Chương 5
Tác giả: ALAN PATON
Tôi đã giữ cho huynh một phòng trong nhà một bà già, bà Lithebe, một người hiền lương trong giáo khu. Bà ta là người Msutu, nhưng nói thạo tiếng Zulu. Bà ta sẽ lấy làm hân hạnh có một mục sư trong nhà. Tiền phòng rẻ, có ba si-ling một tuần thôi, còn ăn uống thì huynh qua đây ăn với anh em trong hội Truyền Giáo. Ủa, chuông đánh báo tới bữa ăn rồi này. Mời huynh đi rửa tay.
Họ rửa tay trong một phòng rất tân thời, có một la-va-bô trắng tinh, đủ nước nóng nước lạnh, mấy chiếc khăn mặt tuy đã cũ nhưng rất trắng, cầu tiêu cũng tân thời. Xong rồi chỉ cần ấn một cái nút nhỏ là nước ồ ồ chảy ra như có cái gì bể vậy, không biết trước thì giật mình.
Họ vô một căn phòng bàn ăn đã dọn sẵn và Kumalo gặp mấy mục sư nữa cả da trắng lẫn da đen; họ đọc kinh tạ ơn rồi bắt đầu ăn. Kumalo nhìn thấy có nhiều đĩa, dao và nĩa, hơi hoang mang, nhưng rồi để ý ngó các người khác làm ra sao và cũng làm vậy.
Ông ngồi bên một mục sư trẻ tuổi, cặp má hồng hào từ Anh qua; mục sư này hỏi ông từ đâu tới và miền ông ở ra sao. Một mục sư khác, da đen la lên:
- Quê tôi cũng ở Ixopo. Song thân tôi còn sống ở đó, trong thung lũng Lufafa. Miền đó lúc này ra sao?
Và Kumalo nói chuyện về những miền đó cho họ nghe, tả những đồi cao và thung lũng của xứ xa xôi mà ông yêu quí đó. Giọng ông chắc nồng nàn vì mọi người đều làm thinh, chăm chú nghe ông. Ông cũng tả bệnh cằn cỗi của đất đai, cây cỏ chết lụi, khe suối khô cạn; cảnh tiêu điều trong miền chỉ còn các ông già bà cả, đàn bà và con nít; bắp thì cao không tới đầu người mà bộ lạc thì tan tác, nhà cửa hoang tàn, con người thất vọng; mà khi họ bỏ nhà ra đi rồi thì nhiều kẻ không khi nào trở về nữa, nhiều kẻ không viết một bức thư nào về nữa. Ông bảo rằng tình cảnh đó không chỉ riêng ở Ndotsheni, mà chung cho cả các thung lũng Lufafa, Imhlavini, Umkomaas và Umzimkulu. Nhưng về Gertrude và Absalom thì ông không nói gì cả.
Thế là mọi người cùng bàn bạc về bệnh cằn cỗi của đất đai, về những bộ lạc tan tác, nhà cửa hoang tàn, những trai gái bỏ quê hương ra đi, quên cả tục lệ và sống một đời phóng túng, biếng nhác. Họ nói đến bọn thiếu nhi phạm pháp, bọn phạm pháp lớn tuổi hơn và nguy hiểm hơn nữa. Họ bảo rằng người da trắng sống trong cảnh sợ hãi vì bọn bất lương da đen. Một người đi kiếm một tờ nhật báo, tờ Johannesburg Mail , chỉ cho Kumalo một tít in chữ lớn: MỘT CẶP VỢ CHỒNG GIÀ, BỊ ĐÁNH ĐẬP CƯỚP BÓC TRONG NGÔI NHÀ HẺO LÁNH, BỐN THỔ DÂN BỊ BẮT, và bảo:
- Những chuyện như vậy xảy ra gần như hằng ngày. Mà không phải chỉ riêng người Âu sợ hãi đâu. Chúng tôi cũng sợ nữa, ngay ở Sophiatown này. Mới cách đây không lâu, bọn thanh niên đó cướp giật một thiếu nữ Phi, lấy xắc và tiền nong, và nếu người ta không chạy tới kịp thì chắc là thiếu nữ đó đã bị chúng hiếp rồi.
