watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Giữa đêm trường-Hai - tác giả Nguyễn Thụy Long Nguyễn Thụy Long

Nguyễn Thụy Long

Hai

Tác giả: Nguyễn Thụy Long

Chỉ còn sáu tháng nữa thì đến năm 2000, bước sang thế kỷ 21. Sự cố máy tính Y2K của thế giới hình như đã khắc phục được. Tôi nghe phát thanh truyền hình nói thế. Lâu nay tôi ít để ý đến tình hình trên hành tinh này, vì loài người đánh đấm, ăn thua đủ với nhau lùng tùng xòe. Địa cầu huyên náo. Tôi cũng có sự huyên náo của riêng tôi. Những bức xúc có căn nguyên, những buồn vui, những hậm hực, tôi nhả ra hết, có sao nói vậy quên luôn cả lời mẹ từng dậy: "Tránh voi chẳng xấu mặt nào" hoặc "Một điều nhịn là chín điều lành". Tôi cóc cần rồi, tôi có thể "khùng - điên - ba trợn". Tôi sợ húp nhầm cháo lú thì khổ. Tôi không muốn sống như cục thịt hoặc như một nấm xương khô. Tôi tự vả vào miệng mình, tự bới xấu mình, nhiếc móc cái thân phận bất hạnh của mình thôi. Chẳng thèm đụng chạm đến ai. Than thân chúng tôi (kể cả bạn bè):
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Những câu thơ này của ai, thi sĩ nào thuở có trào lưu lãng mạn, chán đời hồi đầu thế kỷ 20 trên đất nước Việt Nam, tôi nhớ tác giả là Vũ Hoàng Chương nhưng không dám chắc lắm. Xin lượng thứ cho tôi. Bạn bè tôi ai thấy mình không ở trong hoàn cảnh này cứ việc tự do phủ nhận. Tôi không kéo bè kết đảng hay làm tha hóa bất cứ ai.
***
Ngày hôm nay Sài Gòn mưa từng chặp, gần như suốt ngày. Tôi nằm nhà vì cơn bệnh ập đến với tôi hơn một tuần nay. Tôi bị cao áp huyết nên máu lên xuống bất thường. Bà vợ tôi sợ nguy hiểm cho tôi, khi leo lên leo xuống trên căn gác bút, nên đề nghị tôi ở căn buồng dưới nhà, một căn phòng nhỏ có thể tránh được gió máy. Điều ấy hợp lý quá, tôi đành chấp nhận. Thôi, không ở trên căn gác bút nữa thì xuống hầm ninh chữ" vậy. Tôi gọi chỗ làm việc mới của tôi là hầm ninh chữ, cũng là bút hiệu của bạn tôi đã chết. Thi sĩ Ninh Chữ. Rảnh thì giờ tôi dọn dẹp tí chút. Mơ ước mở được cái cửa sổ để có lỗ thông gió, nhìn ngôi mả đá xưa mấy trăm năm. Nhìn thấy những con ốc sên to bằng nắm tay trẻ con mà người ta gọi là ốc ma bám trên mả đá. Tôi không còn thấy nữa vào những ngày mưa từ mấy chục năm nay. Hình như chúng đã bị tiệt chủng. Đang ngồi buồn và suy nghĩ vẩn vơ thì nhận được tờ báo Khởi Hành của Viên Linh gửi qua đường bưu điện. Tôi đọc ngấu nghiến. Tôi thấy sự hiện diện của một người bạn im hơi lặng tiếng suối bao nhiêu năm trời, nay cũng có lên anh viết về những dòng sông ở Việt Nam, con sông Đáy ở Sơn Tây làm nền cho bài viết. Người viết nói: Nhắc đến sông Đáy, nhắc đến Sơn Tây, người ta nhắc đến thơ Quang Dũng, những bài thơ của một cuộc chiến, một cuộc chiến có tiếng hát, cuộc chiến ấy đã dứt để hôm nay là cuộc chiến khác, một cuộc chiến không có tiếng hát, không có thơ.... Tại sao lại có hai cuộc chiến khác nhau?
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Hiu hắt chiều sương lạnh đất Tề....
Tôi đọc bài Tạp ghi của Ký Giả Lô Răng, Bạn tù Sơn La. Cảm động và buồn không chịu được Vì tôi cũng từng là người tù, từng chứng kiến những cảnh đầy đọa như thế, từng ăn đói mặc rách, từng đi đào trộm khoai sắn, biết chia nhau với bạn tù một con rết núi nướng, mơ ước một miếng cơm cháy ăn cho thơm miệng, và điếu thuốc lào đỡ vã. Điều ấy tôi đã viết chưa nhỉ? Tôi viết rồi. Thành nguyên một cuốn truyện dài kia. Tôi tin rằng không bị lỗi thời. Không gây hận thù để tuyên truyền cho một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Tôi nghĩ đến cái lâu dài của con người với con người. Trong Bạn tù Sơn La, Ký giả Lô Răng có nhắc đến thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo). Cũng là một người tù. Tôi chưa từng biết vị này. Nhưng chùa mà ngài có thời gian trụ trì tôi biết, chùa Viên Giác trong ấp Đông Ba Gia Định xưa, nghĩa là rất gần với nhà tôi bây giờ. Nhắc đến nhà sư này, tôi không thể không nhớ đến bạn tôi, Lý Phật Sơn, Trần Kỳ Hùng, Trần Quang Bạch, đã khuất bóng, tôi đã viết trước đây, trong Hồi Ký Viết Trên Gác Bút. Anh đã ở trong ngôi chùa đó sau ngày 30-4-75, khi thầy trụ trì đi học tập cải tạo ngoài Bắc Việt Nam.
Tôi với Lý Phật Sơn từng ăn chuối thay cơm ở dưới mái hiên ngôi chùa đó. Nói chuyện trời đất bông lông, nhắc lại một số bạn xưa mà tởng chừng như không bao giờ gặp lại nữa. Nghĩ đến bạn đã khuất bóng sau khi đọc bài Bạn tù Sơn La tôi bắt gặp cũng trong tờ báo ấy hai bài thơ, một của Thuyên Du, bài Chiêu Niệm, một của Nguyễn Quan Hà, Chiêu niệm Ly phật Sơn. Thì ra hai vị này là bạn thân của Lý Phật Sơn tự thuở nào, còn biết cả tên tục của Lý Phật Sơn là Trần Quang Bạch. Nhân đọc hồi ký của tôi. Tôi không thể không ghi lại những câu thơ khóc bạn, lấy ra những điều tôi ghi nhận về Lý Phật Sơn:
Dưới mái rêu phong người tá túc
Hôi người, người nhắm mắt không thưa
Hỏi thầy: thầy cải tạo ra Bắc
Hỏi Phật: Chùa hoang phế khác xưa
(thơ Thuyên Du)

