Chương 7
Tác giả: Peter Maas
M ật danh Playactor - Diễn viên sân khấu - của nhóm điều tra hỗn hợp FBI-CIA nhằm tìm kiếm nguyên nhân đổ vỡ của các chiến dịch tình báo, là do điệp viên Jim Milbum đặt ra. Cùng với Jim Holt, Milbum được Tổng hành dinh FBI giao nhiệm vụ biệt phái sang làm việc cùng với các nhân viên phân tích của CIA tại Langley.
Không biết một chút nào về Rick cũng như tham vọng sân khấu của ông ta hồi thanh niên, nhưng Milbum luôn luôn tin rằng con người mà họ đang tầm nã phải là một diễn viên siêu hạng, người có khả năng đóng vai hoàn hảo và lừa được hầu hết những người xung quanh trong một thời gian rất dài. Người này cũng có một bản tính cứng rắn, không dễ bị sụp đổ trước gánh nặng của công việc tội lỗi. Ông ta đã làm, mà ông ta biết chắc rằng vì những việc đó, có người đã phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Sau này, khi mọi việc đã kết thúc, Milbum nói:
“Đó là vở kịch còn dữ dội hơn bất cứ một vở kịch nào mà Rick từng mơ tới.
Đóng vai là công việc duy nhất mà Rick cảm thấy tự tin khi thực hiện. Ông ta cảm thấy mình chỉ thực sự có giá trị khi là một diễn viên và đã bị tước bỏ một cách bất công cơ hội để trở thành diễn viên trên sân khấu.”
Miibum nhớ lại cảnh Rick lái xe tới phi trường trong căn cứ không quân Andrews để đón viên đại tá KGB đào thoát Yurchenko. Biết rằng Yurchenko đã từng có thời gian làm một nhân viên cao cấp trong Ban K phụ trách tình báo hải ngoại của KGB, hẳn là trong trí tưởng tượng của mình, Rick đã phải đới mặt với cái khả năng Yurchenko bước xuống cầu thang máy bay rồi nói với những người ra đón: “Điệp viên mà các ông đang săn tìm là Aldrich Ames.”
“Khi chúng tôi hỏi Rick về điều này - Milbum kể lại - Rick nói rằng ông ta không hề chuẩn bị sẵn cho một kịch bản như vậy. Tôi tin là Rick đã nói thật.
Điều tồi tệ nhất mà ông ta chờ đợi là Yurchenko đã nghe phong thanh đâu đó về hoạt động của một “chuột chũi” bên trong CIA và đó là lý do vì sao Rick viết bằng tiếng Nga trên một mẩu giấy rồi đưa cho Yurchenko xem, trên đớ viết rằng liệu Yurchenko có điều gì đặc biệt muốn khai về một ai trong hàng ngũ cấp cao của CIA không. Chúng tôi hỏi Rick: “Thế ông sẽ làm gì trên ô tô lúc đó nếu như Yurchenko - có thể không nói ra tên ông - nhưng sẽ mô tả ông, với một cái tên tắt chẳng hạn?” Ông ta nồi: “Tôi có cách của tôi, sẽ nói hoặc hành động bất cứ điều gì mà tôi thấy cần thiết để thoát ra khỏi hoàn cảnh đó”.
Tôi không nghi ngờ gì là Rick sẽ chẳng hề lưỡng lự lấy một phút để xoay xở và tìm cách thoát ra khỏi tình huống khó khăn như vậy. Biết cách ứng biến trong mọi tình hướng vẫn là một niềm tự hào của Rick. Ngoại trừ. Một hai thời điểm khó khăn ở Roma mà Rick đã vượt qua được, tôi nghĩ những lúc mà Rick lo sợ nhất chính là khi ông ta đi tới chỗ hộp thư chết hoặc những buổi gặp gỡ bí mật.
Rick luôn từ chối thừa nhận việc ông ta đã loại trừ được những mối lo sợ đó, nhưng ông la nói rằng sức ép căng thẳng chưa bao giờ có thể tác động làm cho ông ta lo lắng trong thời gian kiểm tra trên máy phát hiện nói dối. Ông ta còn nói với chúng tôi rằng thậm chí việc đó còn khiến cho ông ta cảm thấy thú vị.”
Khi nhóm Playactor đã bắt đầu vận hành thì Milbum đang là một sĩ quan giám sát thuộc nhóm phân tích các vấn đề tình báo Xô viết ở tổng hành dinh FBI. Là một người lầm lỳ ít nói, có mái tóc màu hung đỏ luôn cắt hớt ngược về phía sau, Milbum có kinh nghiệm đáng nể của một nhân viên phản gián với mười lăm năm trong nghề. Anh ta đã tốt nghiệp trường Cao đẳng Thiel, một trường khá nhỏ ở Pennsylvania nhưng rất có uy tín trong đào tạo về các lĩnh vực xã hội và tâm lý. Khi FBI mở một chi nhánh ở địa phương thì Milbum đang làm việc tại trường giáo dưỡng thanh niên ở đó. Sau khi Milbum vào làm ở chi nhánh FBI được hai năm thì FBI, với ý định làm cho công tác phản gián đối ngoại trở nên tinh tế hơn, bắt đầu úm kiếm những chuyên viên phân tích. Lập tức Milbum nhảy vào lĩnh vực này. Anh ta vốn rất thích thú phân tích cặn kẽ những gì thúc đẩy người ta hành động và giờ đây, như cá gặp nước, nhiệm vụ của Milbum là phân tích xem điều gì ẩn chứa sau những chiến dịch của KGB!
Các nhân viên thuộc nhóm phản gián trong Văn phòng FBI Washington không ngạc nhiên khi thường bắt gặp Milbum ngồi trầm tư mặc tưởng đâu đó, nghiền ngẫm những bí mật của KGB, cố gắng hình dung ra những phương án mà KGB sẽ tiến hành, các thủ thuật hoạt động tình báo trên phạm vi toàn thế giới của Ban điều hành Một KGB, cách thức nó tuyển mộ các người tin, những mánh lới mới nhất mà KGB đang đem ra thực hiện.
Cũng như Jim Hơlt, Milbum có một mối liên hệ không hoàn toàn cá nhân nhưng khá mật thiết với nhóm Playactor và đó là điều mà các sếp của anh ta phải tính đến. Trở lại với vụ Motorin, khi điệp viên Mike Morton của FBI tuyển mộ được viên thiếu tá Sergei Motơrin vào hồi đầu những năm 80, Motorin đã khăng khăng đòi hoặc anh ta chỉ làm việc với Morton, hoặc là sẽ không có bất kỳ một sự cộng tác nào. Điều này trái hoàn toàn với mọi quy tắc. Nhân viên tuyển mộ là nhân viên tuyển mộ, còn giám sát, điều khiển phải là người khác.
Nhưng Milbum nhận ra ngay được lợi ích của mối quan hệ thân thiện giữa hai người, đã ủng hộ việc duy trì mới quan hệ kiểu đặc biệt đó. Tất nhiên đó là một công việc rất khó khăn đới với Morton khi anh ta phải hành động một mình, cố gắng nhớ những câu hỏi đặt ra, những quy tắc bắt buộc phải theo, trong khi cố trấn an anh chàng Motorin hoảng hết giữ được sự can đảm, lại phải luôn cảm thông cùng với anh ta, đảm bảo để cho mối liên hệ mong manh ban đầu của họ không bị đứt gãy. Cũng vì vậy mà Milbum đã phải thường xuyên gặp Morton để xem xét những gì đã xảy ra, những gì sẽ phải làm trong thời gian tiếp theo, chỉ dẫn và cho anh này những lời khuyên. Mặc dù Milbum chưa bao giờ gặp gỡ với Motorin nhưng dường như hoàn toàn biết rõ về viên thiếu tá KGB này. Rồi Milbum được biết rằng Motorin không phải bị xử bắn - điều đã khá tồi tệ - mà thực ra anh ta bị tra tấn đến chết.
Từ tháng 7- 1991, Milbum và Holt bắt đầu công việc của họ tại Langley cùng với hai nữ chuyên viên phân tích cao cấp của CIA. Bọn họ được phân cho một căn phòng nằm ở tầng hầm trong toà nhà toàn sắt thép với kính giống như một pháo đài bê tông của Tổng hành dinh CIA.