Ông mục sư mặt hồng hào bảo:
- Ở Johannesburg này ông sẽ biết được nhiều chuyện nữa. Không phải chỉ riêng miền của ông bị tàn phá đâu. Chúng ta còn phải nói chuyện với nhau nhiều nữa. tôi muốn được nghe ông nói tiếp về xứ sở của ông, nhưng bây giờ tôi có việc phải cáo biệt.
Câu chuyện tới đó ngừng lại và Misimangu muốn dắt Kumalo về phòng riêng của mình. Ông ta bảo:
- Chúng tôi có nhiều chuyện phải nói với nhau.
Hai người trở lại phòng riêng của Msimangu. Khi cửa khép lại rồi, họ cùng ngồi xuống rồi, Kumalo bảo:
- Xin huynh thứ lỗi cho, tôi nóng ruột muốn biết tin tức về em gái tôi.
- Vâng, vâng, tôi biết chắc rằng huynh nóng ruột lắm, và chắc huynh cho tôi là có vẻ thản nhiên. Nhưng xin lỗi, trước hết tôi muốn biết cô ấy tới Johannesburg này làm gì vậy?
Câu hỏi đó làm Kumalo bối rối, nhưng ông không dám giấu, phải nói thẳng rằng em gái ông ra đây tìm chồng. Chồng đã đăng phu mỏ, hết hạn rồi mà không về, cũng không cho biết tin tức gì cả. Em gái ông không biết chồng còn sống hay chết, đành dắt đứa con nhỏ ra đây tìm chồng.
Thấy Msimangu làm thinh ông lo lắng hỏi:
- Cô ấy đau nặng lắm không?
Msimsngu nghiêm nghị đáp:
- Vâng, đau nặng lắm. Nhưng không phải thứ bệnh đó mà là một thứ bệnh khác; tệ hơn nhiều. Tôi đã nhắn huynh ra đây vì thiếu phụ đó cô độc mà lại là em ruột một mục sư. Tôi không biết cô ấy có tìm được chồng không, nhưng hiện nay cô ấy không có chồng.
Ông ta ngó Kumalo, nói thêm:
- Nói cho đúng hơn cô ta có rất nhiều chồng.
Kumalo khẽ kêu lên:
- Tixo! Tixo!
- Hiện nay cô ấy ở Charemont, cũng gần đây. Khu đó là một trong những khu tồi tệ nhất ở Johannesburg. Sau các cuộc bố ráp của cảnh sát, rượu chảy ra cùng đường. Vô cái khu đó là ngửi thấy nồng nặc mùi rượu, không có mùi gì khác hơn là mùi rượu.
Ông ta nghiêng mình về phía Kumalo, bảo:
- Hồi xưa tôi cũng thường uống rượu, nhưng đó là thứ rượu tốt như rượu của ông cha chúng mình cất. Bây giờ tôi đã thề rồi, không đụng tới một giọt rượu nữa. Thứ rượu ở đây xấu, người ta bỏ thêm vô những cái quái gì đó cho nó thêm nồng mà trước kia người mình có bao giờ dùng đâu. Đó, cái nghề lúc này của cô ấy là chế tạo thứ rượu đó rồi bán. Nói ra thì đau lòng nhưng tôi cũng phải nói hết. Bọn đàn bà đó ngủ với bất kỳ người đàn ông nào để kiếm tiền. Một người đàn ông bị giết ở nhà cô ấy. Họ đùa giỡn, nhậu nhẹt và đâm chém nhau. Cô ấy đã bị nhốt khám mấy lần rồi.
Ông ta ngả lưng vào chiếc ghế bành, đẩy một cuốn sách ở trên bàn ra xa rồi lại kéo nó về, bảo:
- Những tin đó đau xót cho huynh lắm.
Kumalo gật đầu và làm thinh.Msimangu lấy gói thuốc lá mời:
- Huynh hút một điếu.
