mọi người đều quen biết nhau, không thiếu không gian xanh, cánh đồng, rừng và đồi, còn đô thị lớn chỉ cách nửa giờ chạy xe. Anh sống gần 20 năm ở đây, dưới cái bóng khổng lồ của núi Hook, rồi tới học đại học ở Portland, nơi anh khám phá cuộc sống tự lập và niềm vui giặt giũ, là ủi quần áo. Nhưng thời đại học chỉ đặc biệt mang lại cho anh một chuỗi phiêu lưu và thất vọng tình ái. Từ những lần tán tỉnh tẻ nhạt đến mối quan hệ kéo dài 2 năm với một cô gái trẻ, rồi cô bỏ anh hoàn thành khóa học ở Washington, không có gì đặc biệt cả. Sau đó, lòng tận tâm với FBI không cho anh nhiều thời gian rỗi để duy trì một mối quan hệ đáng để gọi là mối quan hệ và mỗi nỗ lực lại kết thúc bằng một thất bại. Thời gian trôi đi, cuối cùng anh chấp nhận ý nghĩ rằng có lẽ chỉ đơn giản là anh không được sinh ra để sống cùng ai đó.
Đằng xa, mặt trời rọi vào mặt phẳng nhẵn của một tòa nhà làm nó sáng rực lên như ngọn lửa Olympic khổng lồ.
“Hay là mình đi chơi một chút...” Brolin chua chát nghĩ. Giọng nói của mẹ vang lên trong anh: “Không ai đến gõ cửa nhà con nếu con không giúp sức, chúng ta không ở trên ti vi, mọi chuyện không kết thúc một cách tốt đẹp đâu!”
Và những kẻ độc ác không phải lúc nào cuối cùng cũng thất bại! Ý nghĩ này đến với anh từ nơi sâu kín nhất của tâm trí. Gần đây, anh điều tra vụ một xác chết bị cháy đen trong một nhà kho ở khu phố phía Nam. Có vài hướng đi khá thú vị, nhưng chắc là vụ này sẽ làm tốn nhiều thời gian của anh.
Anh nhìn đồng hồ treo trên cửa ra vào. 20h02. Đã đến giờ về nhà, nghỉ ngơi và quên đi tất cả mọi chuyện cho đến ngày hôm sau. Ý nghĩ này khiến anh nhớ tới trò Resident Evil 3 mà anh bắt đầu chơi hôm qua trên máy chơi điện tử, và mỉm cười. Đúng là Salhindro có lý, anh không bao giờ từ bỏ cái máy đó được. Trong chốc lát, anh bỏ hẳn ý định đi uống rượu và gặp gỡ bạn bè.
Brolin cầm lấy áo vest và ra khỏi phòng mà không buồn sắp xếp lại bàn làm việc cho gọn ghẽ một chút.
Anh sống ở phố Alder, ở bờ bên kia của sông Willamette, và anh chỉ mất không quá 20 phút để trở về căn hộ của mình. Hai phòng bày biện đồ đạc đơn giản theo khuynh hướng tối giản, thức ăn thừa từ hôm trước vẫn còn trong bếp, một tấm poster phim Othello của đạo diễn Orson Welles treo phía trên ghế sofa và một lớp bụi phủ trên tất cả. Nơi ở của người độc thân.
Brolin bật máy tính xách tay và kiểm tra mail. Không có gì. Không có tin gì mới, về công việc cũng như về gia đình. Mẹ anh thích gọi điện thoại hơn là dùng máy tính, bà thực sự không yêu thích “công nghệ mới” và đặc biệt ghét tất cả các trò chơi video, vì thế Brolin không được thoải mái. Cha anh mất sớm đã hơn 6 năm nay, ông mất sớm vì 1 cơn đột quỵ, để lại bà Ruth Brolin phải xoay xở một mình trong căn nhà nhỏ ở Logan. Bà sống khá đầy đủ nhờ khoản tiền bảo hiểm mà chồng bà đã mua vài năm trước khi mất, bà học vẽ trong nhiều giờ liền, thể hiện lại trên tấm toan phong cảnh rừng núi mà bà nhìn thấy từ hiên nhà mình.