Cả nhóm phải tránh không để cho bất cứ một ai có thể nhìn thấy họ. Họ được trao cho mã khoá phức tạp để mở cửa vào căn phòng dưới tầng hầm của Tổng hành dinh CIA. Nhưng khi đã vào trong phòng này rồi thì mọi sự lại được công khai tối đa. Căn phòng được chia ra thành từng ô bằng những vách lửng, giống như nơi làm việc của những công ty chứng khoán, bảo hiểm hay toà soạn của một tờ báo. Milbum, Holt và một chuyên viên phân tích của CIA chiếm vị trí sát phòng ngủ nhỏ, từ đó có thể trông ra bãi đỗ xe của các nhân viên CIA. Nếu như cần có những cuộc thảo luận riêng, họ có thể sử dụng phòng họp - gì chứ phòng họp thì ở trụ sở của CIA có rất nhiều - hoặc thông thường thì họ tới một căn phòng kín đáo của chuyên viên phân tích cao cấp cũng tham gia Skylight (mật danh mà CIA đặt cho vụ điều tra này), một phụ nữ trung niên rất được các nhân viên CIA kính trọng tên là Jean Vertefeuille.
Sự xuất hiện của các Điệp viên FBI như Holt và Milbum tại Tổng hành dinh Langley không gây quá nhiều sự chú ý trong số các nhân viên CIA. Cả hai người, đặc biệt là Milbum, đều thân thiết với CIA như người nhà. Nếu như có xuất hiện những lời xì xào to nhỏ - được hạn chế đến mức tối đa để tránh 'cho “con mồi” mà họ đang săn đuổi hoảng sợ - thì đó là việc họ không chỉ đến làm việc một, hai ngày mà trong một thời gian dài, sử dụng mạng máy tính của CIA và được phép xem những chồng hồ sơ bất tận mà cơ quan này lưu trữ Những vụ việc đổ bể trong năm 1985 đều được họ xem xét lại một cách cẩn thận. Đây là câu chuyện liên quan đến một điệp viên sát thủ già giơ chứ không phải là tay mơ mới vào nghề. Tơàn bộ những chi tiết của các chiến dịch, kể từ lúc khởi đầu cho đến khi bị phá vỡ, đều được xem xét lại một cách tỉ mỉ.
Hơlt và Milbum hết sức kinh ngạc khi thấy số chiến dịch tầm cỡ của CIA bị đổ bể quá lớn: khoảng 30 vụ Kể từ khi có luật quy định CIA được quyền thu thập mọi tin tức từng báo, FBI buộc phải thông báo cho CIA, dù sớm hay muộn, mọi nguồn tin mà cơ quan này xây dựng được. Nhưng ngược lại thì không. FBI vẫn không thể biết được nhiều việc mà CIA đang tiến hành, đặc biệt là những trục trặc trong hoạt động của cơ quan này. Cho đến tận khi FBI vào cuộc với Holt và Milbum, tình trạng đó vẫn tiếp diễn.
Hầu hết các chiến dịch bị đổ vỡ đều liên quan đến tình báo Xô viết. Do vậy nên điều hết sức logic là mọi sự xem xét của các nhân viên trong chiến dịch Skylight phải được bắt đầu từ ban của Rick, mà ngoại trừ thời gian công tác ở Roma, chính ông ta là người nắm vai trò như Trưởng phân ban phản gián. Điều đó khiến cho tên của Rick Ames bị đưa vào trong danh sách những người bị điều tra mà các nhân viên của nhóm hành động liên hợp CIA-FBI thiết lập. Tên của Rick được đưa lên vị trí đầu tiên trong danh sách này, không phải vì một lý do nghi ngờ nào đặc biệt mà đơn giản chỉ là theo thứ tự chữ cái ABC.
Ngay cả việc đã thu hẹp diện xem xét vào một Ban Liên Xô-Đông Âu thôi cũng đã là một nhiệm vụ khiến cho các nhân viên điều tra trong chiến dịch Skylight phải nản lòng, bởi vì có tới hai trăm nhân viên CIA làm việc tại ban này. Ngoại trừ có một phép mầu nào đó xảy ra, chứ các nhân viên điều tra biết rằng những ngày tháng làm việc dài đằng đẵng đang chờ mình ở phía trước.
Không một ai trong số họ nghi ngờ về việc có điệp viên của đối phương xâm nhập vào bên trong hàng ngũ của mình. Công việc của họ giống như đi tìm chiếc kim khâu trong đống cỏ khô vậy, cũng không một ai biết chắc là liệu chỉ có một chiếc kim hay là còn nhiều hơn thế nữa? Rất có thể không phải chỉ có duy nhất một kẻ phải chịu mọi trách nhiệm về tất cả những chiến dịch bị đổ vỡ.
Có thể một kẻ đã gây ra một số vụ, còn một ai đó khác gây ra những vụ còn lại.
Cả Jim Holt và Jim Milbum đều không muốn nghĩ tới khả năng này.
Holt nhớ lại “Công việc được tiến hành bằng cách xem xét lại tất cả những điệp vụ hoặc chiến dịch bị coi là đổ vỡ tìm hiểu từng cá nhân một cách tỉ mỉ, xem có bất kỳ một dấu… hiệu phạm tội hoặc lý do để dẫn tới phạm tội hay không. Cũng cần phải điều tra về các nhóm - có tới hai trăm nhóm cả thảy - để xác định ai trong số họ có liên quan tới các chiến dịch bị đổ vỡ, vai trò của họ trong những chiến dịch này. Một số người đương nhiên là có quyền tiếp xúc sâu rộng với nguồn tin và đóng một vai trò quan trọng hơn so với những người khác. Chúng tôi cũng sử dụng những yếu tố khác có thể giúp đỡ cho công việc của mình, chẳng hạn thông tin mà nhóm đặc nhiệm của CIA đã thu thập được trong những năm trước đó, những cố gắng của họ nhằm tìm kiếm sự thật, kết hợp với những kết quả điều tra mà chính FBI từng tiến hành. Tất cả đều được xem xét dưới ánh sáng những tìm hiểu của chúng tôi trong thời điểm đó.”
Đó là một công việc khổng lồ - Hơlt nói với vẻ riêng tư - nếu xét theo số tài liệu ban đầu phải nghiên cứu Anh phải cố gắng thiết lập các tuyến liên kết, tìm ra đâu là những điểm nhạy cảm, những sự trao đổi tin tức hó hênh, có thể cả những ngườn tin không đáng tin cậy, đưa tất cả ra dưới ánh sáng mặt trời để xem xét.
Điệp viên của ta đang gặp gỡ thường xuyên với một nguồn tin, thế rồi bỗng dưng anh ta không xuất hiện trở lại nữa, Cũng có thể chỉ bởi một nguyên nhân vô hại nào đó. Như có người trong gia đình hoặc bản thân anh ta bị ốm chẳng Tác Giả: Peter Maas ĐIỆP VIÊN Ở WASHINGTON Người Dị _ch: Yên Ba hạn. Sẽ phải xem xét lại việc liên lạc đã được thực hiện như thế nào, tiếp xúc ra sao, kéo dài trong bao lâu, tình huống nào dẫn tới việc chấm dứt đột ngột những cuộc tiếp xúc. Liệu những chiến dịch bị đổ vỡ chỉ liên quan đến tình báo Nga?
Nguồn tin có dấu hiệu nào tỏ ra căng thẳng hay không?”
Mấu chốt của vấn đề chính là khả năng tiếp cận với nguồn tài liệu của đối tượng bị truy tầm. Với cảm xúc lạnh lùng, phải phân loại, làm sáng tỏ được trong phạm vi hẹp, những ai có quyền được đọc một tài liệu đặc biệt nào đó hay được biết về các chiến dịch, dù là trực tiếp hay gián tiếp thông qua những mối quan hệ với những nhân viên tham gia chiến dịch. Có thể đối tượng không biết được tên thật của nguồn tin, thế nhưng hắn ta chỉ cần báo cho KGB biết những đặc điểm chi tiết xung quanh nguồn tin thì với trình độ nghiệp vụ của mình, chẳng khó khăn gì mà KGB không lần ra được nguồn tin và bóc gỡ nó.
Sự tiếp cận mang tính gián tiếp cũng ẩn chứa những nguy hại lớn lao. Nó phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ cá nhân giữa các nhân viên CIA. Liệu đối tượng có phải là một gã thường xuyên la cà đây đó, chuyên ngồi lê đôi mách, thỉnh thoảng lại khơi mào ra những cuộc tán gẫu trong những giờ nghỉ giải lao hút thuốc, hay là ai đó trong một nhóm người có chung sở thích?
