watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Một Nắm Lúa Mạch-Chương XIV - tác giả Agatha Christie Agatha Christie

Agatha Christie

Chương XIV

Tác giả: Agatha Christie

1
Trong khoảnh khắc vài giây, thanh tra Neele nhìn cô Marple, vừa sửng sốt vừa lo ngại: thiếu chút nữa thì ông tin là bà cô già này bắt đầu lẩm cẩm. Ông nhắc lại:
- Những con sáo?
- Phải, những con sáo.
Rồi cô Marple cất giọng khàn khàn ngâm một khúc đồng dao cổ:

Tôi hát bài ca, một nắm lúa mạch
Với hăm bốn con sáo trong patê to tướng!
Mở patê ra, chim sáo hót véo von:
Món ăn thương hạng dâng lên Hoàng thượng!
Hoàng thượng ở trong kho, đếm bạc
Hoàng hậu ở trong cung, ăn bánh với mật
Còn cô hầu phơi áo ngoài vườn
Bị chim sà xuống mổ vào mũi!

Neele ngồi nghe, càng lúc càng ngơ ngác. Cô Marple nói:
- Ông thấy chưa? Mọi thứ đủ cả. Có Rex, nghĩa là vua, hoàng thượng, còn hoàng hậu với mật... Và cô hầu nữa, nếu không thì chưa đủ...
- Vậy kẻ gây ra những tội ác này là một tên loạn óc?
- Khoan hãy kết luận! - Cô Marple nói - Tôi chỉ thấy chuyện này rất lạ, và ta phải nghĩ đến những con sáo. Trong vụ này, không thể không có sáo!
Trung sĩ Hay xuất hiện, vẻ như muốn nói riêng với sếp làm Neele tạm ngừng tranh luận. Ông đứng lên:
- Rất cám ơn cô, tôi sẽ suy nghĩ đến những gì cô nói. Cô có thể tranh thủ vào thăm phòng của Gladys. Đợi một lát, trung sĩ đây sẽ dẫn cô đi.
Cô Marple ra rồi, Neele hỏi trung sĩ muốn gì.
- Cái này, thưa ông.
Hay đặt lên bàn một vật bọc trong chiếc mùi soa nhầu nát: đó là một hộp mứt cam mới mở và mới dùng một ít.
- Anh tìm thấy ở đâu? - Neele hỏi.
- Trong vườn rau ạ.
Một lúc lâu Neele không nói gì, nhưng đầu óc suy nghĩ rất lung. Ông nhanh chóng tưởng tượng ra một loạt sự việc, chưa có gì chứng minh, nhưng đều hợp lý và có thể là sự thật: hai bàn tay mở chiếc hộp sắt tây, hớt một thìa mứt, trộn vào đó một ít tắc-xin rồi lại đặt vào chỗ cũ, san đều bề mặt cho khỏi lổn nhổn, rồi đóng nắp lại... ngồi chờ diễn biến.
Neele ngừng suy đoán, đặt câu hỏi với trung sĩ:
- Mứt được đưa tới bàn ăn, để nguyên hộp như thế này?
- Thưa vâng. Trong thời chiến tranh, mọi người quen làm như thế, đến nay không bỏ. Hơn nữa, chỉ mình ông Fortescue dùng mứt trong bữa điểm tâm. Ông Percival cũng thường dùng, nhưng hôm đó đi vắng...
Neele gật đầu:
- Anh đưa ngay hộp này vào phòng thí nghiệm. Nếu phân tích thấy có tắc-xin, ta sẽ tạm đặt được giả thuyết.
- Có thể trên hộp có dấu vân tay?
- Sẽ không tìm thấy cái ta cần đâu. Sẽ có đủ dấu tay của Gladys, của Grump, của Fortescue, có thể cả của ông hàng khô, còn hung thủ thì lại khéo léo không để lại dấu! Hộp mứt này mua ở đâu?
Trung sĩ Hay đã lường trước mọi câu hỏi của sếp:
- Ở London. Bán từng mớ sáu hộp một. Khi hộp nào sắp hết, lại lấy hộp khác từ kho ra.
