Chương 21
Tác giả: A . F . Herold
Đức Phật ngồi kiết già an nhiên bất động dưới cây đại giác. Ngài tận hưởng nguồn hỷ lạc mà Ngài vừa chứng ngộ hoàn toàn. Ngài suy gẫm: "Ta đã tìm ra sự giải thoát." Suốt tuần Ngài kiết già bất động dưới cội bồ đề.
Tuần thứ hai, Ngài làm một cuộc hành trình thật xa, ngài dạo khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Tuần thứ ba, Ngài lại an nhiên bất động dưới cội bồ đề và chưa một lần nào chớp mắt.
Tuần thứ tư, Ngài thực hiện một cuộc hành trình tương đối gần, chỉ từ biển đông sang biển tây.
Thế rồi Ma-vương, tên ác quỉ đại bại, đã tủi nhục bỏ đi lại đến gặp Phật và thốt lên những lời quái đãn:
"Bạch Đức Thế Tôn, Ngài ở lại đây làm gì, Ngài biết đường đến giải thoát rồi? Hãy tắt đèn, dập lửa; bạch đức Thế Tôn, hãy vào niết bàn đi, đến giờ rồi."
Đức Thế Tôn đáp:
"Không, này Ma vương, ta sẽ không dập lửa, ta sẽ không vào niết bàn. Trước hết là ta phải thâu nhận nhiều đệ tử để rồi đến lượt họ đem giáo pháp của ta ra hóa độ người khác. Bằng ngôn ngữ và hành động, ta phải khuất phục kẻ thù của tạ Không, này Ma-vương, ta sẽ không vào niết bàn cho đến khi Đức Phật được tôn vinh khắp thế giới, đến khi giáo pháp từ bi của Ngài được công nhận khắp thế giới.
Ma-vương bỏ đi, Hắn chán nản, và hình như hắn thoáng nghe trên không có tiếng thiên thần trêu tức:
"Này Ma-vương, mi đã bị thất bại rồi. Mi đứng co ro tư lự như một con cò già. Ma-vương, mi bất lực như một con voi già bị sa lầy. Mi tưởng mi là một anh hùng cái thế, mi còn hèn yếu hơn cả một bịnh nhân bị lạc lõng trong rừng. Lời lẽ hỗn xược của mi có ích gì chăng? Chúng léo nhéo như tiếng quạ kêu, chả có lợi gì cả!"
Hắn nhặt một miếng gỗ khô và vẽ những hình người lên cát. Ba ái nữ: Ra-ti (Rati), A-ra-ti (Arati) và Trí-na (Trishna) của hắn nhìn thấy hắn. Chúng được triệu về để hiểu rõ nỗi khổ đau tê tái của phụ vương chúng.
Ra-ti thưa: "Tâu phụ vương, sao phụ vương trông khốn khổ thế?"
Ma-vương đáp: "Cha đã bị một thánh nhân đánh bại. Hắn đã bẻ gãy năng lực và quỉ kế của chạ"
Trí-na nói: "Tâu phụ vương, chúng con đẹp lắm. Chúng con có cách quyến rũ."
A-ra-ti tiếp lời: "Chúng con sẽ đến gặp hắn; chúng con sẽ trói gọn hắn bằng những mắc xích ái ân. Chúng con sẽ mang hắn về cho phụ vương, đồ đốn mạt, hèn hạ!"
Chúng đến gặp Phật và cất tiếng hát:
"Bạn ơi, mùa xuân đến rồi, mùa của tình tự yêu đương, của phấn hương tú lệ. Thảo mộc đang bừng rộ nở hoa; chúng ta phải vui lên nào. Đôi mắt của bạn đẹp làm sao, chúng lung linh như ánh đèn huyền diệu; bạn có nhiều biểu hiện vạn năng. Hãy ngắm chúng em: chúng em được sinh ra đời để mang lại nguồn vui, nguồn hạnh phúc cho cả nhân loại và chư thiên. Bạn ơi, hãy đứng lên, hãy cùng với chúng em tô điểm tuổi xuân rực rỡ nhất cho bạn. Hãy loại hết mọi ý tưởng nghiêm nghị ra khỏi tâm tư của bạn. Hãy nhìn mái tóc của chúng em, chúng mềm mại làm sao; chúng thoang thoảng hương hoa từ những sợi đen huyền óng mượt. Hãy ngắm đôi mắt của chúng em, nơi ấp ủ nồng nàn của những giấc ngủ say ngọt ngào tình ái. Hãy ngắm làn môi ấm áp của chúng em, chúng đỏ mọng như trái chín trên cây dưới ánh mặt trời. Hãy ngắm những bộ ngực căng tròn của chúng em. Chúng em múa những vũ điệu uyển chuyển nhịp nhàng như chim thiên nga; chúng em biết hát những khúc nhạc tình đê mê say đắm, và khi chúng em vũ, nhịp tim và mạch máu lại đập mạnh nhanh hơn. Bạn ơi, xin đừng ruồng rẫy chúng em; chỉ có kẻ ngu si đần độn, thật vậy, mới ruồng bỏ một kho tàng hiếm có. Hỡi người yêu dấu, hãy nhìn ngắm chúng em; chúng em đều là nô lệ hầu thiếp của người."
Đức Thế Tôn chả hề xúc động theo lời hát. Ngài quắc mắt nhìn các thiếu nữ và chúng liền biến thành những mụ phù thủy gớm guốc.
Thất vọng ê chề, chúng quay về gặp phụ vương.
Ra-ti than khóc: "Tâu phụ vương, hắn đã mạt sát tuổi trẻ và sắc đẹp của chúng con."
Trí-na nói: "Ái ân sẽ không bao giờ làm xiêu lòng hắn, vì hắn có thể cự tuyệt hương sắc của chúng con."