Tuần này nối tiếp tuần khác, Holt, Milbum và hai chuyên viên phân tích của CIA tỉ mẩn xới tung toàn bộ hồ sơ của hai trăm nhân viên trong Ban Liên XôĐông Âu và của khoảng mười quan chức hành chính cấp cao CIA nằm ngoài ban này, những người mà do vị trí công tác của mình có thể nắm được những thông tin về các điệp vụ đã bị đổ vỡ. “Một công việc buồn chán” - Holt nhớ lại.
Việc đọc vô số những tài liệu về nhân thân của các điệp viên như vậy đúng là một công việc không dễ chịu gì Phần lớn chúng được viết với một giọng điệu quan liêu bàn giấy, vẽ nên chân dung của những công dân chỉnh tru, những người may mắn được sở hữu một chiếc ô tô Chevrolet, những con người có tinh thần yêu nước trong cộng đồng tình báo và sẵn lòng phụng sự Chính phủ. Trong đó tất nhiên không hề có một dấu hiệu nào về sự mờ ám hay tội lỗi, những điều mà Holt hình dung là cố gắng tìm kiếm.
“Chúng ta phải trả lời được câu hỏi là làm thế nào mà thằng chó chết này cứ năm này qua năm khác cung cấp những thông tin có thể khiến người khác phải bở mạng” - Holt nói với Milbum trong một buổi chiều hai người từ Langley trở về.
Ừ, Milbum trả lời - Thật đúng là không thể tin được! Nhưng có vẻ như chúng ta vẫn chưa tìm thấy gì”
Họ vẫn tiếp tục tìm kiếm những dấu vết dù là nhỏ nhất trong đống hồ sơ. Rất có thể là án dưới những dòng chữ lạnh lùng là một điểm yếu nào đấy mà những người Xô viết, bằng cách này hay cách khác, đã biết cách tận dụng để khống chế đối tượng. Một vụ ly dị tai tiếng. Một người trong gia đình bị ôm nặng. Hay Những khó khăn nào đó về mặt tài chính.
Đối với Holt và Milbum, những nhân viên CIA trong các hồ sơ mà họ đọc đơn giản chỉ là những cái tên. Nhưng đối với Jean Veltefeuille và người nữ nhân viên phân tích thứ hai, Sandy Grimes, thì đó là những người bằng xương bằng thịt mà họ biết rõ. Đặc biệt là Vertefeuille. Thoạt đầu, hai điệp viên FBI tỏ vẻ thận trọng vì cho rằng rất có thể là những mối quan hệ cá nhân đó có thể làm ảnh hưởng đến sự khách quan trong đánh giá của hai chuyên viên CIA. Nhưng rồi ngay lập tức, họ nhận ra rằng các đồng nghiệp CIA của mình rất quyết tâm trong việc đi tới cùng để tìm ra sự thật và có thể cung cấp những thông tin dường như vô hại nhưng giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian.
“Gã này là thế nào đây? - một lần, Milbum hỏi khi đọc một hồ sơ - Hãy nhìn vào kết quả hai lần kiểm tra trên máy phát hiện nói dối của anh ta này.
Lần đầu, anh ta nói KGB đã tiếp cận nhưng anh ta đã bỏ rơi họ; anh ta có báo cáo về việc này. Nhưng trong hồ sơ cũng nói rõ là người tiến hành cuộc kiểm tra không hoàn toàn hài lòng với câu trả lời. Anh ta được chuyển sang một công việc ít nhạy cảm hơn. Rồi 5 năm sau, anh ta tham gia cuộc kiểm tra trên máy phát hiện nói dối lần thứ hai và lần này cũng lại cho những kết quả đáng ngờ.”
Vertefeuille nói: “Tất cả chúng ta đều biết rằng máy phát hiện nói dối không phải bao giờ cũng cho kết quả đáng tin cậy và điều đó đặc biệt đúng với trường ~hợp người đồng nghiệp này của chúng tơi. Tôi biết anh ta rất rõ. Anh ấy là một người rất dễ bị kích động, thần kinh. luôn căng thẳng. Nếu anh có đi rón rén sau lưng anh ta rồi ú oà thì có lẽ anh ta sẽ nhảy cao lên đến trần nhà. Chúng tôi không nghĩ là anh ta có vấn đề gì. Anh ta không thể là người mà chúng ta tìm kiếm đâu.”
Trong văn phòng của Vertefeuille, Jim Holt chỉ vào một bản đánh giá nhân viên, hỏi: “Cái này có ý gì khi họ viết rằng anh ta cần phải được tư vấn thêm trong việc giao tiếp?”
Ồ, Vertefeuille biết rõ về người này. “Họ chỉ muốn mọi sự tết đẹp hơn thôi.
Tất cả những gì mà họ muốn nói là anh ta là một người vô dụng, không có hiệu quả trong công việc. Họ muốn bù đắp những phần năng lực thiếu hụt của anh ta.
Tôi không biết có nên làm thế hay không nhưng thỉnh thoảng vẫn như vậy đấy”
Đối với nhiều nhân viện khác, Vertefeuille hoặc Grimes nói: “Các anh thấy đúng là trên hồ sơ có vẻ rất tồi tệ, nhưng trên thực tế, anh ta thực ra không xấu đến mức như thể hiện trên hồ sơ đâu.”
Hoặc: “Chúng tôi đồng ý rằng một vài người lẽ ta đã phải bị đuổi việc từ lâu rồi, nhưng có điều là những người này không có quyền tiếp cận với những tài liệu nhạy cảm.”
Holl và Milburn luôn đóng vai những người tầm nã tội phạm, nhưng cứ mỗi khi họ đưa ra một trường hợp nào đó, hai nhân viên phân tích của CIA đều có cách lý giải và chứng tỏ là họ có lý. Đến khoảng cuối mùa thu, một nửa trong số hai trăm hồ sơ của các nhân viên CIA đã được loại bỏ. Lý do chính vì đó là những người không có khả năng tiếp cận với những điệp vụ đã bị đổ bể.
Giữa vô vàn những sự kiện như vậy thì ở ngay ngưỡng cửa của nhóm Playactor bỗng dưng xuất hiện một phép màu cho phép giải thích tất cả mọi rắc rối. Cũng giống như những tin vịt trước đó khi có những cuộc điều tra được tiến hành ở Langley, một sĩ quan CIA làm việc tại Trạm Boun thông báo rằng một nguồn tin do anh ta xây dựng được trong KGB nói rằng một điệp viên Xô viết đã xâm nhập thành công vào Trung tâm thông tin của CIA tại Tây Virginia. Đây là một giả thiết mà FBI trước đó chưa từng nghe thấy. Theo nguồn tin này thì điệp viên Xô viết đó hiện vẫn còn sống. Thế nhưng khi người nhân viên CIA nọ bị tra hỏi kỹ càng hơn thì mới vỡ lẽ ra rằng anh ta đã dựng lên toàn bộ câu chuyện với mục đích-để thăng quan tiến chức. Anh ta lập tức bị sa thải.
Các thành viên của nhóm Playactor quyết định sẽ phỏng vấn những người còn lại trong danh sách. Những cuộc phỏng vấn phải được tiến hành sao cho không có vẻ mang tính đối đầu mà chỉ như là một sự hợp tác tìm kiếm chung. Ý tưởng thể hiện là không được gọi cho bất cứ một ai trong số những người được phỏng vấn cảm giác là họ bị đặt trong vòng_nghi ngờ.
Thường thì: Jean Vertefeuille là người bắt đầu. “Nào, mời vào và ngồi xuống đây bà ta nói với người bị phỏng vấn - Không rõ anh có biết hay không nhưng chúng tôi vẫn đang tìm kiếm nguyên nhân thất bại của những chiến dịch chống người Liên Xô hồi năm 1985.
Anh cũng biết rằng Edward Lee Howard và có thể một vài người nữa là nguyên nhân khiến cho các chiến dịch đó bị đổ vỡ. Nhưng chúng tôi muốn tiến thêm một bước nữa, có thể là bước cuối cùng, để giải quyết dứt điểm tất cả những khúc mắc. Hôm nay, chúng tôi muốn mời anh tới đây để giúp nhớ lại một số sự việc diễn ra trong thời gian đó. Ồ, xin lỗi, đây là những đồng nghiệp bên FBI của chúng tôi.”