Vắt kiệt máu xương ngọn đèn sắp tắt
Nửa đốm linh anh leo lét đợi thời
Thời chẳng chiều ngươi,
Trời cao không mắt
canh bạc nhân sinh ngươi đã thua rồi.
Đã đến đã đi đã còn đã mật,
Bạch ơi Bạch ơi! sao phận con người.
(thơ nguyễn Quan Hà)
Khoảng gần mười năm sau 1975, tôi nghe nói nhà sư trụ trì chùa Viên Giác ở ấp Đông Ba cũng là Tuyên úy Phật Giáo đã học tập cải tạo được trở về. Ngài tiếp tục tu hành tại ngôi chùa, đệ tử đến thật đông, rồi ngài cũng viên tịch thời gian ngắn sau đó. Tôi thấy đám ma của ngài đi trong ấp Đông Ba (nay là phường 7 quận Phú Nhuận) ra đường lớn, đường Chi Lăng cũ (nay là đường Phan Đăng Lưu). Đông đệ tử đi đưa tiễn. Tôi tự hỏi không biết vị sư trụ trì sau học tập cải tạo về có bị quản chế không, nghĩa là mỗi tuần, có khi hàng ngày phải dẫn xác lên phường để Công An thấy mặt, nghiêm chỉnh báo cáo về mình, trong một cuốn sổ.
Với tôi đã từng phải ghi những trang nhật ký như thế, tốn khá nhiều giấy búi. Cuối tuần được ban cho quyền được Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, như công việc quét phường, nhặt rác hoặc sai bảo linh tinh. ấy cái tính tôi cứ nói năng lẩn thẩn. Nhưng đó là sự thật, không nói điêu và cũng không có gì mờ ám. Bây giờ mỗi buổi sáng tôi có nhiệm vụ đưa thằng con trai út đi học ở trường tiểu học Đông Ba. Lần nào cũng đi qua chùa Viên Giác, tôi dừng lại mua một cái bánh tiêu hay dầu cháo quẩy cho con, trước cổng chùa có bà bán chuối, tôi nhớ bà ta đã ngồi ở đây lâu lắm rồi. Tôi không biết bạn Lý Phật Sơn của tôi đã ăn chuối của bà lần nào chưa. Hành lang chùa trống vắng. Tôi nhớ cái giường sắt của Lý Phật Sơn kê ở chỗ đó. Tôi và anh ta có bữa làm hết cả một nải chuối, ngồi nhìn kiểng chùa tiêu điều.
Thời gian đó cũng xa xôi rồi... Những gì tôi ghi lại đều là hồi ký. Những chuyện linh tinh trong cuộc đời mà tôi nghĩ rằng với tuổi đời tôi đủ tư cách để ghi lại. Mà sao những kỷ niệm ấy lại buồn thế. Trong năm Mậu Dần vừa qua bao nhiêu chuyện để ghi lại. Nào là tiễn bạn lên đường đi định cư ở nước ngoài, đón bạn về thăm quê hương. Tiễn bạn vĩnh viễn xa lìa trần thế, lên lò thiêu hoặc xuống mồ. Đường nào cũng xuống âm phủ.
Mỗi bước chân điều chuyển là mỗi kỷ niệm, tính ra tôi đã sống ở thành phố Sài gòn này hơn bốn mươi năm, từ khi tôi còn là một thiếu niên, nay đang về già. Cũng từ Sài gòn tôi bung ra khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam thuở viết văn làm báo.
Sau 30-4-1975 tôi quanh quẩn trong Sài gòn, ngoại trừ một lần lưu lạc xuống Cà Mau làm cu ly, khoảng thời gian ngắn. Một lần khác ra khỏi Sài gòn đi học tập cải tạo, tức là đi tù. Tôi học tập không tối hơn mà hình như xấu đi nhiều. Sau một thời gian bị quản chế lại còn xấu hơn nữa. Hằng triệu điều bức xúc ở trong đầu tôi, hình như không thể nào tẩy rửa sạch được. Muôn đời tôi cũng chẳng trở thành con người mới có tư duy mới để thích nghi với cuộc sống. Tôi tự ăn mình để sống, như ngọn nến ăn sáp, tiêu hao nhiên liệu của chính mình để duy trì ngọn lửa, ánh sáng, trong cái chết dần mòn.
Tôi yêu mến Sài Gòn, yêu mến những kỷ niệm. Một ấp Đông Ba nhỏ xíu, với những kỷ niệm cỏn con. Yêu mến bạn bè, chẳng may bạn bè có điều gì tôi đến ngay dù chỉ với tấm lòng. Còn những cái lôm côm khác bỏ luốc, ai nói sao cũng được. Những lúc tôi thập tử nhất sinh, có bạn thì ngược lại, khi bạn gặp điều không may cũng có tôi. Không phải là sự tính toán, vì không tính toán gì suất cả.
Ngồi mãi trên gác bút hay trong hầm ninh chữ này cũng chán, tôi lang thang ra ngoài xóm, nhìn những căn nhà bị giải tỏa dưới cù lao Rạch Miễu mà chán hơn. Tôi lấy xe đạp đi xa. Tôi muốn tìm đôi vỏ xe cho chiếc xe Solex già nua của tôi, mà các cửa hàng bán vỏ xe ở Sài Gòn không còn nữa, tôi đoán trúng ở Xóm Mới may ra còn. Xóm Mới nổi tiếng một thời sau ngày 30-4- 75 sản xuất vỏ xe các loại, kể cả nghề làm pháo lậu. Một thời sau khi đi học tập cải tạo về, vì miếng cơm manh áo tôi đã tham gia với những người anh em Xóm Mới làm nghề sản xuất vỏ xe lậu. Thời buổi đó thật khó khăn, cái gì không phải của nhà nước, quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, nghề lậu, "chui". Khi đó tôi còn sức khỏe, đủ sức chịu đựng gian nan vất vả, kể cả hiểm nguy để kiếm lấy miếng ăn. Tôi không giống như con mèo ướt hay con gà chết như bây giờ.
Xóm Mới qui tụ hầu hết là dân Bắc kỳ công giáo di cư nhà quê từ năm 1954, mộ đạo và người dân ấy có nết chịu thương chịu khó. Đất canh tác ít ỏi, chỉ đủ đất trồng thuốc lào, nên dân chúng xoay ra làm nghề buôn bán, hoặc làm công.
Hồi trước năm 1975, Xóm Mới cũng đã làm đủ ngành nghề, trong đó có nghề làm pháo, nghề mổ hco. Khi không được chính thức làm ăn nữa thì bị coi là làm pháo lậu, thịt chui. Năm nào cũng xảy ra lai nạn vì sơ xảy. Pháo phát nổ, nhà xập người chết bị thương cũng nhiều. Nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Chẳng phải người dân Xóm Mới ngang chướng gì, hay cố tình không tuân hành luật pháp. Hay nói một cách khác là tham tiền, tham lời. Của đáng tội không phải vậy đâu. Dân Xóm Mới, dân Hố Nai Biên Hòa hay dân Cái Sắn dưới miền Tây, không đủ tư cách và điều kiện để hội nhập với chế độ mới, không làm chui làm lậu lấy gì mà sống. Chúa dậy phải đổ mồ hôi mới có được miếng ăn, Chúa chỉ cấm không được ăn cắp ăn trộm, gian dối hay lừa đảo thôi. Con chiên ngoan đạo là con chiên biết nghe lời dậy tốt lành của Chúa. Tôi chỉ thấy người dân Xóm Mới nhẫn nại, ngoan cường như loài kiến. Cái thân tôi từng lê lết xuống vùng ấy làm nghề ve chai nên rất rành. Từng chở keo, cao su lậu từ nhà máy vượt qua bao nhiêu trạm kiểm soát kinh tế lúc đêm khuya mưa gió để mang vào Xóm Mới nguyên vật liệu làm ra chiếc vỏ xe đạp, xe xích lô rất cần thiết lúc bấy giờ.
Thuở đó mua được một chiếc vỏ xe đạp hiệu Sao Vàng hoặc vỏ xe quốc doanh nào đó thật khó khăn, anh có năn nỉ vã bọt mép ra cũng kệ anh, nếu anh không có giấy giới thiệu, không được "thủ trưởng " nào đó chứng nhận thì không bán. Mặt mấy đứa thương nghiệp cứ vác lên như mặt thớt. Bực quá anh văng tục hay chửi thề, liệu cái thần hồn nhà anh.
Tôi là người có bệnh cận thị kinh niên, chẳng may vỡ mất một bên mát kính, làm thế nào tôi cũng không thay được tròng mất kính bể suốt nhiều năm trời. Vì tôi không là nhân viên gì hết nên không có giấy giới thiệu, chuyện đó không ai giải quyết cho. Tôi đành làm kẻ mù dở. Nhìn đời, nhìn người mờ ảo như trong cơn mê hoặc lệch lạc ráo trọi.
Người Xóm Mới làm ra được cái vỏ xe mới tài tình chứ, đáng ra được trao huy chương vàng. Thời đó cả Xóm Mới, già trẻ, lớn bé lao vào nghề làm vỏ xe, mỗi người làm một khâu, một công đoạn, rút ra những chỉ bố từ vỏ xc hơi phế thải, nối chỉ rồi lên bồ quay, bàn căng ghép ta-lông, dán keo mang hấp, khuôn hấp chạy điện hay chạy than. Điện thường là câu trộm, phải thú thật như thế. Bị bắt, bị phạt, bị tịch thu khuôn hấp cũng nhiều, được tha cũng không ít vì lễ độ biết điều, biết nói câu thông cảm đậm đà, biết mời thuốc có cán, điếu đóm cẩn thận. Vỏ xe tung ra thị trường bán đắt như tôm tươi, và tất nhiên theo ngả buôn lậu bán chui rồi. Tôi thành thật khai báo rằng vào thời gian ấy tôi cũng đã theo người ta làm ăn kiếm sống cái kiểu này. Nếu không thì đã chết đói từ lâu rồi.
Một buổi trưa, khi tôi còn theo nghề mua bán ve chai, lang thang xuống tận Xóm Mới kiếm ăn, tôi rao đến rát cổ nổ họng mà chẳng ai mang đồ ra bán. Một người dàn ông vẫy tôi vào nhà, nói:
- Chẳng mua bán gì được đâu, vô đây làm bát nước chè tươi, điếu thuốc lào cho đỡ vã đã. Biết hút thuốc lào chứ?
- Biết, cái món này tôi hẩu lắm.