Joshua rót cho mình một cốc to sữa và xirô dâu, rồi thả mình xuống ghế sofa. Rất nhiều bạn bè cười anh vì khẩu vị sữa-dâu này, nhất là ở học viện Quantico, một nhân viên FBI mà lại thích loại thức uống này thì thật là chẳng ra gì, nhưng thời của John Edgar Hoover đã hết và quyền tự do của các điệp viên được khôi phục. Chắc chắn là dưới thời của ông chủ lớn, thời mà người ta nói về một đại “mafia theo giáo phái Mormon của FBI”, một sở thích tương tự như vậy không được chấp nhận...
“Mình được phép lựa chọn giữa Wagner, Rickie Lee Jones, hay Chris Isaak và một ván game!” Joshua nghĩ, mắt nhìn dàn máy hi-fi rồi lại nhìn ti vi.
Hai sở thích lớn của anh. Sở thích đầu tiên giúp anh thư giãn mà không buộc anh phải ngừng suy nghĩ, còn sở thích thứ hai là cách tốt nhất giúp anh quên đi stress của một ngày làm việc, anh bị hút hoàn toàn vào thế giới trò chơi, nó lấy đi của anh quyền suy nghĩ và không để lọt bất cứ hình ảnh man rợ nào mà anh đã thấy trong lúc làm việc. Đến mức anh đã mua 2 máy chơi và đặt một cái ở nhà, một cái ở phòng làm việc để có thể chạy trốn thực tế khi nó quá nặng nề và khi anh cần phải giải lao. Một số người hẳn sẽ nghĩ rằng việc anh cần đến loại máy móc thay thế kia chứng tỏ có lẽ anh không được sinh ra để làm nghề này, nhưng Brolin thực sự cảm thấy mình là một cảnh sát, anh chỉ cần thỉnh thoảng tách mình khỏi công việc mà thôi.
Cuối cùng, anh chọn ván Resident Evil 3 đang chơi dở. 30 phút sau, anh miệt mài bên chiếc điều khiển như một tên tù khổ sai bên đoạn dây xích chân. Nhờ kiên trì, anh vượt qua được các mức khó khăn để tiến dần tới hồi kết. Tiếng chuông điện thoại thực đột ngột kéo anh ra khỏi thế giới ảo.
Miệng làu bàu, anh nhấc máy với ý định kiên quyết kết thúc cuộc nói chuyện một cách sớm nhất.
- Joshua Brolin nghe đây.
Một giọng nói phụ nữ nhẹ nhàng và ngập ngừng vang lên trong ống nghe.
- Chào anh, em là Juliette. Juliette Lafayette. Hy vọng là anh không quên em...
Sự bất ngờ quét sạch mọi ý định hung hăng, Joshua đặt chiếc điều khiển xuống tấm thảm trải sàn để ngồi sâu hẳn vào ghế sofa.
- Juliette! Brolin ngắt lời vì không biết nói gì. Bất ngờ quá! Em khỏe không?
Juliette không ngờ được chào đón nhiệt tình đến thế.
- Hừm... vâng, em khỏe.
Giọng nói của cô ấy ngược hẳn với những lời cô ấy nói ra, quá run, quá trầm, Brolin tự nhủ. Khi nhấc máy lên, anh đoán rằng sẽ nghe thấy giọng của 1 cậu bạn, hoặc cùng lắm là của mẹ anh, chứ không hề nghĩ tới Juliette.
- Đã lâu lắm rồi, cô nói.
- Ừ... anh thực sự rất hối tiếc vì không thường xuyên liên lạc trong thời gian gần đây... Anh... không thể tha thứ được. Lỗi của anh.
- Không, không, tại em, em muốn nói là anh không cần phải xin lỗi, chính em cũng mất tăm. Hòa nhé.
Lại im lặng trong ống nghe.
- Em... Em biết như thế là rất lạ, nhưng em muốn nghe giọng nói của anh, cô ngập ngừng bày tỏ mặc dù đã chuẩn bị trước những lời này suốt nhiều phút.
Vẫn rất ngạc nhiên, Brolin im lặng.
- Hình như em làm phiền anh? Cô hỏi.
- Không, không hề.
Brolin vớ lấy điều khiển từ xa để tắt chiếc ti vi đang làm anh mất tập trung. Nghĩ tới Juliette, những cảm xúc đau đớn lại tràn về trong trí nhớ của anh.
- Thú thật là anh không nghĩ là sẽ có tin tức của em, anh nói và duỗi hai chân trên ghế sofa.