Vertefeuille giới thiệu Holt và Milbum. Rồi bà ta nói: “Tại sao chúng ta không bắt đầu bằng việc xác định xem anh ở đâu trong thời điểm năm 1985 nhỉ?”
Tiếp theo đớ là những câu hỏi dường như hoàn toàn vô hại, không có vẻ gì liên quan đến những âm mưu, thủ thuật gài bẫy, chỉ là câu-chuyện-giữa-chúngta- với- nhau, đại loại như:
Anh có nhớ anh làm gì trong thời gian đó hay không?
- Khi đó anh làm việc dưới quyền ai? Anh có nhận thấy bất kỳ một sự thay đổi nào ở những cấp trên của mình không? Chúng có ảnh hưởng gì đến anh?
- Những giấy tờ tài liệu mật đi qua văn phòng anh theo quy trình nào?
- Đã có những thay đổi gì trong công việc của anh?
Có ai đó yêu cầu anh làm bất kỳ một điều gì đó bất bình thường không?
Rồi những người bị phỏng vấn được khuyến khích nói về những người cùng cộng tác, làm việc chung với mình:
- Liệu có ai trong số những người anh làm việc chung có những sự thâm dò đáng ngờ về các chiến dịch không nằm trong phạm vi trách nhiệm của anh ta không?
- Anh có thấy bất kỳ một ai trong số những người mà anh làm việc chung gây ra cho anh sự khó chịu nào không?
Những câu hỏi ngày càng trở nên tinh vi và khó trả lời hơn:
- Cá nhân anh nghĩ gì về tất cả những gì đã xảy ra?
- Theo anh thì nguyên nhân nào đã khiến cho những chiến dịch này bị đổ vỡ?
- Liệu anh có cho rằng có một “chuột chũi” đang nằm trong cơ quan chúng ta không?
Anh có cho rằng hàng loạt điệp vụ đổ bể đó là những trường hợp riêng biệt ngẫu nhiên xảy ra cùng lúc hay là chúng có liên quan với nhau?
- Xin hãy nói cho chúng tôi biết những suy nghĩ của anh?
Niềm hy vọng là sẽ tìm thấy một vài dấu hiệu đáng ngờ nào đó không thấy thể hiện trong các biên bản ghi chép những cuộc phỏng vấn. Những câu trả lời hết sức đa dạng, theo mọi hướng khác nhau. Một nhân viên nói: “Ồ, mọi sự dường như đều tồi tệ đối với tôi. Có thể tôi đã đọc quá nhiều sách kinh đị, nhưng tôi nghĩ đúng là trong cơ quan ta có một cơn “chuột chũi”.
Một người khác nói: “Có thể có trục trặc gì đó trong hệ thống thông tin.
Đúng là trong hệ thống thông tin của chúng ta ấy. Chắc chắn là có chuyện… ”
Tâm trạng thù địch lộ rõ. Luôn có những kẻ làm ra bộ lăng xăng, quan tâm đến tình trạng an ninh của cơ quan, của đất nước. Một gã nghiện rượu. Một gã khác đánh vợ như két và hắn ta đang chuẩn bị “trải qua một vụ ly dị tồi tệ.”
Rick Ames là người bị nhắc tới trong ba cuộc phỏng vấn. “Ông ta đã từng là một kẻ lôi thôi nhếch nhác - một nhân viên mô tả ngắn gọn tính cách trước đó của Rick - Lạy Chúa, anh có thể ngửi thấy mùi ông ta thở từ cách xa hàng cây số. Thế rồi ông ta đi Roma và khi quay trở về, mua một ngôi nhà lớn, một chiếc xe hơi mới cáu và khoác những bộ quần áo giá hàng nghìn USD. Ông ta lấy tiền đó ở đâu ra?”
Tất nhiên, bản thân Rick cũng bị tra vấn. Sau khi trở về từ Roma, trong ba tháng trời, ông ta làm việc tại Ban Tây Âu, đúng ở vị trí công tác cũ của mình trước đó. Khi ban này phải cải tổ lại, Rick chuyển sang làm trưởng ban chiến dịch phụ trách địa bàn Tiệp Khắc với cấp hàm của một sĩ quan cấp chiến dịch.
Vị trí công tác này giúp cho Rick có khả năng nắm được toàn bộ tên tuổi cũng như đặc điểm của các điệp viên đang hoạt động trên địa bàn này và ông ta nhanh chóng chuyển chúng qua hợp thư chết có mật danh Bridge để nhân viên.
KGB tới lấy đi. Khi chính quyền cộng sản ở Tiệp Khắc bị sụp đổ vào năm 1990, Rick bắt đầu vận động hành lang để được chuyển sang những vị trí công tác mới nhiều thách thức hơn.
Trong số những vị trí này, ông ta nhằm tới cương vị phó Trạm CIA ở Moscơw. Theo Rick, đó sẽ là một sự kết thúc xứng đáng trong nghề nghiệp” của ông ta. Cũng khoảng thời gian đó, Rick _đã một lần bay sang Viên theo lời hẹn trước với Vlad và nhận được 150.000 USD nữa.
Trong thời gian diễn ra cuộc phỏng vấn với các nhân viên nhóm điều tra hỗn hợp CIA và FBI, Rick đang ở vào giai đoạn thôi làm một chuyên viên phân tích thuộc Trung tâm phản gián và quay trở lại Ban Liên Xô – Đông Âu với cương vị trưởng nhóm nghiên cứu về KGB, một vị trí giúp cho ông ta có được khả năng tiếp cận rộng rãi các nguồn tài liệu mật của ban này.
Jim Holt nhớ lại rằng Rick rất bình tĩnh, thoải mái, tỏ ra muốn hợp tác với các nhân viên trong nhóm điều tra. Thậm chí ông ta còn tự giác thừa nhận rằng đã không chỉ một lần quên khoá két an toàn chứa những tài liệu mật của mình và thật sự lấy làm ân hận nếu như có một kẻ nào đó đã có cơ hội tham khảo những tài liệu mật này. Rick giải thích lý do của những sơ suất đó là do ông ta đã lâm vào một giai đoạn hết sức khó khăn trong cuộc sống, khi phải trải qua cuộc ly dị đầy sóng gió. Ông ta đảm bảo rằng những sơ suất tương tự sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Ngoài ra, Rick cũng thừa nhận vôi vẻ hoàn toàn thẳng thắn rằng ông ta có tiếp cận với một sơ điệp vụ đã bị đổ bể. Nhưng đó là một chuyện hết sức bình thường đối với một sĩ quan làm công tác phản gián như ông ta.
Các nhân viên điều, tra xoáy sâu vào vụ Sergei Motorin, biệt danh Gauze. Rick ra vẻ cố gắng lục lọi lại trí nhớ câu trả lời của ông ta đượm đầy vẻ mơ hồ. Tôi thực sự không nhớ rõ trường hợp này - ông ta nói – Anh ta tham gia vào một chiến dịch cùng với chúng ta chăng?” Tất nhiên là không phải như vậy.
“Nào, hãy thử đặt ra một giải thiết thế nảy nhé - Jean Vertefeuille nói - Nếu như anh đang làm việc cho người Xô viết, anh sẽ hành động ra sao trong trường hợp đó? Và anh sẽ không chỉ một lần liên lạc với họ chứ?”
Quả thật là rất khó khi nghĩ đến điều này – Rick trả lời - Tôi không thể nào hình dung ta mình lại có thể làm một công việc như vậy, nhưng nếu đã hỏi thì tôi sẽ cố gắng trả lời. Nếu tôi có tiếp xúc với họ thì có lẽ tôi sẽ thực hiện ở nước ngoài. Nếu không thì sẽ rất mạo hiểm, đúng không?”
Jim Holt nhớ lại: “Sau cuộc phỏng vấn này, Rick tin chắc rằng ông ta đã không hề gây ra bất kỳ một mối nghi ngờ nào cho chúng tôi. Chúng tôi đã nói với ông ta cũng như tất cả những người bị phỏng vấn là chúng tôi có các cuộc nói chuyện hoàn toàn riêng tư với tất cả những ai có liên quan tới các điệp vụ bị đổ bể.”