Tôi làm đến ba bi thuốc lào, say la đà, đỡ vã thật. Trong căn nhà đó tôi thấy đông người làm việc, đàn bà trẻ con ngồi kéo chỉ, nối chỉ, người khác đứng khuôn, người đàn ông khi nãy phụ trách khuôn hấp. Thì ra anh ta là chủ cơ sở. Tôi quan sát từng khâu một, tôi thấy làm ra chiếc vỏ xe chẳng mấy khó khăn.
Anh chủ cơ sở nói với tôi:
- Muốn làm không, nếu muốn thì ngồi xuống mà làm, tôi trả công cho, còn hơn đi rao ve chai. Không kiếm nổi bữa cơm chiều nay đâu, nhưng nếu anh làm từ giờ đến chiều, chắc chắn anh kiếm được ba chén cơm.
- Vậy thì được, nhưng tôi làm gì bây giờ?
Việc đầu liên anh ngồi tuốt chỉ từ cái vỏ xe cũ này ra, tôi tính công qua từng ký lô, coi người ta làm sao thì anh làm vậy.
- Cần làm giấy tờ thủ tục gì không?
- Khỏi, tôi chẳng cần biết tên anh thì cần biết lý lịch anh làm chi. Làm đi rồi chiều lãnh lương, ngon như óc chó.
Tôi nhập nghề làm vỏ xe, chỉ làm vỏ xe thôi chứ không biết kinh doanh. Tôi xin thề rằng tôi đã biết thêm được một nghề nữa trong hàng chục nghề tôi đeo đuổi suốt 23 năm qua, ngoài nghề cầm bút của tôi đã bị coi là lỗi thời, phế thải. Tôi quen với sinh hoạt làm vỏ xe từng ngày. Cái kính trắng tôi đeo có một tròng mắt nên được gọi là ông mù, như tên gọi trong trại học tập cải tạo của tôi
Tính tôi ưa phiêu lưu mạo hiểm, nên đề nghị với chủ để được chở keo mướn. Việc làm đơn giản nhưng không kém phần gian nan nguy hiểm. Khâu quan trọng nhất trong nghề làm vỏ xe là cao su, mà nghề nghiệp gọi là keo. Tôi phải lấy keo từ nhà máy cán keo ở Chợ Lớn mang về Xóm Mới. Trạm kiểm soát kinh tế giăng mắc khắp ngả đường như thiên la địa võng. Vô ý một tẹo thôi là sa lưới, mất cả chì lẫn chài. Những cuộn keo nặng hàng tạ chất lên chiếc xe đạp thồ của tôi, tôi vừa đạp xe vừa cầu Chúa cầu Phật phù hộ độ trì cho để lọt lưới. Tôi tự tìm ra những con đường xuyên xóm, xuyên sân bay Tân Sơn Nhất, qua ngả chợ Cầu về Xóm Mới, ngả kho đạn qua An Nhơn. Thường là lúc một hai giờ đêm, trời mưa to gió lớn càng tốt, một mình tôi với chiếc xe thồ chở hàng tạ hàng lậu. Cùng với lời cầu nguyện tai qua nạn khỏi, trong túi áo tôi luôn luôn có gói thuốc lá điếu có cán, thuốc lẻ thôi, để nếu không may gặp "sự cố thì hát bài "con cá nó sống vì nước, con sống vì các ông các bà, xin các đồng chí thông cảm cho". Thời gian đó tôi vừa láo vừa biết nói dối như cuội.
Xóm Mới khi đó còn heo hút lắm, những trại lính của chế độ cũ chạy dài từ Ngã Năm Chuồng Chó đến tận An Nhơn, những nghĩa địa hoang, ruộng vườn ngả Hạnh Thông Tây, ban đêm, nhất là những đêm mưa, ễnh ương kêu y uống sao mà buồn thế. Người ta nói trắng con đường ấy có ma. Thây kệ. Hằng đêm tôi phải đi qua những ngả đó. Những trạm kiểm soát cũng ở những góc đường đó. Tôi gần như in thở đạp xe qua. Vậy mà cũng có lần có người xồ ra chiếu đèn pin vào mặt tôi, súng chĩa vào ngực. Tôi bèn hát bài con cá, hòa điệu cùng tiếng ễnh ương, rồi rất lễ độ xin thông cảm, tôi làm mặt khổ đến thảm hại. Có lẽ tôi diễn xuất cũng tài nên các cán bộ thông cảm. Nhác nhở tôi:
- Này khắc phục nhé, lần sau mà tái phạm không tha đâu.
Tôi vâng dạ rồi cút thẳng. Hy vọng rằng hơi thuốc có cán làm ấm lòng chiến sĩ. Nhưng tôi vẫn nghe lời ba người đó cãi nhau phía sau:
- Đúng thằng đó rồi, hôm trước nó chạy qua cầu có con suối đầu An Nhơn rồi biến mất chứ ma quỉ gì. Quân này láo thật.
Đúng là tôi chứ chẳng sai. Đêm hôm đó chính tôi chở keo qua chốt kiểm soát này, qua trạm được chừng chục thước, nghe tiếng hô hoán:
- Hàng lậu, hàng lậu bắt lấy nó, đứng lại không tao bắn!
Để bảo đảm nguyên vật liệu không hiểu sao tôi lại liều đến thế. Nhấn bàn đạp đạp bừa. Xe lao xuống dốc vun vút, ở một khúc quanh tôi lạc tay lái, thay vì qua cầu tôi lao ngay xuống con suối cạn, chỉ một cái ngã đau điếng người nhưng tôi cũng chui được vào gầm cầu. Rồi tôi nghe tiếng người tao nhao, đèn pin chiếu loang loáng:
- Rõ ràng nó mới ở đây mà biến đi đâu nhanh thế. Ma à?
Đèn pin chiếu xuống suối đúng ra là cống thoát nước từ khu Hoàng Mai chảy ra:
- Hay là nó rơi xuống đây?
- Rơi xuống thì gãy cổ sống sao nổi. Đấy, đồng chí thấy không, có gì đâu nào!
Đèn pin chiếu ngay sát chỗ tôi nằm cùng chiếc xe đạp, nhưng không phát hiện. Rồi toán người ấy bỏ đi. Vừa đi vừa bàn chuyện ma quỉ hiện hình rồi biến mất. Tôi là một con ma, có sao đâu.
Chuyến chở hàng lậu ấy của tôi trót lọt về đến Xóm Mới. Nhà chủ banh những cuộn keo ra, cắt cắt dán dán, vô khuôn hấp mớ hàng lúc năm giờ sáng. Lái buôn vỏ xe đã trực sẵn đầy nhà chờ lấy hàng. Tôi mệt quá vì mất gần một đêm không ngủ nghỉ, lại đau nhức cả một bên bả vai, vì cái ngã hồi đêm. Tôi lảo đảo ra đầu xóm ăn bát cháo lòng, đánh hết hai bát tiết canh mới thấy người khỏe ra. Tôi còn cần một ly cà phê, điếu thuốc nữa mới đủ đô, phục hồi sức khỏe. Tôi có tí tiền trong túi đủ nghỉ ngơi nguyên ngày. Chẳng làm giầu làm có gì nên tôi không tranh cướp vỏ xe đi bỏ mối. Dù tôi có lấy cũng được coi là ưu tiên số một. Tôi mệt mỏi quá rồi, đúng với nghĩa của nó. Tôi đạp xe ra cuối Xóm Mới, quán cà phê sát mé sông mở sớm. Ly cà phê nóng hôi hổi và thơm tho làm sao, tôi tự thường cho mình điếu thuốc có cán thơm râu, hưởng lấy không khí trong lành buổi sớm mai. Nhìn ra mặt sông xem những thuyền câu xuôi ngược hoặc đang giăng lưới. Tôi thường nghe người ta đồn rằng, trên bến sông này nhiều thuyền câu "giả dạng thường dân" làm taxi đưa người Xóm Mới ra "cá lớn" đậu ngoài biển, hoặc ếm gà ở Cần Giờ, đủ "quân số" ra biển, bỏ quê hương mà đi, kiếm ăn xứ người, nếu may mắn thoát chết, không chui vào bụng cá thì gửi "thùng " về cứu giúp gia đình còn kẹt lại trên quê hương. Chính tôi cũng mang trong lòng giấc mơ đen tối ấy. Những mong mình chính là những con người đó. Được tốt lành hay bất hạnh gửi số mệnh cho ông Trời định đoạt. Những phút giây mơ mộng đã giúp tôi sống, dù là lây lất qua những chuyến đổ hàng lậu thập tử nhất sinh như đêm qua. Một tiếng nói sau lưng làm tôi giật mình.
Tôi mới mang chứng bệnh hãi sợ này từ khi đi học tập cải tạo về:
- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, có phải anh đấy không?....
Tôi ngẩng lên, nhân vật Đức râu, chú em ít tuổi cùng ở chung trong trại học tập với tôi. Anh ta là người ở Xóm Mới, được ra về sau tôi một thời gian ngắn. Bây giờ anh cũng là chủ cơ sở làm vỏ xe lậu, mang lên Sóng Thần", tên của một tờ báo hồi chế độ cũ tôi từng cộng tác. Đức râu cũng hẩu món văn nghệ lắm, tính nết thì bộp chà bộp chộp, nhưng không phải là người xấu. ở trong trại học tập, Đức râu từng nổi tiếng qua bài hát Nửa hồn thương đau của Phạm Đình Chương. Trong phim Chân trời tím, truyện phim của nhà văn Văn Quang. Giọng anh to, ồm ồm, đặc sệt thổ âm Xóm Mới, mang từ miền Bắc di cư vào. Anh ta hát như thế này: "Rắm mắt... cho tôi tìm một thoáng hương xưa...".
Thật là hết ý, nhắm mắt mà anh ta cứ hát thành rắm mắt thì có chết người ta không chứ. Anh em cười cái rần, Đức râu cứ tiếp tục hát cho đến hết bài. Vui đáo để, ai yêu cầu hát là anh hát liền, râu ria cứ mọc ra tua tủa nên mới có tên là Đức râu. Thường mở đầu câu nói bằng câu "Rê su ma, lạy Chúa tôi". Anh là một con chiên ngoan đạo. Tôi thường thấy anh lần chuỗi Mân Côi lầm rầm cầu nguyện, khi ngừng lao động, dù là ít phút ngắn ngủi. Năng cầu nguyện tức là tăng thêm sức mạnh. Anh nói thế và tin thế, cũng tốt thôi khi đang ở trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Những nhát cuốc phăng phăng trên sỏi đá, sườn đồi tóc lửa. Mảng đất sắt cũng phải bật lên thành luống.
Tôi chậm rãi nói:
- Ngồi xuống đã nào, tôi bao cậu cà phê sáng nay.
Đức râu ngồi xuống:
- "Rê su ma, lấy Chúa tôi", anh làm gì mà có tiền, trúng mánh nào hả?
- Chẳng mánh mung gì hết, vẫn chở keo lậu như mọi khi thôi. Đêm qua bị bể một chuyến tí chết....
Tôi kể cho Đức râu nghe chuyến đi hàng gian nan đêm trước. Đức râu chăm chú nghe và luôn miệng "Rê su ma ". Đôi mắt của Đức râu nhìn tôi và những tiếng "Rê su ma" của anh, tôi biết anh xót xa cho thân phận tôi lắm. Bàn tay anh đang xoa bóp nhè nhẹ trên cái vai đau của tôi. Tôi nói:
- Tao tưởng bị gãy cổ rồi, may mà cái ngã lăn tròn, cái vai chịu đựng tất cả, nếu không chắc là đi đứt!
- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, em cũng đang tính nhờ anh một chuyến hàng, nhưng nghe anh nói em không dám nữa.
- Hàng cho nhà Tốt còn chuyến được chuyến không, tao sức đâu mà đưa cho mày. Mày nhờ người khác đi, cũng nhiều tay liều mạng lắm. Vỏ hồi này bán chạy, bọn xe thồ và xích lô tín nhiệm là ăn bứt, tao không ngờ Xóm Mới lại thành công trong việc làm này... Anh thông thạo việc làm vỏ chưa?
- Tao có thể làm được từ A đến Z.
- Vậy tại sao anh không ra nghề, mình làm chủ lấy mình.
- Tao có nghĩ đến chuyện đó, nhưng không có vốn để làm ăn, vả lại tao không có tài làm chủ, chỉ có khiếu làm cu li thôi.
- "Rê su ma" anh hận đời đen bạc nên cay đắng thế thôi. Nhưng em biết rồi, anh nguyên là một nhà văn nên anh làm thế này để lấy chất liệu trong thực tế, biết đâu một ngày nào đó em lại không được đọc truyện của anh. Trong anh còn âm ỉ một đốm lửa, chưa biết lúc nào bùng lên. Em sống bên anh trong trại học tập suốt mấy năm trời, em biết chứ?
- Thế hả, cậu có thể gia nhập ngành Công an được đấy.
- "Rê su ma" anh nói thế thì chết nhà em mất, anh em mình cứ thành thật với nhau, với kẻ khác thì chẳng nên, không khôn khéo sao em sống được đến ngày hôm nay, em còn phơi thay thầy em trông coi cả mấy mẫu thuốc lào, mấy cái ao nuôi cá rô phi, rồi cái xưởng làm vỏ Sóng Thần của em nữa. Từ lâu em đã có ý định giúp anh mở một xưởng nữa lấy tên là Vỏ xe Sống. Vỏ xe Sống và Sóng Thần bon bon chạy khắp các ngả đường Việt Nam.
- Con lạy bố, con sợ ở tù lắm rồi, làm ơn khẽ cái mồm một tí nào. Bố trẻ cứ hứng lên phát ngôn bừa bãi là khốn đó. Có mồm thì cắp có nắp thì đậy.
- Xin nghe anh, nhưng cũng phải hỏi anh có ngày nào anh viết về cái Xóm Mới này không?
- Có chứ, những ngày tao chở keo lậu cho dân Xóm Mới làm vỏ xe lậu, ghi lại những chuyến chở keo lậu, gian nan nguy hiểm không kém gì đường Trường Sơn. Tao đặt tên cho nó là đường mòn Cao Su. Cuộc chiến đấu của riêng tao, đơn độc nhưng cũng không kém vẻ hào hùng đâu.
Buổi sáng hôm ấy tôi đã hứng chí mà bốc phét như thể với Đức râu. Đã mười lăm năm qua rồi. Mười lăm năm trong 23 năm của một đời người, hôm nay tôi mới thực hiện được lời hứa ấy khi nó đã ngấu, đã chín rục.
Cũng buổi sáng hôm ấy tôi hứng chí nói năng lung tung, hình như về một chuyến ra đi nào đó. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Nhưng cuối cùng tôi vẫn còn ở lại trên quê hương. úi chà chà, sao buổi sáng hôm ấy tôi lại hùng biện như vậy, phải chăng vì cái ngã đau suýt toi mạng đêm trước. Nên quên cả sợ, có những cơn bốc đồng thành bốc phét. Phải chăng tôi nhiễm bệnh khùng-điên-ba trợn.
Sài Gòn bị ảnh hưởng một cơn bão rớt nên đẹp như mùa thu Hà nội. Tôi nhẩn nha đạp xe xuống Xóm Mới, từ đầu Nguyễn Kiệm qua sân "gôn" xưa, qua bệnh viện Cộng Hòa, đến Ngã Năm Chuồng Chó, thẳng đường xuống An Nhơn là nhập Xóm Mới. Tôi là người sống ở Sài Gòn mà ngạc nhiên vì sự thay đổi của Sài Gòn. Sự thay đổi đó mới có từ khi nền bao cấp cáo chung, bước sang đổi mới rồi kinh tế thị trường. Một sự giầu sang mà người ta nói là phồn vinh, nhưng là thứ phồn vinh gì đó. Chưa phải là một sự bình sản, chênh lệch nhau thấy rõ nhất từ xưa tới nay. Nếu có chút hiểu biết người ta không thể vỗ tay hay hết lời ca tụng thành quả kinh tế phát triển tốt đẹp. Cứ chờ đợi rồi biết ngay thôi.
Với tôi mỗi bước chân di chuyển trong thành phố Sài Gòn xưa là mỗi kỷ niệm, dấu ấn đậm nét dĩ vãng. Thường thì không mấy tốt đẹp, bệnh viện Cộng Hòa xưa, nay là bệnh viện 175. Buổi chiều ngày 30-4-75, tôi chứng kiến hàng hàng lớp lớp thương bệnh binh của quân đội chế độ Cộng Hòa bị lùa ra khỏi bệnh viện, thằng mù cõng thằng què, thằng đổ ruột đựng trong bao ni lông ôm bên hông. Tôi không theo dõi kỹ nên không biết số phận họ ra sao, cũng không biết họ bị lùa ra khỏi bệnh viện rồi đi đâu, vì bệnh viện Cộng Hòa không còn là chỗ nằm dưỡng bệnh cho họ nữa. Nhưng khách quan mà nói tôi thấy thê thảm quá. Một chút mủi lòng trong cái xô bồ của thời thế.
Cái xóm trước bệnh viện Cộng Hòa xưa, nay mọc lên những căn nhà khang trang buôn bán tấp nập. Trại lính kéo dài từ Ngã Năm Chuồng Chó đến An Nhơn đã bị phá đi, mọc lên một khu thương mại, cả bên ngả Hạnh Thông Tây cũng vậy.
Xóm Mới nhỏ bé cũng khác xưa nhiều lắm. Dĩ nhiên là nhà cửa mọc lên, xây cất kiểu cọ đàng hoàng. Nhà thờ cũng nhiều và khang bang hơn trước. Dòng sông xưa, nay cũng có một cây cầu xi măng bắc qua, xe vận tải hạng nặng chạy được. Quán cà phê xưa, bên bờ sông tôi từng ngồi mỗi buổi sáng tinh mơ không còn nữa. Con đò dọc trên dòng sông đã triệt tiêu luôn ý nghĩ vẩn vơ của tôi mơ ước một lần nào đó đưa mình ra cửa biển, nhưng thực tế cũng có đấy. Không riêng gì dòng sông này mà nhiều dòng sông Việt Nam khác đã chảy ra biển, cũng đã từng mang theo nhiều con người ra đi. Có những nguồn tin mất tích và cũng có tin được hồi âm. Có hợp rồi tan, tan rồi hợp như truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ.
Suốt buổi sáng hôm ấy tôi rong chơi ở Xóm Mới. Tìm lại những kỷ niệm xưa, rất rõ nét trong tôi thời làm vỏ xe lậu. nhưng lại rất mơ hồ trong thực tế. Tôi không thể nào tìm mua được chiếc vỏ xe Solex vừa lỗi thời vừa cũ rích của tôi. Một món đồ đáng để vào viện bảo tàng. Hỏi một người làm vỏ xe cũ thì được biết khuôn hấp dó không còn nữa, người ta đã nấu chảy nó ra làm khuôn bánh xe Honda Dream rồi. Tôi từng thấy có đám trẻ con ùa ra xem chiếc xe của tôi, đôi mắt chúng nhìn chiếc xe quái dị. Chúng có nhìn thấy chiếc xe này bao giờ đâu. Đơn giản vì đương thời của chiếc xe Solex chúng chưa ra đời. Nên chiếc xe Solex chẳng là gì cả đối với chúng. Tôi buồn cười khi nghĩ đến câu nói của anh Tây già đóng tuồng quảng cáo cho tủ lạnh Electronic trên ti vi:
Bốn mươi năm vẫn chạy tốt!
Tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận tôi, như thân phận một số bạn bè cầm bút của tôi thuở nào. Tưởng là chìm đắm vĩnh viễn trong quên lãng, người ta muốn thế. Có người đã nói vào mặt tôi:
- Anh đừng tưởng bảnh, mười năm người ta không quên anh thì hai mươi năm.
Phải chăng tôi hai mươi ba năm mới hồi sinh, một giấc ngủ đông quá dài của loài gấu. Tôi có nghề làm vỏ xe, tôi có thể tái sinh được cái vỏ xe cũ rích của tôi, bằng cách này hay cách khác để chạy thêm được một khúc đường dài nữa. Tôi sẽ chạy suốt con đường hồi ký cho đến khi nó "xúm bã chè". Cũng trong ngày hôm ấy tôi đi qua một nhà thờ trong xóm đạo. Tôi nghe thấy bài kinh "lậy cha ":
Lậy Cha chúng con ở trên Trời
Chúng con nguyện danh cha cả sáng
Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện
dưới Đất cũng như trên Trời.
Xin Cha cho chúng con
lương thực hàng ngày và cha nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
A men!
Lại là những ngày rong chơi trong thành phố. Sài Gòn đang ảnh hưởng một cơn bão. Ninh Thuận, bão đánh chìm xuống, tốc nhà, người chết. Nước sông Tiền sông Hậu dâng cao. Cả một vùng rộng lớn ở Đông Nam á bị đe dọa. Tôi nghĩ đến tập kịch Bão Thời Đại của Trần Lê Nguyễn vừa nằm xuống, mà anh đã viết cách dây bốn mươi năm.