- Vâng. Thật ra... em... em muốn nghe giọng nói của anh... Từ năm ngoái, chúng ta chưa thực sự có dịp nói chuyện... chỉ là chuyện giữa chúng ta, không nhất thiết phải nói đến tai nạn. Anh có hiểu em nói gì không?
Cô nói vụng về, tìm kiếm từ để diễn tả cảm giác giữa nỗi buồn và sự sợ hãi mà chính cô cũng không hiểu rõ.
- Quả thật, cô nói tiếp, em vẫn chưa cám ơn anh được. Chưa cám ơn được với khoảng lùi thời gian cần thiết, cái đầu lạnh và thoát hẳn khỏi chuyện đã xảy ra. Khi em bắt đầu bình phục, chúng ta không gặp nhau nữa... Ôi, anh đừng coi đây là một lời trách móc nhé, được không? Em muốn nói rằng trước đây anh chủ yếu biết em khi đầu óc em phải chịu sức nặng của thảm kịch, còn giờ đây mọi chuyện đã khá hơn, em muốn cám ơn anh... Chân thành... hay minh mẫn cũng được.
Brolin chợt vỗ bàn tay vào trán. Mắt anh bắt gặp tờ lịch treo trên cửa bếp, mặc dù anh đã biết là không cần phải khẳng định lại. Hôm nay là thứ 3, ngày 29 tháng 9. Suốt cả tuần, tim anh thắt lại khi gần đến ngày này. Nhưng đúng ngày đó, anh lại chôn sâu nó đến mức quên hẳn. Tròn một năm, đúng vào ngày này, Juliette bị bắt cóc, Brolin tự trách mình vì đã quên mất. Đây là một bài học lạ lùng của đầu óc, ngày hôm đó là một bước ngoặc trong đời anh, một ngày không thể quên được, trừ khi dưới tác động của vô thức. Suốt cả tuần, anh tự hứa với mình sẽ gọi điện cho Juliette vào ngày kỷ niệm, thậm chí là mời cô đi ăn trưa, nhưng vì cứ cố xua đuổi cái ngày đen tối đó ra khỏi trí óc, nên cuối cùng anh đã để các vấn đề hiện tại che lấp nó hoàn toàn.
Juliette và anh không nói chuyện với nhau từ hơn sáu tháng nay, nhưng anh biết lẽ ra anh phải gọi cho cô. Ít nhất là vì cô, để làm cô yên tâm.
- Không, đừng cám ơn anh, anh mới là người phải xin lỗi vì không gọi điện thoại. Em có khỏe không?
Im lặng.
- Hình như không ổn lắm, anh nói tiếp. Anh có thể giúp gì không?
- Em chỉ muốn nghe giọng nói của anh. Một năm đã trôi qua và chuyện đó đã lùi xa trong đầu em nhưng lại rất gần trong em, xung quanh em.
Brolin ngả đầu trên thành ghế sofa và nhắm mắt lại.
Tất cả câu chuyện vớ vẩn về lời cám ơn minh mẫn có vẻ hơi giống một bài diễn văn đã được chuẩn bị trước, một cái cớ để gọi cho anh. Nhưng khi cô nói muốn nghe giọng nói của anh, Brolin lại thấy một Juliette bộc phát mà anh từng biết, với những mối nghi ngờ và nỗi sợ hãi của cô.
- Theo anh, em nên đi chơi với bạn bè, anh khuyên cô. Anh biết một phụ nữ đã từng bị tấn công và mỗi năm cô ấy lại tới nhà hàng vào đúng ngày “kỷ niệm” để vui vẻ chứ không sa sút tinh thần.
Juliette thì thào điều gì đó tỏ ý đồng tình.
- Em đang ở cạnh bên người thân à? Anh hỏi.
- Không, bố mẹ em gọi điện suốt cả ngày, họ vẫn ở California. Mẹ em muốn về đây vài ngày, nhưng em đã thuyết phục được mẹ rằng không cần thiết, em vẫn ổn.
- Thật không?
Cô lưỡng lự một lát rồi mới trả lời.
- Gần như thế.
- Bạn em tên là gì nhỉ? Cô bạn sống gần nhà em ấy.
- Camelia.
- Em nên ngủ ở nhà Camelia, đừng ở một mình, như thế tốt hơn.
- Vâng, có lẽ thế.