Kumalo lắc đầu
- Tôi có biết hút thuốc đâu.
- Đôi khi hút thuốc làm cho thần kinh dịu được. Trong con người chắc còn có một thứ an tĩnh nào khác, lúc đó cứ để cho người ta hút để hưởng cái an tĩnh ấy. Nhưng ở Johannesburg, nhiều khi khó mà tìm được cái thứ an tĩnh ấy.
- Tại sao lại ở Johannesburg? Ở đâu mà chẳng vậy? Sự an tĩnh của Thượng Đế rời bỏ chúng ta rồi?
Cả hai lại im lặng, như thể một lời nào đó đã thốt ra rồi thì có nói gì thêm nữa cũng hoá ra vô nghĩa. Sau cùng Kumalo hỏi;
- Đứa nhỏ hiện ở đâu?
- Cùng ở đó với má nó. Nhưng nơi đó không phải là chỗ cho trẻ ở, và đó cũng là lý do tôi đã mời huynh ra đây. Nếu huynh không thể cứu được người mẹ thì may ra có thể cứu được đứa con.
- Nơi đó ở đâu?
- Cách đây không xa. Ngày mai tôi sẽ dắt huyng tới.
- Tôi còn một nỗi rầu rĩ nữa.
- Huynh cứ nói tôi nghe.
- Tôi sung sướng được thổ lộ với huynh.
Nhưng rồi Kumalo làm thinh, ran nói mà không thốt nên lời.
Msimangu bảo:
- Chẳng có gì gấp, huynh ạ…
- Khó nói quá. Đó là nỗi rầu rĩ nhất của chúng tôi.
- Chuyện cậu con trai chăng? Hay là cô con gái?
- Con trai.
- Cứ nói tôi nghe.
- Tên cháu là Absalom. Nó cũng ra đây để tìm cô nó, nhưng đi rồi không về và đã lâu rồi nó không thư từ gì về nhà nữa. Má nó và tôi gởi cho nó mấy bức thư, bức nào cũng gởi trả lại. Bây giờ nghe những lời huynh kể, tôi lại càng lo sợ.
- Chúng mình sẽ rán tìm kiếm nó. Có lẽ cô em đó biết nó ở đâu. Huynh mệt rồi, để tôi đưa huynh lại căn phòng tôi đã giữ cho huynh.
- Vâng, tôi cũng cần phải nghỉ ngơi.
Họ đứng dậy, Kumalo bảo:
- Tôi có thói quen, hễ cầu nguyện thì lại giáo đường. Huynh làm ơn chỉ lối cho tôi.
- Chúng mình đương đi về phía đó đây.
Kumalo có giọng khiêm cung:
- Ước gì huynh cầu nguyện cho tôi.
- Tôi sẵn lòng lắm. Huynh ạ, tôi cũng có nhiều công việc lắm, nhưng huynh còn ở đây ngày nào thì công việc của huynh là công việc của tôi.
- Huynh tốt bụng quá.
Giọng nói của Kumalo có cái gì khúm núm làm cho Msimangu cảm động.Msimangu đáp:
- Tôi không tốt bụng đâu. Tôi là một người ích kỷ và nhiều tội lỗi, nhưng được Thượng Đế ra tay cứu vớt thế thôi.
Ông xách giùm cái tay nải cho Kumalo nhưng trước khi tới cửa, Kumalo níu tay ông lại, bảo:
- Tôi có một điều muốn nói nữa.
- Cái gì vậy?
- Tôi cũng có một người em cũng ở Johannesburg. Chú ấy không bao giờ viết thư cho tôi cả. Tên là John Kumalo, làm thợ mộc.
Msimangu mỉm cười:
- Tôi biết ông ta. Còn thì giờ đâu nữa mà viết thư. Một đại chính trị gia ở Johannesburg đấy.
- Chính trị gia? Chú ấy mà là chính trị gia?.
- Phải, có uy thế về chính trị đấy.