Chỉ còn sáu tháng nữa thì đến năm 2000, bước sang thế kỷ 21. Sự cố máy tính Y2K của thế giới hình như đã khắc phục được. Tôi nghe phát thanh truyền hình nói thế. Lâu nay tôi ít để ý đến tình hình trên hành tinh này, vì loài người đánh đấm, ăn thua đủ với nhau lùng tùng xòe. Địa cầu huyên náo. Tôi cũng có sự huyên náo của riêng tôi. Những bức xúc có căn nguyên, những buồn vui, những hậm hực, tôi nhả ra hết, có sao nói vậy quên luôn cả lời mẹ từng dậy: "Tránh voi chẳng xấu mặt nào" hoặc "Một điều nhịn là chín điều lành". Tôi cóc cần rồi, tôi có thể "khùng - điên - ba trợn". Tôi sợ húp nhầm cháo lú thì khổ. Tôi không muốn sống như cục thịt hoặc như một nấm xương khô. Tôi tự vả vào miệng mình, tự bới xấu mình, nhiếc móc cái thân phận bất hạnh của mình thôi. Chẳng thèm đụng chạm đến ai. Than thân chúng tôi (kể cả bạn bè):

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh

Những câu thơ này của ai, thi sĩ nào thuở có trào lưu lãng mạn, chán đời hồi đầu thế kỷ 20 trên đất nước Việt Nam, tôi nhớ tác giả là Vũ Hoàng Chương nhưng không dám chắc lắm. Xin lượng thứ cho tôi. Bạn bè tôi ai thấy mình không ở trong hoàn cảnh này cứ việc tự do phủ nhận. Tôi không kéo bè kết đảng hay làm tha hóa bất cứ ai.

***

Ngày hôm nay Sài Gòn mưa từng chặp, gần như suốt ngày. Tôi nằm nhà vì cơn bệnh ập đến với tôi hơn một tuần nay. Tôi bị cao áp huyết nên máu lên xuống bất thường. Bà vợ tôi sợ nguy hiểm cho tôi, khi leo lên leo xuống trên căn gác bút, nên đề nghị tôi ở căn buồng dưới nhà, một căn phòng nhỏ có thể tránh được gió máy. Điều ấy hợp lý quá, tôi đành chấp nhận. Thôi, không ở trên căn gác bút nữa thì xuống hầm ninh chữ" vậy. Tôi gọi chỗ làm việc mới của tôi là hầm ninh chữ, cũng là bút hiệu của bạn tôi đã chết. Thi sĩ Ninh Chữ. Rảnh thì giờ tôi dọn dẹp tí chút. Mơ ước mở được cái cửa sổ để có lỗ thông gió, nhìn ngôi mả đá xưa mấy trăm năm. Nhìn thấy những con ốc sên to bằng nắm tay trẻ con mà người ta gọi là ốc ma bám trên mả đá. Tôi không còn thấy nữa vào những ngày mưa từ mấy chục năm nay. Hình như chúng đã bị tiệt chủng. Đang ngồi buồn và suy nghĩ vẩn vơ thì nhận được tờ báo Khởi Hành của Viên Linh gửi qua đường bưu điện. Tôi đọc ngấu nghiến. Tôi thấy sự hiện diện của một người bạn im hơi lặng tiếng suối bao nhiêu năm trời, nay cũng có lên anh viết về những dòng sông ở Việt Nam, con sông Đáy ở Sơn Tây làm nền cho bài viết. Người viết nói: Nhắc đến sông Đáy, nhắc đến Sơn Tây, người ta nhắc đến thơ Quang Dũng, những bài thơ của một cuộc chiến, một cuộc chiến có tiếng hát, cuộc chiến ấy đã dứt để hôm nay là cuộc chiến khác, một cuộc chiến không có tiếng hát, không có thơ.... Tại sao lại có hai cuộc chiến khác nhau?

Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến

Hiu hắt chiều sương lạnh đất Tề....

Tôi đọc bài Tạp ghi của Ký Giả Lô Răng, Bạn tù Sơn La. Cảm động và buồn không chịu được Vì tôi cũng từng là người tù, từng chứng kiến những cảnh đầy đọa như thế, từng ăn đói mặc rách, từng đi đào trộm khoai sắn, biết chia nhau với bạn tù một con rết núi nướng, mơ ước một miếng cơm cháy ăn cho thơm miệng, và điếu thuốc lào đỡ vã. Điều ấy tôi đã viết chưa nhỉ? Tôi viết rồi. Thành nguyên một cuốn truyện dài kia. Tôi tin rằng không bị lỗi thời. Không gây hận thù để tuyên truyền cho một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Tôi nghĩ đến cái lâu dài của con người với con người. Trong Bạn tù Sơn La, Ký giả Lô Răng có nhắc đến thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo). Cũng là một người tù. Tôi chưa từng biết vị này. Nhưng chùa mà ngài có thời gian trụ trì tôi biết, chùa Viên Giác trong ấp Đông Ba Gia Định xưa, nghĩa là rất gần với nhà tôi bây giờ. Nhắc đến nhà sư này, tôi không thể không nhớ đến bạn tôi, Lý Phật Sơn, Trần Kỳ Hùng, Trần Quang Bạch, đã khuất bóng, tôi đã viết trước đây, trong Hồi Ký Viết Trên Gác Bút. Anh đã ở trong ngôi chùa đó sau ngày 30-4-75, khi thầy trụ trì đi học tập cải tạo ngoài Bắc Việt Nam.

Tôi với Lý Phật Sơn từng ăn chuối thay cơm ở dưới mái hiên ngôi chùa đó. Nói chuyện trời đất bông lông, nhắc lại một số bạn xưa mà tởng chừng như không bao giờ gặp lại nữa. Nghĩ đến bạn đã khuất bóng sau khi đọc bài Bạn tù Sơn La tôi bắt gặp cũng trong tờ báo ấy hai bài thơ, một của Thuyên Du, bài Chiêu Niệm, một của Nguyễn Quan Hà, Chiêu niệm Ly phật Sơn. Thì ra hai vị này là bạn thân của Lý Phật Sơn tự thuở nào, còn biết cả tên tục của Lý Phật Sơn là Trần Quang Bạch. Nhân đọc hồi ký của tôi. Tôi không thể không ghi lại những câu thơ khóc bạn, lấy ra những điều tôi ghi nhận về Lý Phật Sơn:

Dưới mái rêu phong người tá túc

Hôi người, người nhắm mắt không thưa

Hỏi thầy: thầy cải tạo ra Bắc

Hỏi Phật: Chùa hoang phế khác xưa

(thơ Thuyên Du)



Vắt kiệt máu xương ngọn đèn sắp tắt

Nửa đốm linh anh leo lét đợi thời

Thời chẳng chiều ngươi,

Trời cao không mắt

canh bạc nhân sinh ngươi đã thua rồi.

Đã đến đã đi đã còn đã mật,

Bạch ơi Bạch ơi! sao phận con người.

(thơ nguyễn Quan Hà)

Khoảng gần mười năm sau 1975, tôi nghe nói nhà sư trụ trì chùa Viên Giác ở ấp Đông Ba cũng là Tuyên úy Phật Giáo đã học tập cải tạo được trở về. Ngài tiếp tục tu hành tại ngôi chùa, đệ tử đến thật đông, rồi ngài cũng viên tịch thời gian ngắn sau đó. Tôi thấy đám ma của ngài đi trong ấp Đông Ba (nay là phường 7 quận Phú Nhuận) ra đường lớn, đường Chi Lăng cũ (nay là đường Phan Đăng Lưu). Đông đệ tử đi đưa tiễn. Tôi tự hỏi không biết vị sư trụ trì sau học tập cải tạo về có bị quản chế không, nghĩa là mỗi tuần, có khi hàng ngày phải dẫn xác lên phường để Công An thấy mặt, nghiêm chỉnh báo cáo về mình, trong một cuốn sổ.

Với tôi đã từng phải ghi những trang nhật ký như thế, tốn khá nhiều giấy búi. Cuối tuần được ban cho quyền được Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa, như công việc quét phường, nhặt rác hoặc sai bảo linh tinh. ấy cái tính tôi cứ nói năng lẩn thẩn. Nhưng đó là sự thật, không nói điêu và cũng không có gì mờ ám. Bây giờ mỗi buổi sáng tôi có nhiệm vụ đưa thằng con trai út đi học ở trường tiểu học Đông Ba. Lần nào cũng đi qua chùa Viên Giác, tôi dừng lại mua một cái bánh tiêu hay dầu cháo quẩy cho con, trước cổng chùa có bà bán chuối, tôi nhớ bà ta đã ngồi ở đây lâu lắm rồi. Tôi không biết bạn Lý Phật Sơn của tôi đã ăn chuối của bà lần nào chưa. Hành lang chùa trống vắng. Tôi nhớ cái giường sắt của Lý Phật Sơn kê ở chỗ đó. Tôi và anh ta có bữa làm hết cả một nải chuối, ngồi nhìn kiểng chùa tiêu điều.

Thời gian đó cũng xa xôi rồi... Những gì tôi ghi lại đều là hồi ký. Những chuyện linh tinh trong cuộc đời mà tôi nghĩ rằng với tuổi đời tôi đủ tư cách để ghi lại. Mà sao những kỷ niệm ấy lại buồn thế. Trong năm Mậu Dần vừa qua bao nhiêu chuyện để ghi lại. Nào là tiễn bạn lên đường đi định cư ở nước ngoài, đón bạn về thăm quê hương. Tiễn bạn vĩnh viễn xa lìa trần thế, lên lò thiêu hoặc xuống mồ. Đường nào cũng xuống âm phủ.