- Như vậy dẫn đến giả thiết là tắc-xin có thể được bỏ vào mứt từ trước khi hộp mứt được đem phục vụ tại bàn.
Điểm này cực kỳ quan trọng. Nếu có thể trộn thuốc độc vào mứt từ trước, thì hung thủ không nhất thiết phải là người cùng ăn trong bữa điểm tâm, cái hôm ông Fortescue chết. Nhận xét này mở rộng diện cho những giả thiết mới, cần được nghiên cứu kỹ.
Neele tự nhủ không được bỏ qua mọi sự khả năng.

2
Thanh tra Neele gặp Mary Dove trong phòng ngủ trên gác hai. Cô đang chỉ bảo bà Ellen thay trải giường, dù nó vẫn còn trắng muốt.
Neele ngạc nhiên, hỏi đang chuẩn bị đón ai. Bà Ellen mặt quàu quạu, lờ đi làm như không nghe thấy. Ngược lại, Mary Dove nhoẻn miệng cười dễ chịu, đáp:
- Phải nói trái lại mới đúng. Có lệnh đón khách, nay lại thôi. Phòng này, chúng tôi đã chuẩn bị để tiếp ông Gerald Wright...
- Gerald Wright là ai?
- Một bạn trai của cô Elaine Fortescue.
Giọng đáp đều đều, thản nhiên và khách quan.
- Ông ấy định đến vào lúc nào? - Neele lại hỏi.
- Lẽ ra ông ta đến vào sau hôm ông Fortescue mất.
- Sau hôm mất?
- Là cô Elaine bảo thế... Cô ấy bảo ông ta sẽ nghỉ lại đây. Do đó tôi phải chuẩn bị phòng. Nhưng như ông đã thấy, từ đó xảy ra hai... cái chết liền, và có lẽ vì thế ông ta không đến đây mà tạm trú ở khách sạn Golf.
Bà Ellen đi ra, mang theo các trải giường đã gấp lại. Cô Dove đợi một lát, rồi nói:
- Ông cần hỏi gì nữa không ạ?
- Có! Đến lúc này, tôi phải xem lại giờ giấc thật chính xác. Ai nấy mới nói một cách đại khái, điều ấy là dễ hiểu. Nhưng cô, bao giờ cô cũng nói giờ giấc rõ ràng.
- Điều đó cũng là dễ hiểu chứ?
Thanh tra mỉm cười:
- Tôi có thể phải khen cô, dù trong mọi hoàn cảnh... nặng nề, vẫn giữ được cái đầu tỉnh táo, điều khiển mọi việc trong nhà. Cô làm thế nào mà được như vậy?
Neele đã tìm ra điểm mạnh của Mary Dove: tự hào mình biết sai khiến gia nhân.
- Thực ra tôi đang gặp khó khăn - cô nói - Vợ chồng Grump muốn bỏ di.
- Ta không cho phép họ đi lúc này.
- Vâng. Song tôi đã nói với họ rằng ông Percival Fortescue sẽ... trả lương hậu nếu họ ở lại.
- Bà Ellen có định đi không?
- Không. Bà không hề nghĩ đến chuyện xin đi.
- Bà ấy bạo đấy.
- Và không khí ảm đạm đang bao trùm đối với bà cũng là hay. Không phải mình bà Ellen. Bà Jennifer cũng giống như thế.
- Chả lẽ họ lại... thích thấy có người chết?
- Không, nói vậy thì quá... Nhưng họ không vì thế mà hoang mang!
- Còn cô, cô có... dao động không?
Cô nhún vai:
- Tôi đã trải qua nhiều điều hơn thế!
Neele không nói thêm, trở lại vấn đề giờ giấc:
- Lần cuối cùng cô trông thấy Gladys Wartin, là ở phòng ngoài, trước bữa trà, và lúc đó là năm giờ kém hai mươi.
- Vâng. Tôi bảo cô ta phục vụ trà trong phòng sách.
- Lúc đó, cô từ đâu đi tới?