Msimangu ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Tôi mong rằng điều tôi nói đây sẽ không làm cho huynh đau lòng thêm nữa. Ông em của huynh từ bỏ giáo hội rồi. Ông ta bảo cái gì mà Thượng Đế không làm cho Nam Phi, thì con người phải làm. Nói vậy đó.
- Chuyến đi này của tôi thật chua chát quá.
- Đúng vậy.
- Đôi khi tôi lo sợ….Đức Giám mục mà hay thì không biết ngài sẽ nói sao? Một mục sư của ngài…
- Một đức Giám mục thì nói gì được? Một cái gì đó đã xảy ra mà không đức Giám mục nào có thể ngăn nổi? Ai có thể ngăn nổi những cái đó xảy ra? Nó đã xảy ra thì nó phải tiếp tục như vậy.
- Sao huynh có thể nói như vậy được? Làm sao huynh có thể nói được rằng những cái đó phải tiếp tục?
Msimangu nghiêm nghị lập lại:
- Nhưng cái đó phải tiếp tục. Không ai có thể ngăn cản được thế giới tiến tới. Tôi là người theo đạo Ki Tô. Trong thâm tâm tôi không oán người da trắng. Chính người da trắng đã kéo thân phụ tôi ra khỏi cảnh tối tăm. Nhưng xin lỗi bạn cho tôi nói thẳng. Cái bi kịch không phải là có những cái đã đổ vỡ. Bi kịch là đổ vỡ mà không sửa chữa lại được nữa. Người da trắng đã làm cho bộ lạc tan rã. Và tôi tin chắc rằng – tôi xin lỗi bạn lần nữa – tôi tin chắc là không sao sửa chữa được nữa. Nhà cửa tan tành, con người phiêu tán, những cái đó mới là bi thảm. mà hậu quả là trẻ ngày nay bất chấp pháp luật mà các người da trắng già thì bị đánh đập, cướp bóc.
Ông đưa tay lên trán, nghiêm nghị nói tiếp:
- Người da trắng cho rằng làm cho bộ lạc tan rã là điều có lợi. Nhưng họ không thấy cần phải xây dựng cái gì để thay thế. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều vế vấn đề đó, và tôi cần phải nói ra vì tôi cho là điều tôi nói đây là sự thực. Không phải mọi người da trắng đều như vậy. Cũng có vài người da trắng hy sinh để rán xây dựng lại cái gì đã đổ vỡ. Nhưng số người đó ít lắm – ông nói tiếp - Họ sợ, sự thực như vậy. Chính sự sợ hãi chi phối, thống trị xứ này.
Ông ngừng lại ở giữa lề đường, nghiêm trang và bình tĩnh nói với bạn:
- Vì người da trắng nắm quyền hành mà chúng ta cũng muốn có quyền hành. Nhưng khi người da đen có được quyền hành, khi họ có nhiều tiền thì sẽ thành một vĩ nhân nếu không tham nhũng. Tôi đã thường thấy như vậy. Họ muốn có quyền hành và tiền bạc để sửa đổi những bất công trong xã hội và khi họ có được cái đó rồi thì họ chỉ lo lợi dụng và hưởng thụ thôi. Lúc đó họ có thể mua vui, có thể tìm cách mua được rượu của người da trắng. Có thể nói với cả ngàn người và nghe người ta vỗ tay hoan nghênh mình.
- Trong bọn chúng ta có vài người nghĩ rằng khi chúng ta có quyền hành thì có thể trả thù những người da trắng trước kia đã có quyền hành, và cái ý muốn đó xấu xa, vì chúng ta xấu xa nên quyền hành của chúng ta không có sức mạnh. Nhưng đa số người da trắng không hiểu sự thực đó về quyền hành và họ sợ chúng ta có quyền hành.
Ông đứng yên như suy nghĩ về những điều mới nói:
- Phải, đúng là quyền hành như vậy đó, nếu nó đồi bại thì không có sức mạnh. Chỉ có mỗi một cái là quyền hành tuyệt đối, tức tình thương. Vì khi có tình thương thì người ta không cầu có quyền hành, mà vì không cầu có quyền hành thì tự nhiên có quyền hành. Tôi chỉ thấy có mỗi một niềm hy vọng cho quê hương chúng ta, là người da trắng và người da đen không cầu có quyền hành và tiền bạc, chỉ mưu cái ích lợi cho xứ này và cùng hợp lực với nhau để thực hiện việc đó.