Trên thực tế, những mối nghi ngờ xung quanh Rick cũng đủ để người ta chuyển ông ta ra khỏi vị trí công tác ở Ban Liên Xô-Đông Âu. Vào cuối năm đó, Rick bị điều chuyển sang Trung tâm chống ma tuý của CIA, được thành lập nhằm xoa dịu những lời buộc tội rằng CIA chẳng hề làm bất cứ điều gì để chống lại nạn buôn lậu ma tuý quốc tế. Thế nhưng việc điều chuyển này cũng chẳng ảnh hưởng mấy đến việc Rick vẫn thường xuyên có mặt ở Ban Liên Xô-Đông Âu để biết được những gì đang xảy ra hoặc lượn qua các máy tính trong nội bộ
CIA để tìm kiếm những gì mà ông ta thấy là cần thiết.
***
Đ ầu năm 1992, danh sách những kẻ bị tình nghi của nhóm điều tra hỗn hợp CIA-FBI thu gọn lại chỉ còn khoảng hai chục người. Dĩ nhiên là Rick vẫn còn nằm trong số này. Các nhân viên trong nhóm điều tra gọi nó là danh sách tín đồ. Đó là một biệt ngữ vẫn dùng trong CIA và được FBI chấp nhận, nhưng không một ai trong hai cơ quan này biết cái biệt ngữ đó xuất phát từ đâu. Jim Milbum muốn thiết lập một loạt các hồ sơ rõ ràng, rành mạch về những người có khả năng tiềm tàng trử thành những “nguồn tin xấu.”
Tất cả những người này đều có một điểm chung: họ là những người có khả năng tiếp cận được với những nguồn tin liên quan tới các điệp vụ bị đổ vỡ. Mỗi người trong số họ đều bị các nhân viên trong nhóm điều tra hỗn hợp xem xét lại một cách hết sức kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Thực hiện công việc như thế nào. Có khuynh hướng tình dục bất thường không? Các thói xấu. Đời sống gia đình. Những câu trả lời không trung thực khi chịu sự kiểm tra trên máy phát hiện nói dối liên quan đến các điệp vụ phản gián. Thậm chí cả thời gian ra vào trụ sở CIA ở Langley lưu lại trên thẻ ra vào cũng được kiểm tra một cách kỹ lưỡng. Trong thời gian những điệp vụ bị đổ vỡ, đang ở trong nước hay ở nước ngoài? Có những điều không thể giải trình được về thu nhập không?
Một lần nữa, tên của Rick lại nổi bật lên do liên quan đến tiền nong. Lần đầu tiên, Hoit và Milbum biết đến một bản ghi nhớ của Trung tâm phản gián, đề ngày 5-12-1990, đề cập đến việc “cần mở một cuộc điều tra an ninh đối với Aldrich H. Ames” trên cơ sở “những mối nghi ngờ về thói quen tiêu xài phung phí của ông ta trong vòng 5 năm qua. “Bản ghi nhớ này thừa nhận rằng “có những cách giải thích chấp nhận được” là tiền của Rick có thể dơ khoản tiền bảo hiểm do mẹ ông ta để lại, nhưng “điều không may là chúng tôi không xác định được nơi sinh sống của bà ta.” Một khả năng khác nữa là “tiền cũng có thể đến từ gia đình bên vợ của ông ta.” Bản ghi nhớ đi đến kết luận: “Cần phải khẩn cấp thực hiện yêu cầu của chúng tôi. Kể từ khi Ames được điều chuyển sang Trung tâm phản gián (CIC), khả năng tiếp cận với những hồ sơ mật của ông ta đã có giới hạn. Chúng tôi sẽ nhanh chóng giao những công việc mới để đảm bảo giới hạn khả năng tiếp cận hồ sơ mật của ông ta. Chúng tôi hy vọng là ít nhất cũng phải tiến hành kiểm tra Ames trên máy phát hiện nói dối trước khi chúng tôi buộc phải tiến hành những biện pháp này.”
Một tài liệu khác ghi lại báo cáo của một nhân viên an ninh khẳng định rằng Rick không có khoản tiền bảo hiểm nào. Nhân viên an ninh này đã kiểm tra lại tình trạng tài chính của Rick và không thấy ông ta có khoản nợ nào đáng kể.
Các cuộc điều tra cho thấy gia đình đằng vợ Rick ở Colombia khá giàu có và điều này được xác nhận bởi Trạm CIA ở thủ đô Bogotá. Cũng xác định được Rick có ba tài khoản vượt quá giới hạn 10.000 USD và căn nhà của ông ta ở Bắc Arlington trị giá 540.000 USD, thanh toán bằng séc lấy ra từ một quỹ mà Rick nói do vợ mình được hưởng khoản thừa kế của gia đình.
Với những điệp viên như Holt và Milbum, những mối nghi ngờ này rõ ràng vẫn chưa được giải quyết một cách riết ráo. Tất cả những gì liên quan đến “khoản tiền từ Colombia” mới chỉ là giai thoại chứ chưa có gì được kiểm chứng một cách chắc chắn. Một bức điện tín lập tức được gửi tới Trạm CIA Bogotá, yêu cầu xác minh lại chi tiết hơn về gia đình Rosario. Việc chia tài sản thừa kế đã diễn ra khi nào? Dựa trên những gì mọi người biết về phong cách tiêu xài phung phí của Rick, rõ ràng là việc thừa kế này không thể xảy ra trong thời kỳ ông ta cưới cô vợ thứ hai được. Việc Rick mở nhiều tài khoản ở ngân hàng liệu có vi phạm những quy định của CIA không? Khi kiểm tra tình trạng tài chính của Rick, nhân viên an ninh mới chỉ kiểm tra ở Ngân hàng tín dụng liên bang Northwest trong khi anh ta biết rõ là Rick còn có hái tài khoản khác ở Ngân hàng Dominion.
Đến tháng 5-1992, có thêm một thành viên nữa tham gia vào nhóm Playactorở Langley, một chuyên viên kiểm tra sổ sách tên là Đan Payne. Dưới danh nghĩa điều tra vì an ninh quốc gia, Đan Payne lập tức gởi những bức thư cho hai ngân hàng Nonhwest và Dominion cũng như các công ty phát hành thẻ tín dụng lớn khác, yêu cầu các ngân hàng và công ty này cung cấp tài liệu để tìm kiếm những dấu vết tài chính của Rick hoặc Rosario.
Trong khi nhân viên điều tra đang tiến hành tất cả các công việc đó thì Rick cũng có những điều phải bận tâm lo lắng. Vẫn chỉ là chuyện tiền nong. Chỉ trong vòng 5 tháng đầu năm 1992, một mình Rosario đã tiêu hết 50.000 USD trong thẻ tín dụng cho những khoản học phí của cô ta ở trường đại học Tổng hợp Georgetown, nơi cô ta đang tiếp tục theo học, cải tạo lại ngôi nhà, thuê vú em trông nom cậu con trai của hai người, thuê một người hầu gái, hai người làm vườn. Thêm vào đó, một khoản tiền 25.000 USD cũng được chi trả cho chiếc xe Jaguar đời 1992 mới cáu Rick mua.
Vậy là trong một một bức thư đượm vẻ giận dỗi gửi cho KGB, Rick than phiền về những khoản tiền mà ông ta cần phải có ngay, mô tả rằng ông ta đang ở trong một tình thế “hết sức căng thẳng và khó chịu.” Trong thư này, Rick cũng nói ông ta đã mở một tài khoản ở ngân hàng Thuỵ Sĩ và cần một số tiền mặt cho vài khoản đầu tư khác Rick mô tả mình đang ở vào một vị trí khá khó khăn. Rick viết rằng hộp thư chết có mật danh Pipe - nằm ở cống ngầm dưới một đường đi trong công viên Wheaton Regional - đủ rộng để “chứa được” (nguyên văn) 100.000 USD.
Ngay lập tức, Rick nhận được 30.000 USD, sau đó đến tháng 8-1992, ông ta nhận được thêm 20.000 USD nữa.