- Từ gác hai xuống! Trước đó vài phút, hình như tôi nghe có tiếng chuông điện thoại.
- Và Gladys ra cầm máy?
- Phải. Nhưng chỉ là người nào đó gọi nhầm.
- Và đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Gladys ?
- Vâng, khoảng mười phút sau, nó bưng trà vào phòng sách.
- Sau đó là cô Elaine đến?
- Ba hoặc bốn phút sau. Tôi liền lên gác, để báo bà Jennifer xuống uống trà.
- Cô thường hay phải báo như thế?
- Không. Thường lệ, ai xuống lúc nào thì xuống, tùy ý. Nhưng tại bà Fortescue hỏi những người khác đâu... Tôi tưởng nghe thấy tiếng bà Jennifer, nhưng hóa ra không phải...
- Yên đã! - Neele nói - Cô bảo tưởng nghe thấy bà Jennifer đi trên gác?
- Vâng, ngay trên đầu cầu thang. Nhưng không thấy ai xuống nên tôi đi lên. Bà Jennifer đang ở trong phòng, vừa đi đâu về.
- Và lúc đó là mấy giờ?
- Quá năm giờ một chút, khoảng ấy.
- Mấy giờ thì ông Lancelot Fortescue tới?
- Vừa lúc tôi đi xuống. Tôi tưởng ông ấy đến sớm hơn, nhưng...
- Tại sao cô tưởng vậy?
- Vì hình như tôi đã thấy ông ấy, lúc ở lưng chừng thang gác...
- Nhìn thấy ở đâu? Ngoài vườn?
- Phải. Thoáng thấy có người, phía rặng cây thông đỏ, nên tôi tưởng là ông ta…
- Lúc đó là lúc cô xuống trở lại, sau khi lên báo bà Jennifer xuống uống trà?
- Không. Trước đó kia... khi tôi xuống lần thứ nhất.
Thanh tra Neele cau mày:
- Cô chắc thế chứ?
- Chắc. Chính vì thế nên khi có chuông, tôi ra mở cửa, rất ngạc nhiên thấy lại là ông ta.
Neele suy nghĩ vài giây, rồi nói thật từ tốn:
- Cái người cô nhìn thấy ngoài vườn không thể là ông Lancelot. Chuyến tầu ông đi lẽ ra phải tới ga lúc bốn giờ hăm tám, hôm nay chậm mất tám phút. Vậy ông đến ga Baydon Heath lúc bốn giờ băm bẩy. Phải mất vài phút để kiếm tắc-xi, vậy lúc rời ga là khoảng năm giờ kém mười lăm. Thì trước đó năm phút cô đã nhìn thấy người ngoài vườn rồi. Ông Lancelot không thể tới đây trước năm giờ kém năm, ấy là nói nhanh nhất. Vậy chắc chắn người cô nhìn thấy không phải là ông ta!
- Nhưng rõ ràng tôi có nhìn thấy người!
- Đúng, nhưng lúc đó chiều đã muộn, cô không thể nhìn rõ là ai.
- Không. Tôi nhìn thấy bóng người cao và mảnh, thế thôi. Nhà đang đợi ông Lancelot. Vậy tôi tưởng là ông ta...
- Người đó đi về hướng nào?
- Đi sau rặng thông đỏ, về phía bên phải nhà.
- Ở đó có một cái cửa ngách. Có đóng không?
- Chỉ đóng vào buổi tối.
- Vậy ai cũng có thể lẻn vào được?
Mary Dove nghĩ một lát rồi mới đáp:
- Được.
Nhưng vội thêm ngay:
- Ông có ý bảo cái người tôi nghe thấy đi trên gác sau đó, chính là...
- Biết đâu? - Neele nói.
- Nhưng là ai chứ?
- Đó là điều ta cần tìm. Cô Dove, xin cảm ơn cô.
Mary Dove đi ra, Neele gọi giật lại:
- À này, nói đến chim sáo, cô có nhớ ra điều gì không?
Cô Dove đứng khựng lại, rõ ràng là ngạc nhiên.
- Chim sáo? - Cô nhắc lại.