Mỗi bước chân điều chuyển là mỗi kỷ niệm, tính ra tôi đã sống ở thành phố Sài gòn này hơn bốn mươi năm, từ khi tôi còn là một thiếu niên, nay đang về già. Cũng từ Sài gòn tôi bung ra khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam thuở viết văn làm báo.

Sau 30-4-1975 tôi quanh quẩn trong Sài gòn, ngoại trừ một lần lưu lạc xuống Cà Mau làm cu ly, khoảng thời gian ngắn. Một lần khác ra khỏi Sài gòn đi học tập cải tạo, tức là đi tù. Tôi học tập không tối hơn mà hình như xấu đi nhiều. Sau một thời gian bị quản chế lại còn xấu hơn nữa. Hằng triệu điều bức xúc ở trong đầu tôi, hình như không thể nào tẩy rửa sạch được. Muôn đời tôi cũng chẳng trở thành con người mới có tư duy mới để thích nghi với cuộc sống. Tôi tự ăn mình để sống, như ngọn nến ăn sáp, tiêu hao nhiên liệu của chính mình để duy trì ngọn lửa, ánh sáng, trong cái chết dần mòn.

Tôi yêu mến Sài Gòn, yêu mến những kỷ niệm. Một ấp Đông Ba nhỏ xíu, với những kỷ niệm cỏn con. Yêu mến bạn bè, chẳng may bạn bè có điều gì tôi đến ngay dù chỉ với tấm lòng. Còn những cái lôm côm khác bỏ luốc, ai nói sao cũng được. Những lúc tôi thập tử nhất sinh, có bạn thì ngược lại, khi bạn gặp điều không may cũng có tôi. Không phải là sự tính toán, vì không tính toán gì suất cả.

Ngồi mãi trên gác bút hay trong hầm ninh chữ này cũng chán, tôi lang thang ra ngoài xóm, nhìn những căn nhà bị giải tỏa dưới cù lao Rạch Miễu mà chán hơn. Tôi lấy xe đạp đi xa. Tôi muốn tìm đôi vỏ xe cho chiếc xe Solex già nua của tôi, mà các cửa hàng bán vỏ xe ở Sài Gòn không còn nữa, tôi đoán trúng ở Xóm Mới may ra còn. Xóm Mới nổi tiếng một thời sau ngày 30-4- 75 sản xuất vỏ xe các loại, kể cả nghề làm pháo lậu. Một thời sau khi đi học tập cải tạo về, vì miếng cơm manh áo tôi đã tham gia với những người anh em Xóm Mới làm nghề sản xuất vỏ xe lậu. Thời buổi đó thật khó khăn, cái gì không phải của nhà nước, quốc doanh đều bị coi là hàng lậu, nghề lậu, "chui". Khi đó tôi còn sức khỏe, đủ sức chịu đựng gian nan vất vả, kể cả hiểm nguy để kiếm lấy miếng ăn. Tôi không giống như con mèo ướt hay con gà chết như bây giờ.

Xóm Mới qui tụ hầu hết là dân Bắc kỳ công giáo di cư nhà quê từ năm 1954, mộ đạo và người dân ấy có nết chịu thương chịu khó. Đất canh tác ít ỏi, chỉ đủ đất trồng thuốc lào, nên dân chúng xoay ra làm nghề buôn bán, hoặc làm công.

Hồi trước năm 1975, Xóm Mới cũng đã làm đủ ngành nghề, trong đó có nghề làm pháo, nghề mổ hco. Khi không được chính thức làm ăn nữa thì bị coi là làm pháo lậu, thịt chui. Năm nào cũng xảy ra lai nạn vì sơ xảy. Pháo phát nổ, nhà xập người chết bị thương cũng nhiều. Nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Chẳng phải người dân Xóm Mới ngang chướng gì, hay cố tình không tuân hành luật pháp. Hay nói một cách khác là tham tiền, tham lời. Của đáng tội không phải vậy đâu. Dân Xóm Mới, dân Hố Nai Biên Hòa hay dân Cái Sắn dưới miền Tây, không đủ tư cách và điều kiện để hội nhập với chế độ mới, không làm chui làm lậu lấy gì mà sống. Chúa dậy phải đổ mồ hôi mới có được miếng ăn, Chúa chỉ cấm không được ăn cắp ăn trộm, gian dối hay lừa đảo thôi. Con chiên ngoan đạo là con chiên biết nghe lời dậy tốt lành của Chúa. Tôi chỉ thấy người dân Xóm Mới nhẫn nại, ngoan cường như loài kiến. Cái thân tôi từng lê lết xuống vùng ấy làm nghề ve chai nên rất rành. Từng chở keo, cao su lậu từ nhà máy vượt qua bao nhiêu trạm kiểm soát kinh tế lúc đêm khuya mưa gió để mang vào Xóm Mới nguyên vật liệu làm ra chiếc vỏ xe đạp, xe xích lô rất cần thiết lúc bấy giờ.

Thuở đó mua được một chiếc vỏ xe đạp hiệu Sao Vàng hoặc vỏ xe quốc doanh nào đó thật khó khăn, anh có năn nỉ vã bọt mép ra cũng kệ anh, nếu anh không có giấy giới thiệu, không được "thủ trưởng " nào đó chứng nhận thì không bán. Mặt mấy đứa thương nghiệp cứ vác lên như mặt thớt. Bực quá anh văng tục hay chửi thề, liệu cái thần hồn nhà anh.

Tôi là người có bệnh cận thị kinh niên, chẳng may vỡ mất một bên mát kính, làm thế nào tôi cũng không thay được tròng mất kính bể suốt nhiều năm trời. Vì tôi không là nhân viên gì hết nên không có giấy giới thiệu, chuyện đó không ai giải quyết cho. Tôi đành làm kẻ mù dở. Nhìn đời, nhìn người mờ ảo như trong cơn mê hoặc lệch lạc ráo trọi.

Người Xóm Mới làm ra được cái vỏ xe mới tài tình chứ, đáng ra được trao huy chương vàng. Thời đó cả Xóm Mới, già trẻ, lớn bé lao vào nghề làm vỏ xe, mỗi người làm một khâu, một công đoạn, rút ra những chỉ bố từ vỏ xc hơi phế thải, nối chỉ rồi lên bồ quay, bàn căng ghép ta-lông, dán keo mang hấp, khuôn hấp chạy điện hay chạy than. Điện thường là câu trộm, phải thú thật như thế. Bị bắt, bị phạt, bị tịch thu khuôn hấp cũng nhiều, được tha cũng không ít vì lễ độ biết điều, biết nói câu thông cảm đậm đà, biết mời thuốc có cán, điếu đóm cẩn thận. Vỏ xe tung ra thị trường bán đắt như tôm tươi, và tất nhiên theo ngả buôn lậu bán chui rồi. Tôi thành thật khai báo rằng vào thời gian ấy tôi cũng đã theo người ta làm ăn kiếm sống cái kiểu này. Nếu không thì đã chết đói từ lâu rồi.

Một buổi trưa, khi tôi còn theo nghề mua bán ve chai, lang thang xuống tận Xóm Mới kiếm ăn, tôi rao đến rát cổ nổ họng mà chẳng ai mang đồ ra bán. Một người dàn ông vẫy tôi vào nhà, nói:

- Chẳng mua bán gì được đâu, vô đây làm bát nước chè tươi, điếu thuốc lào cho đỡ vã đã. Biết hút thuốc lào chứ?

- Biết, cái món này tôi hẩu lắm.

Tôi làm đến ba bi thuốc lào, say la đà, đỡ vã thật. Trong căn nhà đó tôi thấy đông người làm việc, đàn bà trẻ con ngồi kéo chỉ, nối chỉ, người khác đứng khuôn, người đàn ông khi nãy phụ trách khuôn hấp. Thì ra anh ta là chủ cơ sở. Tôi quan sát từng khâu một, tôi thấy làm ra chiếc vỏ xe chẳng mấy khó khăn.

Anh chủ cơ sở nói với tôi:

- Muốn làm không, nếu muốn thì ngồi xuống mà làm, tôi trả công cho, còn hơn đi rao ve chai. Không kiếm nổi bữa cơm chiều nay đâu, nhưng nếu anh làm từ giờ đến chiều, chắc chắn anh kiếm được ba chén cơm.

- Vậy thì được, nhưng tôi làm gì bây giờ?

Việc đầu liên anh ngồi tuốt chỉ từ cái vỏ xe cũ này ra, tôi tính công qua từng ký lô, coi người ta làm sao thì anh làm vậy.

- Cần làm giấy tờ thủ tục gì không?

- Khỏi, tôi chẳng cần biết tên anh thì cần biết lý lịch anh làm chi. Làm đi rồi chiều lãnh lương, ngon như óc chó.