***
B ốn tháng trước đó, vào tháng 2- 1992, trong hai căn phòng đóng kín ở Văn phòng FBI Washington vốn được trưng dụng cho nhóm điều tra vụ nổ chiếc máy bay Pan Am 103, Tim Caruso, người đã cầm đầu nhóm Amace năm 1986 điều tra về vụ biến mất của Valery Martynov và Sergei Motorin, cuối cùng cũng đã triệu tập đủ được những điệp viên ông ta cần cho giai đoạn hai của nhóm Playactor. Những điệp viên này được Caruso tuyển từ những bang khá xa xôi như Georgia và Texas. Tiêu chuẩn mà ông ta lựa chọn là phải từng có kinh nghiệm tham gia những điệp vụ phản gián lớn trước đó và một điều nữa, như Caruso nói, là “phải có bản năng của những con chó rừng.” Có nghĩa là không bao giờ buông tha những con mồi mà mình săn đuổi.
Giống Caruso, trong số các điệp viên này có một người cũng phải rời bỏ vị trí trọng yếu khi bị trưng dụng vào nhóm Playactor. Đó là Mike Anderson, dù đó đang là quyền Trưởng Ban giám sát trong nhóm) phản gián CI-4, có nhiệm vụ phá vỡ mọi chiến dịch mà Ban K của KGB tiến hành ở Washington. Nếu quả thật có một “chuột chũi” đang tồn tại đâu đó thì chắc chắn nó phải chịu sự điều hành của Ban K. Anderson chẳng hề phân vân khi phải rời khỏi chức vụ đề tham gia vào chiến dịch này. Ba mươi mốt tuổi, anh ta là một kẻ “tử vì đạo” của FBI. Anderson không bao giờ quên được cái ngày gia đình anh ta nhận được một chiếc hộp gỗ gụ nhỏ, bên trong có một tấm huy chương gắn với sợi ruybăng bằng vải sa tanh màu xanh. Đấy là hồi ức cuối cùng về cha anh ta. Ông ta là một điệp viên FBI địa phương ở Harrisburg, bang Pennsylvania, đã chết trong khi làm nhiệm vụ. Một gã “người rừng”, như cách dân chúng trong vùng gọi gã ta, đã bắt cóc một cô nữ sinh trung học và lôi cô bé vào trong những khu rừng hoang vu, rậm rạp, nơi những hang hốc tối tăm là nhà ở của gã ta. Cha của Anderson đã tiến hành cuộc truy tìm gã “người rừng” nọ và rồi trong một cuộc chạm trán bất thần, ông đã bị gã ta giết chết bởi một phát đạn bắn gần. Các điệp viên FBI đã tiến hành một cuộc truy quét, cày xới toàn bộ vùng bờ biển phía đông để tầm nã gã đã giết cha anh ta.
Với Anderson, việc tham gia điệp vụ dưới quyền Caruso là một dịp để nâng cao những kỹ năng nghiệp vụ mà anh ta cần có trong sự nghiệp của mình.
Caruso đã khẳng định với anh ta rằng đây chính là một điệp vụ để đời đối với bất kỳ nhân viên phản gián nào.
Anderson được cho xem lại toàn bợ các vụ việc. Anh ta nhớ lại: “Tôi xem xét tỉ mỉ các điệp vụ đã xảy ra trong quá khứ và cố gắng phát hiện xem có bất cứ điều gì còn chưa được tìm hiểu hay không. Vấn đề nằm ở chỗ là liệu chúng tôi đã tìm được đúng những người cần tìm chưa. Chúng tôi có một sơ đồ chỉ rõ số lượng lớn các điệp vụ gặp vấn đề. Có những điệp vụ thì rõ ràng là Edward
Lee Howard có vẻ như phải chịu trách nhiệm, nhưng có những vụ mà ông ta không thể tiếp cận được, vậy mà vẫn đổ bể. Chúng tôi phải tìm cách giải thích điều này…
Có một vài yếu tố khiến người ta cho rằng nguyên nhân dẫn tới những điệp vụ bị đổ vỡ xuất phát từ Trạm Moscow thời kỳ năm 1975. Có đến vài nguồn tin khẳng định như vậy. Đúng là Trạm CIA ở Moscow đã bị xâm nhập vào thời gian đớ và chúng tôi phải cố gắng xác minh xem đấy có phải là lý do dẫn tới những điệp vụ bị kẻ thù phá vỡ mà không nằm trong phạm vi trách nhiệm của Howard. Có khoảng 5 hay 6 điệp vụ như vậy và chúng tôi có gạt bỏ thông tin nhiễu xung quanh những vụ này. Luôn luôn có những thông tin nhiều khi anh tiến hành một công việc như vậy Chúng tôi đã loại trừ được những thông tin đó, hướng trọng tâm tìm kiếm vào những điểm cần thiết và ơn Trời, đã xác minh được rằng nguyên nhân đổ vỡ hoàn toàn không nằm trong việc truyền tin trong thời kỳ 1975 từ Trạm Moscơw. Nguyên nhân nằm ở ngay trong nội bộ chúng tôi.”
Ở cái sơ đồ mô tả những điệp vụ đổ vỡ mà Tim Camso vẽ trên tường, có những đường giao cắt nhau. Phía trên cùng là tên toàn bộ những điệp vụ thất bại mà đến thời điểm đó đã xác định được. Có những vụ bắt đầu từ hồi năm 1955.
Các đường vẽ màu nối xuống phía dưới cùng của tấm sơ đồ. Những đường màu khác mô tả các nguồn tin. Nhân sự trong nhóm phản gián CI không nhiều nên đôi khi, có những vụ việc nhỏ chưa được giải quyết do lẽ đang phải tập trung điều tra một vụ nào khác lớn hơn. Giờ đây, không có bất cứ một ngoại lệ nào, những vụ việc đớ cũng đều được xem xét lại và thể hiện rõ trên sơ đồ này. Ở trung tâm của sơ đồ, cũng thể hiện bằng màu, là chi tiết toàn bộ những chiến dịch không chỉ của FBI mà còn cả các chiến dịch CIA đã nhận bàn giao từ FBI cho đến khi Jim Hơlt và Jim Milbum gia nhập nhóm điều tra hỗn hợp ở Langley.
Nhìn vào sơ đồ này, có thể hình dung ra toàn bộ lịch sử của những điệp vụ đã đổ vỡ, dù là thực tế hay còn trong diện nghi ngờ, thấy được những thời điểm thất bại, có ghi rõ cả thời gian củng như địa điểm đã xảy ra.
Caruso khẳng định rằng nhóm Playactor sẽ duy trì hành động hoàn toàn độc lập, tách khỏi các hoạt động của Langley cho đến một thời điểm thích hợp_nào đó, khi các thông tin đã được kiểm chứng rõ ràng. Langley vận hành dựa trên những nguồn tin nội bộ. Trong khi đó thì hoạt động ở các văn phòng FBI chủ yếu dựa vào sức ép bên ngoài, tìm kiếm và phát triển các nguồn tin tiềm tàng, từng bước nhận diện, thông qua bộ phận phản gián để tổng hợp tên họ của những người tình nguyện, trong số đó có thể tuyển mộ để họ cung cấp thông tin, thậm chí ngay cả những đầu mối nhỏ nhất.
Đối với nhóm tìm kiếm hỗn hợp thì đó là thời gian thuận lợi hơn bao giờ hết.
Trong quá trình sụp đổ của khối Xô viết, các cơ quan tình báo của khối này cũng bị phá tan nát. Bản thân KGB hoàn toàn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Các nhà lãnh đạo của nó đã phạm phải một sai lầm chết người là ra mặt ủng hộ cuộc đảo chính thất bại chống lại Mikhail Gorbachev vào cuối tháng 8-199l. Thế là trước khi bị Boris Yeltsin thay thế, Gorbachev bắt đầu tước dần quyền lực của các Ban điều hành KGB. Đến lượt Boris Yeltsin là người xoá sổ KGB bằng cách lập ra hai bộ phận mới, có tên gọi là SVRR, tiếp tục thực hiện các công việc tình báo đới ngoại của Ban điều hành Một KGB trước đây và MBRF, có chức năng hoàn toàn tương đương với FBI. Các nhân viên phản gián Mỹ thoải mái thu thập thông tin từ những điệp viên cũ của KGB uất ức vì bị vứt bỏ không thương tiếc, đã không ngần ngại gì mà không cung cấp tài liệu để đổi lấy những khoản thù lao ít ỏi.
Camso muốn những nhân viên trong nhóm điều tra của ông ta hướng công việc tìm kiếm vào một số đối tượng trọng điểm. Cho đến khi Jim Holt và Jim Milbum gia nhập Playactor thì danh sách những người bị tình nghi rút lại chỉ còn 29 người có đặc điểm khá phù hợp với các điệp vụ bị đổ vỡ.