A-ra-ti thở dài: "Ồ, hắn đã hành hạ chúng con một cách tàn nhẫn."
Trí-na cầu khẩn: "Tâu phụ vương, xin phụ vương chữa cho chúng con khỏi cái vóc dáng già nua xấu xí này."
Ra-ti kêu khóc: "Trả lại tuổi xuân cho chúng con."
A-ra-ti cũng kêu khóc: "Trả lại tuổi xuân cho chúng con."
Ma-vương đáp: "Các con khốn nạn của cha, cha vô cùng đau đớn cho các con. Vâng, Người ấy đã dập tắt ái ân, Người ấy đã hàng phục uy lực của cha, cha đau buồn lắm! Các con bắt cha trả lại tuổi xuân và sắc đẹp cho các con, nhưng làm sao cha có thể trả lại điều đó? Chỉ có Phật là có thể tẩy xóa những gì mà Phật đã làm. Các con hãy quay lại gặp ngài; hãy thú nhận với Ngài là các con thật có tội đáng trách; các con hãy ăn năn sám hối người ấy, và có lẽ nhờ thế mà người ấy sẽ trả lại sắc đẹp cho các con."
Chúng đến cầu Phật:
"Bạch Đức Thế Tôn, xin tha tội cho chúng con. Chúng con có mắt mà không thấy ánh hào quang rực rỡ. Chúng con đần độn lắm, xin tha tội cho chúng con!"
Đức Thế Tôn đáp: "Vâng, các ngươi ngu xuẩn lắm, các ngươi dùng móng tay mà ra sức phá vỡ núi rừng, các ngươi dùng răng mà cố cắn nát gang sắt. Nhưng các ngươi đã nhận ra lỗi lầm, đó là biểu hiện của trí tuệ. Này các thiếu nữ, ta hỷ xả cho các ngươi."
Ba ái nữ của Ma-vương xin tạ Phật ra về và đẹp hơn bao giờ hết.
Tuần thứ năm, Đức Thế tôn vẫn ngồi dưới cội bồ đề. Nhưng, bỗng nhiên, một cơn gió thê lương thổi lên và một trận mưa buốt giá đổ xuống. Thế là Mu-xi-linh Đa (Mucilinda), một mãn xà vương, bạch Ngài: "Đức Thế Tôn không hề bị gió mưa buốt giá đâu."
Mãn xà rời tổ ấm, bò đến quấn quanh đức Phật bảy vòng rồi phùng mang che trên đầu Ngài. Đức Phật nhờ thế không bị gì cả trong suốt thời gian mưa gió tơi bời.
Tuần thứ sáu, Ngài đến chỗ có cây sung, nơi bọn chăn dê thường tới lui gặp gỡ. Tất cả đều cung kính cúi đầu khi Ngài đến gần. Ngài nói:
"Hỷ xả là sự tươi mát cho ai hiểu biết giáo pháp; từ bi là sự tươi mát cho ai thấy rõ giáo pháp; hỷ xả là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh; từ bi là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh. Ở đời ai không dục vọng là có hạnh phúc; ai hàng phục được tội lỗi là có hạnh phúc; ai thoát khỏi sự dày vò ray rứt của cảm giác là có hạnh phúc; ai hết khao khát sinh tồn là có hạnh phúc!"
Tuần thứ bảy, Ngài lại kiết già bất động dưới cây đại giác.
Hai anh em Đề-lê-phú-bà (Trapusha) và Đạt-lê-ca (Bhalika) đang trở về các nước phương bắc. Họ là những thương gia đem theo 500 cổ xe ngựa. Khi họ đến gần cây bồ Đê, các cổ xe đều dừng lại. Bọn phu xe cố thúc ngựa kéo xe tiến lên, nhưng vô ích, chúng không thể tiến thêm một bước. Các bánh xe đều lún sâu đến giữa trục. Đề lê-phú-bà và Bạt-lê-ca hoảng hốt, một lão ông từ đâu xuất hiện và ôn tồn trấn an họ:
"Này các thương gia, hãy đi tới tí nữa là các ngươi sẽ gặp một đạo sư mà các ngươi phải kính lễ, tôn thờ."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca nhìn thấy Đức Thế Tôn, mặt Ngài rực lên ánh hào quang sáng chói.
Họ tự hỏi: "Đó là thần sông hay thần núi? Có thể là đấng Phạm-thiên không chừng?"
Nhưng khi nhìn kỹ y phục, họ lại nghĩ:
"Ngài ấy hẳn là một đạo sĩ. Có lẽ Ngài muốn có gì để ăn."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca đến xe chở lương thực, họ lấy bột, mật ong và bánh đựng trong một cái bát đem dâng Phật.
Họ vừa dâng bánh vừa thưa: "Bạch thánh nhân, xin Ngài dùng bánh và độ chúng con."
Ngài nhận bánh của các thương gia cúng dường. Khi dùng xong, Ngài nói:
"Này các thương gia, nguyện cầu chư thiên gia hộ cho các ngươi được phát đạt hạnh phúc!"
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cúi đầu đảnh lễ, và nghe trên không có tiếng thiên thần vọng xuống:
"Ngài ngồi trước mặt các ngươi đã đạt đến tri kiến tối thượng. Đây là bữa ăn đầu tiên kể từ khi ngài mở đường đi đến giải thoát, và niềm vinh dự cúng dường đặc thù này đã dành hẳn cho các ngươi. Giờ đây Ngài sẽ lên đường thuyết giảng chánh pháp qua khắp thế giới."
Đề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cảm thấy hân hoan sung sướng, họ là những tín đồ qui y Phật qui y Pháp đầu tiên.