- Phải, chim sáo.
Neele tránh nhìn cô quản gia, vì biết câu hỏi là vớ vẩn.
- Có phải ông có ý nói đến cái chuyện mùa hè năm ngoái?
Neele ừ bừa, và nói thêm:
- Tôi chưa rõ lắm, muốn cô kể lại từ đầu...
Qua cơn ngạc nhiên, cô Dove lại bình tĩnh, tự chủ như thường lệ.
- Theo tôi, đó chỉ là một trò đùa ngu xuẩn. Một buổi sáng, ông Fortescue vào phòng làm việc, thấy bốn xác con sáo chết nằm trên bàn. Đang mùa hè, cửa sổ mở, nên người ta nghĩ kẻ làm cái chuyện dớ dẩn đó là một người làm vườn. Tất nhiên nó chối và chẳng có bằng chứng gì, nhưng đúng là những con sáo đó bị nó bắn hạ...
- Và kẻ nào đó đã đem đặt chúng lên bàn ông Fortescue?
- Đúng.
- Để làm gì?
- Tôi không biết.
- Về trò đùa ấy, ông Fortescue nghĩ ra sao?
- Tất nhiên ông không hài lòng.
- Nhưng ông có lo ngại không?
- Không thấy ông nói gì.
Thanh tra hỏi đến đó, và lần này thì để cô Dove đi hẳn. Ông thấy bứt rứt trong người, và vô lý thay, ông lại bực với cô Marple. Cô bảo vụ này thế nào cũng phải có chim sáo, hóa ra cô nói đúng. Không phải hăm bốn con, song bốn con cũng đủ để cuộc điều tra thêm phức tạp, rắm rối. Có lẽ hung thủ là một kẻ loạn óc, mà ta phải lấy lý lẽ để phân tích những suy nghĩ của một tên điên thì khó quá!



1
Trong khoảnh khắc vài giây, thanh tra Neele nhìn cô Marple, vừa sửng sốt vừa lo ngại: thiếu chút nữa thì ông tin là bà cô già này bắt đầu lẩm cẩm. Ông nhắc lại:
- Những con sáo?
- Phải, những con sáo.
Rồi cô Marple cất giọng khàn khàn ngâm một khúc đồng dao cổ:

Tôi hát bài ca, một nắm lúa mạch
Với hăm bốn con sáo trong patê to tướng!
Mở patê ra, chim sáo hót véo von:
Món ăn thương hạng dâng lên Hoàng thượng!
Hoàng thượng ở trong kho, đếm bạc
Hoàng hậu ở trong cung, ăn bánh với mật
Còn cô hầu phơi áo ngoài vườn
Bị chim sà xuống mổ vào mũi!

Neele ngồi nghe, càng lúc càng ngơ ngác. Cô Marple nói:
- Ông thấy chưa? Mọi thứ đủ cả. Có Rex, nghĩa là vua, hoàng thượng, còn hoàng hậu với mật... Và cô hầu nữa, nếu không thì chưa đủ...
- Vậy kẻ gây ra những tội ác này là một tên loạn óc?
- Khoan hãy kết luận! - Cô Marple nói - Tôi chỉ thấy chuyện này rất lạ, và ta phải nghĩ đến những con sáo. Trong vụ này, không thể không có sáo!
Trung sĩ Hay xuất hiện, vẻ như muốn nói riêng với sếp làm Neele tạm ngừng tranh luận. Ông đứng lên:
- Rất cám ơn cô, tôi sẽ suy nghĩ đến những gì cô nói. Cô có thể tranh thủ vào thăm phòng của Gladys. Đợi một lát, trung sĩ đây sẽ dẫn cô đi.
Cô Marple ra rồi, Neele hỏi trung sĩ muốn gì.
- Cái này, thưa ông.
Hay đặt lên bàn một vật bọc trong chiếc mùi soa nhầu nát: đó là một hộp mứt cam mới mở và mới dùng một ít.
- Anh tìm thấy ở đâu? - Neele hỏi.
- Trong vườn rau ạ.