***
T ại Langley, tới tháng 8 – 1992, chuyên viên kiểm tra sổ sách Dan Payne cuối cùng cũng nhận được những thông tin mà anh ta yêu cầu về tình trạng tài chính của Rick tại các ngân hàng.
Thật sửng sốt! Thông tin cho thấy có nhiều khoản đặt cọc bằng tiền mặt, tất cả đều dưới 10.000 USD mỗi tài khoản, tổng cộng lên tới hơn 1 triệu USD. Tài khoản đầu tiên trị giá 9.000 USD được mở vào ngày 18-5- 1985. Cũng có những dấu vết của ít nhất một lần chuyển tiền với khối lượng lớn từ ngân hàng Credit Suisse Thuỵ S cho Rick qua một ngân hàng ở New York. Trong thời gian đang diễn ra cuộc điều tra, số tiền chi tiêu thanh toán qua thẻ tín dụng của Rick trung bình vào khoảng từ 10.000 USD đến 20.000 USD mỗi tháng.
Khi Rick ngày càng rơi vào tâm điểm chú ý của các nhân viên nhóm điều tra hỗn hợp ở Langley thì những báo cáo về các mối quan hệ tiếp xúc của ông ta với nhà ngoại giao Xô viết Sergei Chuvakhin thời kỳ năm 1985-1986 cũng được giở ra xem lại. Các nhân viên điều tra nhận ra rằng Rick rõ ràng đã không báo cáo đầy đủ về mối quan hệ này. Cả bức điện tín mà CIA gởi tin Roma cho Rick yêu cầu ông ta phải tường trình đầy đủ về những buổi tiếp xúc với Chuvakhin – nhưng đã bị Rick phớt lờ - cũng được các nhân viên điều tra tìm thấy.
Những đầu mối này dẫn nhóm Playactor hướng trọng tâm tìm kiếm vào các tài liệu lưu trữ ở văn phòng FBI tại Washlngtơn. Trong cuộc gặp gỡ với Chuvakhin, Rick thông báo ông ta mang một cái tên giả là Richard Wells.
Trong kho lưu trữ băng ghi âm và video của FBI, tất cả những cuộc gặp gỡ với các nhân viên sứ quán Liên Xô đều được ghi lại và đánh số thứ tự cẩn thận. Mã số băng lưu trữ của Rick là Sub-375. Chỉ cần bấm mã số này là hệ thống tự động sẽ nhanh chóng xác định được cuộn băng cần tìm. Tên của Chuvakhin có được nhắc đến trong băng hay không không phải là vấn đề quan trọng. Có thể xác định được danh tính này qua giọng nói ghi lại trên băng. Các nhân viên điều tra đã tiến hành đối chiếu những thời điểm Rick gặp Chuvakhin - dù ông ta có báo cáo hay không - với thời điểm các tài khoản tiền mặt được Rick mở tại ngân hàng. Chúng hoàn toàn khớp với nhau.
Đối với 29 người còn nằm trong danh sách bị tình nghi, bất cứ một di chuyển nào trong số những người này, dù là nghỉ sớm, nghỉ lễ hàng năm hay những chuyến đi công tác bình thường đều được các nhân viên điều tra bí mật kiểm soát một cách chặt chẽ. Bởi vậy, tại Langley, họ xác định được rằng đầu tháng 10 năm 1992, Rick đã báo với CIA là ông ta đi Bogotá vài ngày để thăm bà mẹ vợ.
Del1 Spry, một trong những nhân viên của Caruso liền được cử tới trụ sở của hãng hàng không American Airl1nes ở Dallas nhằm xác minh rõ hơn về chuyến đi của Rick. Spry biết được Rick đã rời Washington đi Bogotá hôm 2-10, ngang qua Miami. Nhưng anh ta cũng phát hiện thêm được một chi tiết mà Rick đã không báo cáo. Hồ sơ của hãng hàng không cho thấy sau những ngày ở Bogotá, Rick đã đi Caracas, thủ đô Venezuela, ở lại đó 3 ngày trước khi quay về Mỹ.
Như sau này đã xác định được thì đó là chuyến đi gặp gỡ định kỳ hàng năm của Rick với người điều khiển mình trong KGB. Bất chấp những xáo trộn đối với KGB ở Moscow và việc cơ quan này đã bị thay thế bởi SVRR, Rick vẫn tiếp tục cung cấp các tài liệu mật qua hộp thư chết và nhận được số lượng lớn tiền mặt. Nhưng ở cuộc gặp Caracas lần này, sĩ quan điều khiển của Rick không phải là Vlad nữa. Rick cũng không hỏi xem điều gì đã xảy ra với Vlad. Người điều khiển mới của Rick tự giới thiệu anh ta là Andrei.
Andrei đưa cho Rick 150.000 USD. Anh ta nói với Rick rằng trong những năm tiếp theo đó, Rick sẽ tiếp tục nhận được tiền mặt ở Washington , tại hộp thư chết Pipe, nằm trong cống ngầm dưới một đường đi ở công viên Wheaton Regionai. Tuy nhiên, để chuyển tài liệu và thư từ liên lạc, Rick sẽ phải sử dụng ký hiệu bắt liên lạc tại những địa điểm mới. Đó là Rose, một thùng thư nằm ở góc đường Garfield với ngã nhỏ cùng tên, cách không xa khu nhà riêng của Phó
Tổng thống Gore. Hộp thư chết đi kèm với nó có mật danh Ground, là một kẽ nứt bên dưới một chiếc cầu trong công viên Rock Creek, nằm giữa quận Coiumbia và hạt Montgomery ở Maryland. Địa điểm thứ hai để đánh dấu ám hiệu liên lạc có mật danh Smile, cũng là một thùng thư nằm ở chỗ giao nhau giữa phố 37 và phố R, khu Georgetown . Hộp thư chết kèm theo nó vẫn là kẽ nứt nặm bên dưới cái cầu dành cho người đi bộ nối khu công viên Littie Falls với đại lộ Massachusetts .
Tại cuộc gặp này, Rick đã bị Andrei khiển trách nặng nề. Trong lần chắp nối liên lạc gần nhất, ông ta đã quên không mang theo mình viên phấn và đành phải vào một cửa hàng văn phòng phẩm gần đó để tìm mua. Thế nhưng ở đó chỉ bán bút màu và Rick đã sử dụng một chiếc bút màu trắng để vẽ ám hiệu thay phấn.
Các điệp viên KGB đã phải mất hơn nửa giờ mới xoá đi được dấu hiệu đó. “Chớ có bao giờ lặp lại sai lầm đó nữa” - người điều khiển mới của Rick cảnh cáo.
***
T ới tháng 12- 1992 thì Gấu Bryan của FBI cho rằng ông ta đã có đủ những gì cần thiết về Rick: các cuộc gặp gỡ với Chuvakhin không được báo cáo, sự trùng khớp về thời gian diễn ra những cuộc gặp này với thời gian mở các tài khoản, bản thân các tài khoản này, mối dây liên hệ với những điệp vụ bị đổ bể, các chuyến đi ra nước ngoài bí ẩn. Bryan ngày càng trở nên mất kiên nhẫn với tốc độ tiến hành công việc của nhóm Playactor. Ông ta muốn mở một cuộc điều tra chính thức. Không nghi ngờ gì nữa, Ames chính là người cần phải tìm.
Nhưng CIA thận trọng phản đối. Bryant có thể đã không hiểu hết được tính chất nghiêm trọng cũng như sự phức tạp của vụ việc. Nó liên quan đến sự nghiệp một sĩ quan chiến dịch cấp cao của CIA. Một đôi chỗ vẫn còn chưa hoàn toàn trùng khớp. Cần phải tuyệt đối chắc chắn về những điều được tìm thấy.
Ngoài ra, không chắc chỉ có một mình Ames . Biết đâu vẫn còn có một kẻ nào khác trong danh sách tín đồ vẫn chưa bị phát hiện. Liệu hắn ta sẽ bị đánh động và cao chạy xa bay? Khi chính thức mở một cuộc điều tra, sẽ không thể nào giữ hoàn toàn bí mật được. Tất nhiên, việc xác định và bắt giữ được một “chuột chũi” là rất quan trọng. Nhưng cũng quan trọng không kém, thậm chí còn quan trọng hơn, là phải xác định xem hắn ta hành động như thế nào, tiếp xúc với ai, đã chuyển giao những bí mật gì.