Tôi nhập nghề làm vỏ xe, chỉ làm vỏ xe thôi chứ không biết kinh doanh. Tôi xin thề rằng tôi đã biết thêm được một nghề nữa trong hàng chục nghề tôi đeo đuổi suốt 23 năm qua, ngoài nghề cầm bút của tôi đã bị coi là lỗi thời, phế thải. Tôi quen với sinh hoạt làm vỏ xe từng ngày. Cái kính trắng tôi đeo có một tròng mắt nên được gọi là ông mù, như tên gọi trong trại học tập cải tạo của tôi

Tính tôi ưa phiêu lưu mạo hiểm, nên đề nghị với chủ để được chở keo mướn. Việc làm đơn giản nhưng không kém phần gian nan nguy hiểm. Khâu quan trọng nhất trong nghề làm vỏ xe là cao su, mà nghề nghiệp gọi là keo. Tôi phải lấy keo từ nhà máy cán keo ở Chợ Lớn mang về Xóm Mới. Trạm kiểm soát kinh tế giăng mắc khắp ngả đường như thiên la địa võng. Vô ý một tẹo thôi là sa lưới, mất cả chì lẫn chài. Những cuộn keo nặng hàng tạ chất lên chiếc xe đạp thồ của tôi, tôi vừa đạp xe vừa cầu Chúa cầu Phật phù hộ độ trì cho để lọt lưới. Tôi tự tìm ra những con đường xuyên xóm, xuyên sân bay Tân Sơn Nhất, qua ngả chợ Cầu về Xóm Mới, ngả kho đạn qua An Nhơn. Thường là lúc một hai giờ đêm, trời mưa to gió lớn càng tốt, một mình tôi với chiếc xe thồ chở hàng tạ hàng lậu. Cùng với lời cầu nguyện tai qua nạn khỏi, trong túi áo tôi luôn luôn có gói thuốc lá điếu có cán, thuốc lẻ thôi, để nếu không may gặp "sự cố thì hát bài "con cá nó sống vì nước, con sống vì các ông các bà, xin các đồng chí thông cảm cho". Thời gian đó tôi vừa láo vừa biết nói dối như cuội.

Xóm Mới khi đó còn heo hút lắm, những trại lính của chế độ cũ chạy dài từ Ngã Năm Chuồng Chó đến tận An Nhơn, những nghĩa địa hoang, ruộng vườn ngả Hạnh Thông Tây, ban đêm, nhất là những đêm mưa, ễnh ương kêu y uống sao mà buồn thế. Người ta nói trắng con đường ấy có ma. Thây kệ. Hằng đêm tôi phải đi qua những ngả đó. Những trạm kiểm soát cũng ở những góc đường đó. Tôi gần như in thở đạp xe qua. Vậy mà cũng có lần có người xồ ra chiếu đèn pin vào mặt tôi, súng chĩa vào ngực. Tôi bèn hát bài con cá, hòa điệu cùng tiếng ễnh ương, rồi rất lễ độ xin thông cảm, tôi làm mặt khổ đến thảm hại. Có lẽ tôi diễn xuất cũng tài nên các cán bộ thông cảm. Nhác nhở tôi:

- Này khắc phục nhé, lần sau mà tái phạm không tha đâu.

Tôi vâng dạ rồi cút thẳng. Hy vọng rằng hơi thuốc có cán làm ấm lòng chiến sĩ. Nhưng tôi vẫn nghe lời ba người đó cãi nhau phía sau:

- Đúng thằng đó rồi, hôm trước nó chạy qua cầu có con suối đầu An Nhơn rồi biến mất chứ ma quỉ gì. Quân này láo thật.

Đúng là tôi chứ chẳng sai. Đêm hôm đó chính tôi chở keo qua chốt kiểm soát này, qua trạm được chừng chục thước, nghe tiếng hô hoán:

- Hàng lậu, hàng lậu bắt lấy nó, đứng lại không tao bắn!

Để bảo đảm nguyên vật liệu không hiểu sao tôi lại liều đến thế. Nhấn bàn đạp đạp bừa. Xe lao xuống dốc vun vút, ở một khúc quanh tôi lạc tay lái, thay vì qua cầu tôi lao ngay xuống con suối cạn, chỉ một cái ngã đau điếng người nhưng tôi cũng chui được vào gầm cầu. Rồi tôi nghe tiếng người tao nhao, đèn pin chiếu loang loáng:

- Rõ ràng nó mới ở đây mà biến đi đâu nhanh thế. Ma à?

Đèn pin chiếu xuống suối đúng ra là cống thoát nước từ khu Hoàng Mai chảy ra:

- Hay là nó rơi xuống đây?

- Rơi xuống thì gãy cổ sống sao nổi. Đấy, đồng chí thấy không, có gì đâu nào!

Đèn pin chiếu ngay sát chỗ tôi nằm cùng chiếc xe đạp, nhưng không phát hiện. Rồi toán người ấy bỏ đi. Vừa đi vừa bàn chuyện ma quỉ hiện hình rồi biến mất. Tôi là một con ma, có sao đâu.

Chuyến chở hàng lậu ấy của tôi trót lọt về đến Xóm Mới. Nhà chủ banh những cuộn keo ra, cắt cắt dán dán, vô khuôn hấp mớ hàng lúc năm giờ sáng. Lái buôn vỏ xe đã trực sẵn đầy nhà chờ lấy hàng. Tôi mệt quá vì mất gần một đêm không ngủ nghỉ, lại đau nhức cả một bên bả vai, vì cái ngã hồi đêm. Tôi lảo đảo ra đầu xóm ăn bát cháo lòng, đánh hết hai bát tiết canh mới thấy người khỏe ra. Tôi còn cần một ly cà phê, điếu thuốc nữa mới đủ đô, phục hồi sức khỏe. Tôi có tí tiền trong túi đủ nghỉ ngơi nguyên ngày. Chẳng làm giầu làm có gì nên tôi không tranh cướp vỏ xe đi bỏ mối. Dù tôi có lấy cũng được coi là ưu tiên số một. Tôi mệt mỏi quá rồi, đúng với nghĩa của nó. Tôi đạp xe ra cuối Xóm Mới, quán cà phê sát mé sông mở sớm. Ly cà phê nóng hôi hổi và thơm tho làm sao, tôi tự thường cho mình điếu thuốc có cán thơm râu, hưởng lấy không khí trong lành buổi sớm mai. Nhìn ra mặt sông xem những thuyền câu xuôi ngược hoặc đang giăng lưới. Tôi thường nghe người ta đồn rằng, trên bến sông này nhiều thuyền câu "giả dạng thường dân" làm taxi đưa người Xóm Mới ra "cá lớn" đậu ngoài biển, hoặc ếm gà ở Cần Giờ, đủ "quân số" ra biển, bỏ quê hương mà đi, kiếm ăn xứ người, nếu may mắn thoát chết, không chui vào bụng cá thì gửi "thùng " về cứu giúp gia đình còn kẹt lại trên quê hương. Chính tôi cũng mang trong lòng giấc mơ đen tối ấy. Những mong mình chính là những con người đó. Được tốt lành hay bất hạnh gửi số mệnh cho ông Trời định đoạt. Những phút giây mơ mộng đã giúp tôi sống, dù là lây lất qua những chuyến đổ hàng lậu thập tử nhất sinh như đêm qua. Một tiếng nói sau lưng làm tôi giật mình.

Tôi mới mang chứng bệnh hãi sợ này từ khi đi học tập cải tạo về:

- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, có phải anh đấy không?....

Tôi ngẩng lên, nhân vật Đức râu, chú em ít tuổi cùng ở chung trong trại học tập với tôi. Anh ta là người ở Xóm Mới, được ra về sau tôi một thời gian ngắn. Bây giờ anh cũng là chủ cơ sở làm vỏ xe lậu, mang lên Sóng Thần", tên của một tờ báo hồi chế độ cũ tôi từng cộng tác. Đức râu cũng hẩu món văn nghệ lắm, tính nết thì bộp chà bộp chộp, nhưng không phải là người xấu. ở trong trại học tập, Đức râu từng nổi tiếng qua bài hát Nửa hồn thương đau của Phạm Đình Chương. Trong phim Chân trời tím, truyện phim của nhà văn Văn Quang. Giọng anh to, ồm ồm, đặc sệt thổ âm Xóm Mới, mang từ miền Bắc di cư vào. Anh ta hát như thế này: "Rắm mắt... cho tôi tìm một thoáng hương xưa...".

Thật là hết ý, nhắm mắt mà anh ta cứ hát thành rắm mắt thì có chết người ta không chứ. Anh em cười cái rần, Đức râu cứ tiếp tục hát cho đến hết bài. Vui đáo để, ai yêu cầu hát là anh hát liền, râu ria cứ mọc ra tua tủa nên mới có tên là Đức râu. Thường mở đầu câu nói bằng câu "Rê su ma, lạy Chúa tôi". Anh là một con chiên ngoan đạo. Tôi thường thấy anh lần chuỗi Mân Côi lầm rầm cầu nguyện, khi ngừng lao động, dù là ít phút ngắn ngủi. Năng cầu nguyện tức là tăng thêm sức mạnh. Anh nói thế và tin thế, cũng tốt thôi khi đang ở trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Những nhát cuốc phăng phăng trên sỏi đá, sườn đồi tóc lửa. Mảng đất sắt cũng phải bật lên thành luống.

Tôi chậm rãi nói:

- Ngồi xuống đã nào, tôi bao cậu cà phê sáng nay.

Đức râu ngồi xuống:

- "Rê su ma, lấy Chúa tôi", anh làm gì mà có tiền, trúng mánh nào hả?

- Chẳng mánh mung gì hết, vẫn chở keo lậu như mọi khi thôi. Đêm qua bị bể một chuyến tí chết....

Tôi kể cho Đức râu nghe chuyến đi hàng gian nan đêm trước. Đức râu chăm chú nghe và luôn miệng "Rê su ma ". Đôi mắt của Đức râu nhìn tôi và những tiếng "Rê su ma" của anh, tôi biết anh xót xa cho thân phận tôi lắm. Bàn tay anh đang xoa bóp nhè nhẹ trên cái vai đau của tôi. Tôi nói:

- Tao tưởng bị gãy cổ rồi, may mà cái ngã lăn tròn, cái vai chịu đựng tất cả, nếu không chắc là đi đứt!

- "Rê su ma " lạy Chúa tôi, em cũng đang tính nhờ anh một chuyến hàng, nhưng nghe anh nói em không dám nữa.