Một lúc lâu Neele không nói gì, nhưng đầu óc suy nghĩ rất lung. Ông nhanh chóng tưởng tượng ra một loạt sự việc, chưa có gì chứng minh, nhưng đều hợp lý và có thể là sự thật: hai bàn tay mở chiếc hộp sắt tây, hớt một thìa mứt, trộn vào đó một ít tắc-xin rồi lại đặt vào chỗ cũ, san đều bề mặt cho khỏi lổn nhổn, rồi đóng nắp lại... ngồi chờ diễn biến.
Neele ngừng suy đoán, đặt câu hỏi với trung sĩ:
- Mứt được đưa tới bàn ăn, để nguyên hộp như thế này?
- Thưa vâng. Trong thời chiến tranh, mọi người quen làm như thế, đến nay không bỏ. Hơn nữa, chỉ mình ông Fortescue dùng mứt trong bữa điểm tâm. Ông Percival cũng thường dùng, nhưng hôm đó đi vắng...
Neele gật đầu:
- Anh đưa ngay hộp này vào phòng thí nghiệm. Nếu phân tích thấy có tắc-xin, ta sẽ tạm đặt được giả thuyết.
- Có thể trên hộp có dấu vân tay?
- Sẽ không tìm thấy cái ta cần đâu. Sẽ có đủ dấu tay của Gladys, của Grump, của Fortescue, có thể cả của ông hàng khô, còn hung thủ thì lại khéo léo không để lại dấu! Hộp mứt này mua ở đâu?
Trung sĩ Hay đã lường trước mọi câu hỏi của sếp:
- Ở London. Bán từng mớ sáu hộp một. Khi hộp nào sắp hết, lại lấy hộp khác từ kho ra.
- Như vậy dẫn đến giả thiết là tắc-xin có thể được bỏ vào mứt từ trước khi hộp mứt được đem phục vụ tại bàn.
Điểm này cực kỳ quan trọng. Nếu có thể trộn thuốc độc vào mứt từ trước, thì hung thủ không nhất thiết phải là người cùng ăn trong bữa điểm tâm, cái hôm ông Fortescue chết. Nhận xét này mở rộng diện cho những giả thiết mới, cần được nghiên cứu kỹ.
Neele tự nhủ không được bỏ qua mọi sự khả năng.


2
Thanh tra Neele gặp Mary Dove trong phòng ngủ trên gác hai. Cô đang chỉ bảo bà Ellen thay trải giường, dù nó vẫn còn trắng muốt.
Neele ngạc nhiên, hỏi đang chuẩn bị đón ai. Bà Ellen mặt quàu quạu, lờ đi làm như không nghe thấy. Ngược lại, Mary Dove nhoẻn miệng cười dễ chịu, đáp:
- Phải nói trái lại mới đúng. Có lệnh đón khách, nay lại thôi. Phòng này, chúng tôi đã chuẩn bị để tiếp ông Gerald Wright...
- Gerald Wright là ai?
- Một bạn trai của cô Elaine Fortescue.
Giọng đáp đều đều, thản nhiên và khách quan.
- Ông ấy định đến vào lúc nào? - Neele lại hỏi.
- Lẽ ra ông ta đến vào sau hôm ông Fortescue mất.
- Sau hôm mất?
- Là cô Elaine bảo thế... Cô ấy bảo ông ta sẽ nghỉ lại đây. Do đó tôi phải chuẩn bị phòng. Nhưng như ông đã thấy, từ đó xảy ra hai... cái chết liền, và có lẽ vì thế ông ta không đến đây mà tạm trú ở khách sạn Golf.
Bà Ellen đi ra, mang theo các trải giường đã gấp lại. Cô Dove đợi một lát, rồi nói:
- Ông cần hỏi gì nữa không ạ?
- Có! Đến lúc này, tôi phải xem lại giờ giấc thật chính xác. Ai nấy mới nói một cách đại khái, điều ấy là dễ hiểu. Nhưng cô, bao giờ cô cũng nói giờ giấc rõ ràng.
- Điều đó cũng là dễ hiểu chứ?