Tổng hành dinh FBI đồng ý với những lập luận này. Cả Jim Holt và Jim Milburn cũng vậy. Holt nhớ lại: “Chúng tôi, ý tôi muốn nói là cả tôi và Milburn, đều muốn đảm bảo rằng chúng tôi đã xem xét tất cả mọi khía cạnh của vụ việc cũng như thu hẹp danh sách tín đồ xuống đến mức thấp nhất có thể được. Vào mùa thu năm 1992, với những gì mà chúng tôi thu thập được, không thể nói rằng toàn bộ những điệp vụ đổ bể đều do một mình Ames chịu trách nhiệm.
Chúng tôi muốn đi xa hơn, muốn có một báo cáo hoàn chỉnh cho những người sẽ tiến hành điều tra.
Thật dễ dàng nếu như sau này, khi mọi sự đã rõ ràng, mới nói rằng thật là điên rồ khi chúng tôi đã để cho Ames tự do một thời gian dài sau khi đã xác định được chừng đó dữ liệu về ông ta. Tại sao không đẩy tiến độ điều tra đi nhanh hơn? Nhưng nếu bình tĩnh nhìn lại thì phải thấy rằng chúng tôi mới có trong tay chứng cứ về một vài cuộc gặp của Rick với một người Xô viết, mà người này lại không phải là nhân viên tình báo. Chúng tôi cũng có chứng cứ về những nguồn tiền, về sự liên quan của ông ta tới các điệp vụ bị đổ vỡ. Nhưng ai dám đảm bảo rằng nguồn tin đó không phải là do cờ bạc, buôn lậu hoặc thậm chí từ buôn lậu ma tuý? Chúng tôi cũng chưa thể xác định được mức độ giàu có của gia đình vợ ông ta. Cũng không thể bỏ qua một yếu tố là trong các báo cáo của chính CIA, ông ta đã vượt qua hái cuộc kiểm tra trên máy phát hiện nói dối, trong đó những câu hỏi về việc liệu có tiếp xúc và trao đổi tài liệu với một quốc gia nào đó đã được đặt ra. Và sau cùng, trong danh sách những người bị tình nghi, vẫn có những cái tên chưa hoàn toàn bị loại bở.”
Tim Caruso tới văn phòng của Bryant. “Nghe này - ông ta nói - Cuộc điều tra đã kéo dài gần 9 năm. Sẽ không hại gì nếu chúng ta kéo dài thêm vài tháng nữa để đảm bảo xác định đúng tróc gã mà chúng ta cần tìm.”
Đến cuối năm 1992 thì trong danh sách tín đồ chỉ còn lại 10 cái tên. Thêm hai tháng nữa trôi qua. Holt nhớ lại: “Phải luôn luôn thận trọng từng ly từng tí một. Khi xem xét kỹ lưỡng, tỉ mỉ các hồ sơ, cứ liệu, chúng tôi có cảm tưởng rằng chắc chắn đó là Ames chứ không phải bất kỳ một ai khác. Tôi muốn nói rằng cả Jean Vertefeuil1e và Sandy Grimes, những đồng nghiệp CIA trong nhóm chúng tôi cũng đều tin chắc rằng đó chính là Ames .”
Ngày 15-3- 1993, một bản báo cáo 8 trang do Milbum viết tay được gửi cho Caruso.
Lúc này, danh sách tín đồ chỉ còn lại 5 cái tên. Rick Ames vẫn là cái tên trên cùng, nhưng lần này thì không phải vì lý do theo thứ tự chữ cái nữa. Bốn người kia vẫn nằm trong diện bị điều tra. Holt không chắc là liệu một vài người trong số họ có còn những gì phải giấu giếm hay không.
Vào lúc này, khi các nhân viên của Playactor đã đi được khá xa trên con đường xác minh thủ phạm của các điệp vụ bị đổ vỡ thì những mảnh ghép cuối cùng đã được đặt vào đúng chỗ trong bức tranh ghép hình để khẳng định rằng Ames chính là người mà họ cần tìm.
Sau sự sụp đổ của khối Xô viết và cùng với nó là sự hỗn loạn trong KGB, cuối cùng thì các điệp viên Mỹ cũng đã móc nối được với một người có khả năng tiếp cận được với một số hồ sơ tối mật của Ban K trong Ban điều hành Một của KGB. Người này không biết danh tính của Rick mà chỉ biết được mật danh trong hồ sơ của ông ta là Kolokol. Hồ sơ cho thấy Kolokol nằm trong bộ phận phản gián của CIA, đã bắt đầu cung cấp thông tin cho KGB từ năm 1985.
Ông ta có những cuộc gặp người điều khiển mình ở Bogotá và tới cuối những năm 80, các cuộc gặp này diễn ra ở Roma. Các nguồn tin do FBI móc nối và tuyển dụng được giữ gìn hết sức bí mật, nhưng khi chuyển giao sang CIA thì chúng đã bị người này nắm được. Ông ta cũng nhiệt tình cung cấp thông tin về những người đang ăn lương của tình báo Nga nhưng có thể sau này sẽ là nhân chứng trong vụ án nào đó chống lại ông ta.
Với hy vọng sẽ nhanh chóng “bẻ gãy” được Rick, Caruso chiêu mộ vào nhóm điều tra Rudy Guerin, một điệp viên thuộc nhóm phản gián hải ngoại CI-7. Đấy là người mà Caruso thấy thích hợp nhất cho một nhiệm vụ như vậy.
Rudy Guerin luôn cười mỉm khi nhớ lại những bài giảng ở Học viện đào tạo của FBI ở Quantico, Virginia, trong đó người ta dạy rằng nếu muốn khuất phục một người nào đó thì cách tốt nhất là phải sử dụng những điệp viên có nhiều nét tương đồng với “mục tiêu”, như lứa tuổi, diện mạo bề ngoài. Thành tích lớn nhất của Guerin chính là việc buộc một người phiên dịch gốc Trung Quốc đã nghỉ hưu, từng làm việc cho CIA, thú nhận rằng ông ta từng làm gián điệp cho Bắc Kinh trong 33 năm trời. Khi đó, FBI không có đủ chứng cứ để bắt giữ người phiên dịch viên này. Guerin liền được cử tới để xem có thể làm được gì.
Đảm nhiệm việc xét hỏi người phiên dịch viên gốc Trung Quốc là một gã nhân viên gốc Aiien gầy giơ xương có mái tóc màu hung đỏ, thuộc văn phòng FBI của Chicago . Người phiên dịch phủ nhận tất cả mọi điều. Guerin cố gắng duy trì một bầu không khí cởi mở, thân thiện khi nói chuyện với ông ta. Rồi họ nói chuyện về những giá trị. Đã rõ là với người phiên dịch gốc Trung Quốc nọ, không có gì đáng giá hơn là mối quan hệ với hai đứa con trai của ông ta. Guerin không đề cập nhiều đến mối quan hệ đó, nhưng trước khi rời đi, anh ta nói với người phiên dịch là sẽ tới để hỏi những con trai của ông ta về các hành vi phi pháp của cha chúng.
- Anh sẽ không làm như thế chứ? - người phiên dịch kêu lên.
- Tôi rất tiếc, nhưng đó là công việc của tôi - Guerin trả lời.
- Thôi được rồi, tôi sẽ kể hết với anh!
Tuy nhiên, đới với Rick thì rõ ràng là không thể áp dụng được chiến thuật này. Ông ta quá cáo già. Hơn nữa, Rick biết cách che dấu kỹ những tội lỗi của mình và lại được quyền có một luật sư. Các nhân viên FBI và CIA đã phải trải qua cuộc điều tra dài đằng đẵng đầy gian khổ mới có thể lần ra được dấu vết của ông ta. Sẽ không có chuyện thành công. với ông ta chỉ sau có một đêm.
Cuối cùng thì đến ngày 12-5-1993, Gấu Bryant cũng quyết định mở cuộc điều tra chính thức. Mười hai ngày sau đó, vào cuối buổi chiều, ông ta triệu Les
Wiser Jr. tới phòng làm việc của mình và hỏi liệu anh ta có mướn chịu trách nhiệm chính tiến hành giai đoán cưới cùng đầy khó khăn của cuộc điều tra hay không. Sẽ có mật danh mới được đặt cho giai đoạn này.
Mật danh đó là Nightmover - Người đi trong đêm.