Ông ngừng nói, vẻ trầm tư, rồi rầu rĩ nói tiếp:
- Tôi sợ nhất một điều là tới khi họ biết có tình thương thì họ thấy chúng mình đã hoá ra thù ghét họ.
Và Kumalo lặng lẽ theo ông ta, lòng thấy trầm uất vì những lời nghiêm nghị và buồn bực đó.
o o o
Họ tới Doorfontein mà cũng chẳng được việc gì mặc dầu người da trắng ở đó nể nang họ. Msimangu biết cách cư xử với người da trắng và họ chịu khó tìm hỏi, sau cùng hay rằng Absalom Kumalo đã thôi không làm ở xưởng đó một năm rồi. Một người nhớ rằng Absalom chơi thân với một người thợ trong xưởng tên là Dhlamini, và cho gọi anh thợ này lại. Anh ta bảo tin tức cuối cùng anh ta được biết là Absalom ở trọ nhà một bà tên là Ndlela ở đường End, con đường phân cách Sophiatown và khu Westdene của người Âu. Anh ta nhớ mài mại số nhà là 105, nhưng không chắc chắn lắm.
Kumalo và Msimangu lại trở về Sophiatown, quả nhiên gặp được bà Ndlela ở số 106, đường End. Bà nhã nhặn tiếp họ, trong khi mấy đứa con của bà núp sau váy mẹ mà ngó trộm khách. Bà ta bảo Absalom không còn ở đó nữa, nhưng yêu cầu họ đợi một chút, vì bà ta nhớ Absalom có viết cho bà một bức thư để xin lại những đồ vật để lại nhà bà. Và trong khi Kumalo chơi với mấy đứa nhỏ, Msimangu nói chuyện với chồng bà ta thì bà ta lấy ra một hộp lớn chứa đầy giấy má và đồ lặt vặt rồi lục lọi, tìm kiếm bức thư của Absalom. Msimangu nhận xét nét mặt hiền từ mệt mỏi của bà, thấy bà ngừng tay một chút, nhìn Kumalo có vẻ vừa tò mò vừa thương hại. Sau cùng bà ta kiếm được bức thư, chỉ cho họ địa chỉ: 79 đại lộ 23, Alexandra, nhờ bà Mkige giao lại giùm.
Chủ nhân pha trà, họ phải uống một chén, khi họ đứng dậy ra về thì trời đã tối. Ông chồng tiễn Kumalo ra tới tận ngoài đường.
Msimangu ở lại phía sau, hỏi bà vợ:
- Tại sao bà ngó ông bạn tôi mà có vẻ thương hại?
Bà ta nhìn xuống rồi lại ngước mắt lên đáp:
- Ông ấy là một Umfundisi?
- Phải!
- Tôi không ưa bọn bạn bè của con trai ông ấy. Nhà tôi cũng vậy. Vì vậy mà cậu ấy bỏ đi nơi khác.
- Tôi hiểu bà. Nhưng ngoài ra còn có gì nghiêm trọng hơn nữa không?
- Không, tôi không thấy gì khác nhưng tôi không ưa bạn bè của cậu ấy.
Vẻ mặt bà ta chân thành cởi mở, bà không nhìn xuống nữa.
- Xin chào bà.
- Xin chào Umfundisi.
Ra tới đường, Msimangu và Kumalo từ biệt người chồng rồi đi về phía hội Truyền giáo.
Msimangu bảo:
- Ngày mai chúng ta lại Alexandra.
Kumalo đặt bàn tay lên cánh tay bạn:
- Tôi lại Johannesburg này toàn là vì những chuyện không vui, nhưng được quen biết huynh, thật là niềm vui sướng cho tôi.
- Thôi chúng mình mau lên, kẻo trễ bữa tối rồi.