Juliette không biết phải diễn tả cảm giác của mình như thế nào. Làm thế nào để nói với anh rằng cô không muốn ở bên cạnh gia đình hay bạn bè, mà muốn nghe giọng nói của người đã cứu sống cô. Giờ đây, khi nghe anh nói, cô cảm thấy xấu hổ vì đã không giữ liên lạc. Giọng nói của anh an ủi cô, anh đã thấy điều mà cô phải chịu đựng và đưa cô ra khỏi nơi đó. Một cảm giác khó chịu kỳ lạ đột nhiên đến với cô vào cuối ngày, khi cô đang giở cuốn DSM-IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders: giáo trình tham khảo chuyên ngành phân tâm học, miêu tả tất cả các loại bệnh học), giống như một vật nặng chèn vào ngực cô. Suốt cả tuần, cô tự nhắc đi nhắc lại rằng mọi chuyện sẽ qua thôi, rằng ngày hôm đó cũng sẽ trôi đi như bao ngày khác, nếu buồn vì nó thì sẽ thật là ngớ ngẩn, cô luôn tự nhủ như thế. Nhưng cô cảm thấy không thoải mái, không phải vì nhu cầu được an toàn giày vò cô, mà vì không thể nói lại chuyện đó với ai được. Cả mẹ cô lẫn Camelia đều không thể hiểu điều cô muốn nói, họ không thể đồng tình hay trả lời với hiểu biết đầy đủ về câu chuyện, bởi vì họ không biết. Và khuôn mặt của Joshua Brolin,vốn đầy thiện cảm, không ngừng bập bềnh trong trí óc cô. Cho tới khi cô không thể vượt qua bản tính nhút nhát của mình để nhấc máy gọi cho anh, số máy của anh được lưu trong máy của cô đã gần 1 năm.
- Làm thế nào mà em có được số máy của anh? Brolin ngạc nhiên hỏi, anh nằm trong danh sách đỏ cơ mà.
Giọng nói đột ngột thay đổi và ý nghĩ rằng cô cũng đang nghĩ đến điều đó khiến Juliette trở nên vui vẻ lại.
- Chính... chính anh đã cho em năm ngoái, phòng khi..., cô nói với 1 chút giễu cợt mà cô không nghĩ là mình đủ khả năng nói ra trong tối nay.
Ngay lúc đó, Brolin tự trách mình đã không nhớ, và tự hỏi về ẩn ý của mình lúc đó khi nói “phòng khi...”. Juliette là một cô gái xinh xắn, thậm chí rất đẹp, Brolin sửa lại. Nhưng anh luôn tâm niệm tách biệt rõ ràng công việc và cuộc sống riêng, không chấp nhận bất cứ ngoại lệ nào. Đây là một trong những quy tắc cơ bản từ khi anh còn ở FBI. Cho dù cô có hấp dẫn đến mấy, bao giờ anh cũng cố gắng nhìn cô khác với cách của một người đàn ông bị thu hút bởi sắc đẹp và sự duyên dáng của cô.
- Chính xác, giờ thì anh nhớ ra rồi, anh nói dối. Thêm một lần nữa, hãy nghe theo lời khuyên của anh, đừng ở một mình trong những lúc như thế này, hãy đi chơi, thư giãn, cứ nhớ tới chuyện đó suốt đêm không đem lại ích lợi gì đâu, em sẽ lại suy sụp tinh thần đấy. Anh không cố làm giảm bớt tính nguy kịch, mà chỉ ngăn cản em quá tập trung vào... sự kiện này.
Những tháng sau vụ tấn công, Brolin rất quan tâm tới việc điều trị của Juliette, khi đó cô thường xuyên lui tới phòng tội phạm học của cảnh sát Portland. Cô được học cách chấp nhận chuyện đã qua, hơi giống như chấp nhận cái chết của một người thân, để tang một lần để tránh phải sống mãi mãi trong sự ám ảnh. Người ta dạy cô cách làm thế nào để khóc 1 lần rồi thôi, chứ không chôn sâu tổn thương trong lòng và đợi nó dần dần thối rữa. Josh biết rằng cô đã thoát khỏi tình trạng đó, tỏ ra có bản lĩnh cứng rắn, nhưng việc lại rơi vào tình trạng đó là một hiện tượng có tính chất lập đi lập lại hàng năm, chủ yếu vào ngày xảy ra thảm kịch.
Cô gái thở dài trong máy điện thoại.
- Em thật ngốc nghếch, lẽ ra em không nên gọi anh, em rất tiếc.