Thanh tra mỉm cười:
- Tôi có thể phải khen cô, dù trong mọi hoàn cảnh... nặng nề, vẫn giữ được cái đầu tỉnh táo, điều khiển mọi việc trong nhà. Cô làm thế nào mà được như vậy?
Neele đã tìm ra điểm mạnh của Mary Dove: tự hào mình biết sai khiến gia nhân.
- Thực ra tôi đang gặp khó khăn - cô nói - Vợ chồng Grump muốn bỏ di.
- Ta không cho phép họ đi lúc này.
- Vâng. Song tôi đã nói với họ rằng ông Percival Fortescue sẽ... trả lương hậu nếu họ ở lại.
- Bà Ellen có định đi không?
- Không. Bà không hề nghĩ đến chuyện xin đi.
- Bà ấy bạo đấy.
- Và không khí ảm đạm đang bao trùm đối với bà cũng là hay. Không phải mình bà Ellen. Bà Jennifer cũng giống như thế.
- Chả lẽ họ lại... thích thấy có người chết?
- Không, nói vậy thì quá... Nhưng họ không vì thế mà hoang mang!
- Còn cô, cô có... dao động không?
Cô nhún vai:
- Tôi đã trải qua nhiều điều hơn thế!
Neele không nói thêm, trở lại vấn đề giờ giấc:
- Lần cuối cùng cô trông thấy Gladys Wartin, là ở phòng ngoài, trước bữa trà, và lúc đó là năm giờ kém hai mươi.
- Vâng. Tôi bảo cô ta phục vụ trà trong phòng sách.
- Lúc đó, cô từ đâu đi tới?
- Từ gác hai xuống! Trước đó vài phút, hình như tôi nghe có tiếng chuông điện thoại.
- Và Gladys ra cầm máy?
- Phải. Nhưng chỉ là người nào đó gọi nhầm.
- Và đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Gladys ?
- Vâng, khoảng mười phút sau, nó bưng trà vào phòng sách.
- Sau đó là cô Elaine đến?
- Ba hoặc bốn phút sau. Tôi liền lên gác, để báo bà Jennifer xuống uống trà.
- Cô thường hay phải báo như thế?
- Không. Thường lệ, ai xuống lúc nào thì xuống, tùy ý. Nhưng tại bà Fortescue hỏi những người khác đâu... Tôi tưởng nghe thấy tiếng bà Jennifer, nhưng hóa ra không phải...
- Yên đã! - Neele nói - Cô bảo tưởng nghe thấy bà Jennifer đi trên gác?
- Vâng, ngay trên đầu cầu thang. Nhưng không thấy ai xuống nên tôi đi lên. Bà Jennifer đang ở trong phòng, vừa đi đâu về.
- Và lúc đó là mấy giờ?
- Quá năm giờ một chút, khoảng ấy.
- Mấy giờ thì ông Lancelot Fortescue tới?
- Vừa lúc tôi đi xuống. Tôi tưởng ông ấy đến sớm hơn, nhưng...
- Tại sao cô tưởng vậy?
- Vì hình như tôi đã thấy ông ấy, lúc ở lưng chừng thang gác...
- Nhìn thấy ở đâu? Ngoài vườn?
- Phải. Thoáng thấy có người, phía rặng cây thông đỏ, nên tôi tưởng là ông ta…
- Lúc đó là lúc cô xuống trở lại, sau khi lên báo bà Jennifer xuống uống trà?
- Không. Trước đó kia... khi tôi xuống lần thứ nhất.
Thanh tra Neele cau mày:
- Cô chắc thế chứ?
- Chắc. Chính vì thế nên khi có chuông, tôi ra mở cửa, rất ngạc nhiên thấy lại là ông ta.