- Hàng cho nhà Tốt còn chuyến được chuyến không, tao sức đâu mà đưa cho mày. Mày nhờ người khác đi, cũng nhiều tay liều mạng lắm. Vỏ hồi này bán chạy, bọn xe thồ và xích lô tín nhiệm là ăn bứt, tao không ngờ Xóm Mới lại thành công trong việc làm này... Anh thông thạo việc làm vỏ chưa?

- Tao có thể làm được từ A đến Z.

- Vậy tại sao anh không ra nghề, mình làm chủ lấy mình.

- Tao có nghĩ đến chuyện đó, nhưng không có vốn để làm ăn, vả lại tao không có tài làm chủ, chỉ có khiếu làm cu li thôi.

- "Rê su ma" anh hận đời đen bạc nên cay đắng thế thôi. Nhưng em biết rồi, anh nguyên là một nhà văn nên anh làm thế này để lấy chất liệu trong thực tế, biết đâu một ngày nào đó em lại không được đọc truyện của anh. Trong anh còn âm ỉ một đốm lửa, chưa biết lúc nào bùng lên. Em sống bên anh trong trại học tập suốt mấy năm trời, em biết chứ?

- Thế hả, cậu có thể gia nhập ngành Công an được đấy.

- "Rê su ma" anh nói thế thì chết nhà em mất, anh em mình cứ thành thật với nhau, với kẻ khác thì chẳng nên, không khôn khéo sao em sống được đến ngày hôm nay, em còn phơi thay thầy em trông coi cả mấy mẫu thuốc lào, mấy cái ao nuôi cá rô phi, rồi cái xưởng làm vỏ Sóng Thần của em nữa. Từ lâu em đã có ý định giúp anh mở một xưởng nữa lấy tên là Vỏ xe Sống. Vỏ xe Sống và Sóng Thần bon bon chạy khắp các ngả đường Việt Nam.

- Con lạy bố, con sợ ở tù lắm rồi, làm ơn khẽ cái mồm một tí nào. Bố trẻ cứ hứng lên phát ngôn bừa bãi là khốn đó. Có mồm thì cắp có nắp thì đậy.

- Xin nghe anh, nhưng cũng phải hỏi anh có ngày nào anh viết về cái Xóm Mới này không?

- Có chứ, những ngày tao chở keo lậu cho dân Xóm Mới làm vỏ xe lậu, ghi lại những chuyến chở keo lậu, gian nan nguy hiểm không kém gì đường Trường Sơn. Tao đặt tên cho nó là đường mòn Cao Su. Cuộc chiến đấu của riêng tao, đơn độc nhưng cũng không kém vẻ hào hùng đâu.

Buổi sáng hôm ấy tôi đã hứng chí mà bốc phét như thể với Đức râu. Đã mười lăm năm qua rồi. Mười lăm năm trong 23 năm của một đời người, hôm nay tôi mới thực hiện được lời hứa ấy khi nó đã ngấu, đã chín rục.

Cũng buổi sáng hôm ấy tôi hứng chí nói năng lung tung, hình như về một chuyến ra đi nào đó. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Nhưng cuối cùng tôi vẫn còn ở lại trên quê hương. úi chà chà, sao buổi sáng hôm ấy tôi lại hùng biện như vậy, phải chăng vì cái ngã đau suýt toi mạng đêm trước. Nên quên cả sợ, có những cơn bốc đồng thành bốc phét. Phải chăng tôi nhiễm bệnh khùng-điên-ba trợn.

Sài Gòn bị ảnh hưởng một cơn bão rớt nên đẹp như mùa thu Hà nội. Tôi nhẩn nha đạp xe xuống Xóm Mới, từ đầu Nguyễn Kiệm qua sân "gôn" xưa, qua bệnh viện Cộng Hòa, đến Ngã Năm Chuồng Chó, thẳng đường xuống An Nhơn là nhập Xóm Mới. Tôi là người sống ở Sài Gòn mà ngạc nhiên vì sự thay đổi của Sài Gòn. Sự thay đổi đó mới có từ khi nền bao cấp cáo chung, bước sang đổi mới rồi kinh tế thị trường. Một sự giầu sang mà người ta nói là phồn vinh, nhưng là thứ phồn vinh gì đó. Chưa phải là một sự bình sản, chênh lệch nhau thấy rõ nhất từ xưa tới nay. Nếu có chút hiểu biết người ta không thể vỗ tay hay hết lời ca tụng thành quả kinh tế phát triển tốt đẹp. Cứ chờ đợi rồi biết ngay thôi.

Với tôi mỗi bước chân di chuyển trong thành phố Sài Gòn xưa là mỗi kỷ niệm, dấu ấn đậm nét dĩ vãng. Thường thì không mấy tốt đẹp, bệnh viện Cộng Hòa xưa, nay là bệnh viện 175. Buổi chiều ngày 30-4-75, tôi chứng kiến hàng hàng lớp lớp thương bệnh binh của quân đội chế độ Cộng Hòa bị lùa ra khỏi bệnh viện, thằng mù cõng thằng què, thằng đổ ruột đựng trong bao ni lông ôm bên hông. Tôi không theo dõi kỹ nên không biết số phận họ ra sao, cũng không biết họ bị lùa ra khỏi bệnh viện rồi đi đâu, vì bệnh viện Cộng Hòa không còn là chỗ nằm dưỡng bệnh cho họ nữa. Nhưng khách quan mà nói tôi thấy thê thảm quá. Một chút mủi lòng trong cái xô bồ của thời thế.

Cái xóm trước bệnh viện Cộng Hòa xưa, nay mọc lên những căn nhà khang trang buôn bán tấp nập. Trại lính kéo dài từ Ngã Năm Chuồng Chó đến An Nhơn đã bị phá đi, mọc lên một khu thương mại, cả bên ngả Hạnh Thông Tây cũng vậy.

Xóm Mới nhỏ bé cũng khác xưa nhiều lắm. Dĩ nhiên là nhà cửa mọc lên, xây cất kiểu cọ đàng hoàng. Nhà thờ cũng nhiều và khang bang hơn trước. Dòng sông xưa, nay cũng có một cây cầu xi măng bắc qua, xe vận tải hạng nặng chạy được. Quán cà phê xưa, bên bờ sông tôi từng ngồi mỗi buổi sáng tinh mơ không còn nữa. Con đò dọc trên dòng sông đã triệt tiêu luôn ý nghĩ vẩn vơ của tôi mơ ước một lần nào đó đưa mình ra cửa biển, nhưng thực tế cũng có đấy. Không riêng gì dòng sông này mà nhiều dòng sông Việt Nam khác đã chảy ra biển, cũng đã từng mang theo nhiều con người ra đi. Có những nguồn tin mất tích và cũng có tin được hồi âm. Có hợp rồi tan, tan rồi hợp như truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ.

Suốt buổi sáng hôm ấy tôi rong chơi ở Xóm Mới. Tìm lại những kỷ niệm xưa, rất rõ nét trong tôi thời làm vỏ xe lậu. nhưng lại rất mơ hồ trong thực tế. Tôi không thể nào tìm mua được chiếc vỏ xe Solex vừa lỗi thời vừa cũ rích của tôi. Một món đồ đáng để vào viện bảo tàng. Hỏi một người làm vỏ xe cũ thì được biết khuôn hấp dó không còn nữa, người ta đã nấu chảy nó ra làm khuôn bánh xe Honda Dream rồi. Tôi từng thấy có đám trẻ con ùa ra xem chiếc xe của tôi, đôi mắt chúng nhìn chiếc xe quái dị. Chúng có nhìn thấy chiếc xe này bao giờ đâu. Đơn giản vì đương thời của chiếc xe Solex chúng chưa ra đời. Nên chiếc xe Solex chẳng là gì cả đối với chúng. Tôi buồn cười khi nghĩ đến câu nói của anh Tây già đóng tuồng quảng cáo cho tủ lạnh Electronic trên ti vi:

Bốn mươi năm vẫn chạy tốt!

Tôi chạnh lòng nghĩ đến thân phận tôi, như thân phận một số bạn bè cầm bút của tôi thuở nào. Tưởng là chìm đắm vĩnh viễn trong quên lãng, người ta muốn thế. Có người đã nói vào mặt tôi:

- Anh đừng tưởng bảnh, mười năm người ta không quên anh thì hai mươi năm.

Phải chăng tôi hai mươi ba năm mới hồi sinh, một giấc ngủ đông quá dài của loài gấu. Tôi có nghề làm vỏ xe, tôi có thể tái sinh được cái vỏ xe cũ rích của tôi, bằng cách này hay cách khác để chạy thêm được một khúc đường dài nữa. Tôi sẽ chạy suốt con đường hồi ký cho đến khi nó "xúm bã chè". Cũng trong ngày hôm ấy tôi đi qua một nhà thờ trong xóm đạo. Tôi nghe thấy bài kinh "lậy cha ":

Lậy Cha chúng con ở trên Trời

Chúng con nguyện danh cha cả sáng

Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện

dưới Đất cũng như trên Trời.

Xin Cha cho chúng con
lương thực hàng ngày và cha nợ chúng con.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

A men!

Lại là những ngày rong chơi trong thành phố. Sài Gòn đang ảnh hưởng một cơn bão. Ninh Thuận, bão đánh chìm xuống, tốc nhà, người chết. Nước sông Tiền sông Hậu dâng cao. Cả một vùng rộng lớn ở Đông Nam á bị đe dọa. Tôi nghĩ đến tập kịch Bão Thời Đại của Trần Lê Nguyễn vừa nằm xuống, mà anh đã viết cách dây bốn mươi năm.
Giữa đêm trường
Một
Hai
Ba
bốn
Năm
sáu
bảy
tám
Chín