- Đừng nói thế. Anh rất vui, anh miễn cưỡng đáp. Thực ra, anh muốn gọi cho em, nhưng... công việc cứ cuốn anh đi. Em biết đấy, với anh, chuyện xảy ra hôm đó cũng rất quan trọng.
Anh cảm thấy Juliette căng thẳng, suy nghĩ mông lung.
- Em có muốn chúng ta nói về chuyện đó không? Anh dò hỏi.
Cô không bỏ lỡ cơ hội.
- Em đã không dám đề nghị anh. Em sợ rằng anh coi đó như 1 lời mời không đúng chỗ. Anh có đến đây được không?
Brolin mở mắt, lời đề nghị của cô vượt quá giới hạn suy nghĩ của anh. Anh đã nghĩ tới 1 cuộc trò chuyện qua điện thoại, chứ không phải đi xuyên qua toàn bộ thành phố. Sự im lặng của Juliette làm nản mọi ý định từ chối, anh hoàn toàn có thể làm việc này vì cô. Thực ra, mặc dù anh không muốn, nhưng có cái gì đó trong cô khiến anh rất yêu thích, cái gì đó vượt xa khuôn khổ nghề nghiệp đơn thuần. Trong nhân cách của cô, trong cách sống của cô.
Chỉ 1 hoặc 2 giờ thôi, anh tự nhủ, vì cô ấy, giúp cô ấy 1 tay, sau đó mình quay về nhà và đi ngủ.
- OK, anh sẽ tới. Hãy lấy cốc ra và sưởi ấm phòng khách đi, anh sẽ tới sau 40 phút nếu anh kiếm được tàu vũ trụ.
Anh đoán chắc có một nụ cười ở đầu dây bên kia. Cô ấy đã yên lòng.
***
Chiếc Mustang màu trắng tiến vào Shenandoah Terrace, khu phố giàu có của Portland, lướt qua trước những tòa nhà lớn sừng sững trong thành phố. Xe chạy đến tận cùng của khu Shenandoah, nơi có hai ngôi nhà rộng rãi đối diện nhau ở cuối phố, giáp với cánh rừng. Con đường dừng lại ở đây. Vài giây sau, Brolin đứng trên thềm của ngôi biệt thự nhỏ hơn.
“Khung cảnh thật dễ chịu”, anh tự nhủ và quay ra nhìn xung quanh. Không nhiều hàng xóm, không gian rộng và cánh rừng để chạy bộ từ nhà, còn đòi hỏi gì hơn đây?
Cửa mở.
Juliette đứng ở cửa, với nụ cười chào đón không gượng ép.
- Cám ơn anh đã tới, cô nói rồi mời anh vào nhà.
Brolin cười đáp lại, hơi ngượng ngập, anh không biết phải phản ứng thế nào. Sau nhiều tháng không gặp, anh đã quên mất nét duyên dáng của cô gái. Anh bước vào sảnh, hai tay đút trong túi.
Juliette chỉ vào một cánh cửa đang mở.
- Em sẽ mang cà phê ra, anh ngồi xuống đi, cô nói và biến mất vào một nơi chắc là bếp.
Brolin bước vào giữa nhà, một phòng khách ấn tượng, với nhiều ghế dài, ghế bành, bàn thấp và một lò sưởi khá to, đủ để đi vào trong nhà mà không cần cúi người. Trên đầu anh là hàng lan can dài của tầng gác lửng và vách kính. Josh thích thú với sự có mặt của mình ở đây. Anh đi giầy basket, mặc quần jean sờn và áo vest da, hoàn toàn đối lập với vẻ sang trọng của nơi này.
- Anh thích uống đặc phải không? Juliette hỏi vọng ra từ bếp.
Joshua không buồn giải thích rằng anh không uống cà phê nữa kể từ khi cai thuốc lá, hôm nay sẽ là một ngoại lệ. Anh quay lại và thấy một cây đàn tuyệt đẹp hiệu Bösendorfer với phần đuôi đen bóng, xung quanh là cây cảnh xanh tươi. Anh lại gần và nhấc nắp lên để lướt nhẹ ngón tay trên các phím.
- Anh chơi đàn không? Juliette hỏi sau lưng anh.
Brolin dừng tay ngay và xin lỗi bằng một nụ cười.
- Không. Ở nhà bố mẹ anh có một cây đàn, nhưng bố anh không thích anh động vào.
- Vô lý. Vậy thì có đàn piano để làm gì?