Neele suy nghĩ vài giây, rồi nói thật từ tốn:
- Cái người cô nhìn thấy ngoài vườn không thể là ông Lancelot. Chuyến tầu ông đi lẽ ra phải tới ga lúc bốn giờ hăm tám, hôm nay chậm mất tám phút. Vậy ông đến ga Baydon Heath lúc bốn giờ băm bẩy. Phải mất vài phút để kiếm tắc-xi, vậy lúc rời ga là khoảng năm giờ kém mười lăm. Thì trước đó năm phút cô đã nhìn thấy người ngoài vườn rồi. Ông Lancelot không thể tới đây trước năm giờ kém năm, ấy là nói nhanh nhất. Vậy chắc chắn người cô nhìn thấy không phải là ông ta!
- Nhưng rõ ràng tôi có nhìn thấy người!
- Đúng, nhưng lúc đó chiều đã muộn, cô không thể nhìn rõ là ai.
- Không. Tôi nhìn thấy bóng người cao và mảnh, thế thôi. Nhà đang đợi ông Lancelot. Vậy tôi tưởng là ông ta...
- Người đó đi về hướng nào?
- Đi sau rặng thông đỏ, về phía bên phải nhà.
- Ở đó có một cái cửa ngách. Có đóng không?
- Chỉ đóng vào buổi tối.
- Vậy ai cũng có thể lẻn vào được?
Mary Dove nghĩ một lát rồi mới đáp:
- Được.
Nhưng vội thêm ngay:
- Ông có ý bảo cái người tôi nghe thấy đi trên gác sau đó, chính là...
- Biết đâu? - Neele nói.
- Nhưng là ai chứ?
- Đó là điều ta cần tìm. Cô Dove, xin cảm ơn cô.
Mary Dove đi ra, Neele gọi giật lại:
- À này, nói đến chim sáo, cô có nhớ ra điều gì không?
Cô Dove đứng khựng lại, rõ ràng là ngạc nhiên.
- Chim sáo? - Cô nhắc lại.
- Phải, chim sáo.
Neele tránh nhìn cô quản gia, vì biết câu hỏi là vớ vẩn.
- Có phải ông có ý nói đến cái chuyện mùa hè năm ngoái?
Neele ừ bừa, và nói thêm:
- Tôi chưa rõ lắm, muốn cô kể lại từ đầu...
Qua cơn ngạc nhiên, cô Dove lại bình tĩnh, tự chủ như thường lệ.
- Theo tôi, đó chỉ là một trò đùa ngu xuẩn. Một buổi sáng, ông Fortescue vào phòng làm việc, thấy bốn xác con sáo chết nằm trên bàn. Đang mùa hè, cửa sổ mở, nên người ta nghĩ kẻ làm cái chuyện dớ dẩn đó là một người làm vườn. Tất nhiên nó chối và chẳng có bằng chứng gì, nhưng đúng là những con sáo đó bị nó bắn hạ...
- Và kẻ nào đó đã đem đặt chúng lên bàn ông Fortescue?
- Đúng.
- Để làm gì?
- Tôi không biết.
- Về trò đùa ấy, ông Fortescue nghĩ ra sao?
- Tất nhiên ông không hài lòng.
- Nhưng ông có lo ngại không?
- Không thấy ông nói gì.
Thanh tra hỏi đến đó, và lần này thì để cô Dove đi hẳn. Ông thấy bứt rứt trong người, và vô lý thay, ông lại bực với cô Marple. Cô bảo vụ này thế nào cũng phải có chim sáo, hóa ra cô nói đúng. Không phải hăm bốn con, song bốn con cũng đủ để cuộc điều tra thêm phức tạp, rắm rối. Có lẽ hung thủ là một kẻ loạn óc, mà ta phải lấy lý lẽ để phân tích những suy nghĩ của một tên điên thì khó quá!
Một Nắm Lúa Mạch
Lời Mở Đầu
Chương 1
Chương 2
Chương III
Chương IV
Chương V
Chương VI
Chương VII
Chương VIII
Chương IX
Chương X
Chương XI
Chương XII
Chương XIII
Chương XIV
Chương XV
Chương XVI
Chương XVII
Chương XVIII
Chương XIX
Chương XX
Chương XXI
Chương XXII
Chương XXIII
Chương XXIV
Chương XXV
Chương XXVI
Chương XXVII
Chương XXVIII