- Anh nghĩ là bố anh muốn giữ làm kỷ niệm về ông bà nội, nhưng có thể bố anh không muốn ai đó chơi đàn. Anh không biết nữa. Còn em?
Juliette nhướn mày.
- Từ khi tám tuổi. Em nghĩ mình sẽ trở thành một tài năng lớn, nhưng bố mẹ em đã thất vọng tràn trề vì em chỉ là 1 nghệ sĩ hạng xoàng.
Một cái lúm đồng tiền hiện ra trên má cô. Brolin quan sát và ngạc nhiên về thái độ hơi đùa cợt của cô. Anh đã quên hẳn cô đẹp thế nào với mái tóc đen như mun đổ xuống hai vai và đôi mắt màu xanh saphir. Màu xanh đậm đặc đến nỗi nếu nhìn sâu vào đó, người ta sẽ đánh mất lý trí. Cuối cùng, anh nhận ra rằng không bao giờ anh xác định được vị thế của mình đối với Juliette. Anh đã cứu sống cô, và họ đã gặp gỡ nhau sau thảm kịch, nhưng trong một bối cảnh đặc biệt, cô chưa hoàn toàn là chính cô, còn anh luôn ở bên cô với tất cả các rào cản của cảnh sát, chứ không phải như 1 người bạn. Nghĩ cho kỹ thì quả là đáng ngạc nhiên khi anh lại ở đây sau 1 năm. Họ đã gắn kết nhau bằng một trải nghiệm chung rất dữ dội, một niềm tin lẫn nhau nảy sinh từ các sự kiện, chứ hoàn toàn không phải bằng sự hiểu biết lẫn nhau. Khi cô bắt đầu dần bình phục thì anh rời xa, phần vì bị công việc cuốn đi, phần vì không muốn quan hệ quá mật thiết với cô gái xinh đẹp này.
Trong 1 thoáng, Brolin bất chợt muốn được chạm vào đôi môi xinh xắn và tự nguyện kia, ánh mắt anh dừng lại ở chiếc áo ôm sát ngực cô. Cảm thấy mình đang đi chệch hướng, anh chỉ tay vào 3 chiếc ghế dài kê hình chữ U và hỏi:
- Ghế nào dành cho cảnh sát đây?
- Chiếc ghế nào mà anh thích nhất.
Brolin ngồi xuống 1 cách thoải mái.
- Anh mừng vì thấy em không đánh mất nụ cười, anh nói. Đó là điều quan trọng nhất.
- Em sẽ cố gắng hết sức.
Cô cảm thấy không đủ sức thú nhận với anh rằng cô vừa mới tìm lại được nụ cười cách đây gần 1 giờ đồng hồ, khi anh thông báo sẽ tới. Từ người đàn ông này toát ra một điều gì đó khiến cô vững tâm, một sức mạnh bình yên. Juliette mang ra hai tách cà phê đen đặc.
- Thế em đang làm gì? Anh hỏi.
- Em theo dấu chân anh, cô đáp rất nhanh. Anh đã từng học tâm lý, đúng không?
Lại một lần nữa, trí nhớ của cô khiến anh bất ngờ. Sau vụ Leland Beaumont – Đao phủ Portland – Brolin muốn giúp cô thoát khỏi cơn ác mộng mà cô phải chịu đựng. Đó cũng là cách để anh giúp chính mình vì anh cũng phải chịu tâm lý nặng nề sau vụ này. Lần đầu tiên trong đời, anh lấy đi mạng sống của 1 con người. Anh chưa bao giờ thú nhận điều này với Juliette, và thậm chí anh định không kể quá nhiều về mình, nhưng gần 1 năm sau, cô gái trẻ không quên bất cứ điều gì anh đã nói. Trong đầu anh hiện ra ý nghĩ rằng cô có thể giữ tất cả chi tiết này trong trí nhớ để gây chú ý, nhưng thái độ của cô lại không đi theo hướng đó. Cô tỏ ra dễ chịu, nhưng không gần gũi, lại càng không thân mật.
- Trí nhớ tuyệt vời! Brolin nhận xét. Anh rất ấn tượng.
- Em trả lời câu hỏi của anh đây, em đang học năm cuối khoa tâm lý học, thêm một chút dũng cảm nữa là em sẽ lấy được bằng.
- Rồi sau đó làm gì? Em đã có ý tưởng gì chưa?
- Chưa rõ ràng. Có lẽ chuyện xảy ra năm ngoái đã mở ra cho em những hướng đi mới. Em khá thích ý tưởng truy bắt loại quái vật như thế. Có lẽ ở FBI. Đúng là em theo bước chân anh!
- Cẩn thận đấy, nếu không cuối cùng em sẽ làm việc ở sở cảnh sát Portland, anh đùa lại.
Brolin nhấp một ngụm cà phê vẫn còn nóng bỏng và ngay lập tức một làn hơi nicotin xộc vào mũi anh. Phổi anh đặc lại trong lồng ngực, anh thèm một điếu thuốc lá. Bầu không khí im lặng ập đến phòng khách rộng mênh mông. Đằng xa, kim giây đồng hồ treo tường mải mê chạy không ngừng. Nhìn vào Juliette, Joshua cố gắng không nghĩ đến sự thiếu thốn mà bấy lâu nay anh không còn cảm thấy nữa.
- Thời gian gần đây với em không dễ dàng, đúng không? Anh hỏi.
- Không sao. Từ mấy tháng nay, em đi ra ngoài buổi tối một mình, thỉnh thoảng em đi bộ đến nhà Camelia. Dường như em tránh được chứng sợ các không gian rộng. Nhưng em vốn không thích hội hè, và bây giờ vẫn thế! Cô nói và cười rất thật.
- Còn Internet? Em vẫn dành nhiều thời gian cho nó như trước à?
- Ít hơn nhiều! Cô đáp và nhướn mày, ít hơn nhiều.
Cô nhìn chăm chú vào tách cà phê.
- Em rất vui được gặp anh, anh Brolin ạ, cô khẽ nói.
- Cứ gọi anh là Josh.
Cô gật đầu rồi nói tiếp:
- Em biết điều này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng em cần gặp anh. Giống như 1 bài tập luyện thần kinh mà em tự đặt ra cho mình, gặp anh để nhắc em rằng chuyện đó đúng là đã xảy ra.
Ý nghĩ mình là 1 yếu tố của bài tập luyện thần kinh khiến Brolin khó chịu và anh không ngăn nổi mình thể hiện sự thất vọng ra mặt. Anh không chỉ tưởng tượng ra mình quan trọng hơn nhiều, mà anh còn hy vọng ít nhất sẽ có được 1 mối quan hệ trên tình bạn.
- Em diễn đạt tồi quá, Juliette sửa lại, em muốn nói rằng chính vì anh biết chuyện xảy ra như thế nào nên em muốn anh tới đây. Em muốn gặp anh vì anh là người duy nhất đã chứng kiến chuyện ấy, và với anh em không cảm thấy nhất thiết phải nói về ngày hôm đó, anh đã biết chuyện ấy, anh có thể hiểu em nếu em muốn nói đến chuyện ấy, nhưng em không phải cố miêu tả lại tất cả. Anh có hiểu em không?
Nỗi thất vọng đã nhường chỗ cho nét nhẹ nhõm trên khuôn mặt Brolin. Anh gật đầu.
- Em có biết điều gì tuyệt vời nhất bây giờ không? Anh hỏi, đó là đốt lửa trong lò sưởi, đã nhiều năm rồi anh không thấy cảnh ấy. Sau đó chúng ta có thể chuyện trò thật lâu, giống như khi anh còn nhỏ.
Hai cái bóng nằm dài dưới 1 tấm chăn, mỗi người trên 1 chiếc ghế sofa. Bóng tối tranh giành chỗ với những hình trang trí màu hổ phách trong phòng khách, còn tiếng lép bép của lửa đùa vui với sự im lặng. Thỉnh thoảng, Brolin hoặc Juliette thì thầm 1 câu gì đó, và người kia đáp lại. Ngôi nhà yên tĩnh, đêm đã khuya. Sau 2 giờ rưỡi trò chuyện với Juliette, Brolin đã từ bỏ ý định quay về ngủ ở nhà mình. Cô cần anh, cần 1 đôi tai thấu hiểu, còn anh cần 1 người gần gũi, một chút ấm nóng ngay cả khi đó dường như chỉ là tình bạn, và như thế rõ ràng lại tốt hơn.
Dần dần, câu nói của họ chỉ còn là những từ rời rạc vì mệt mỏi, rồi đêm khuya tới ru họ ngủ tới tận sáng sớm hôm sau.