CUỐN BA - Chương 1
Tác giả: ALAN PATON
Đầu máy xe lửa tuôn khói và tiếng còi vang lên trong cánh đồng cỏ miền Transvaal. Những đồi trắng bèn bẹt của khu mỏ lùi lại phía sau và cánh đồng trải ra tít mù. Họ ngồi gom lại với nhau, Kumalo ôm đứa cháu trên đùi, còn thiếu nữ thì ôm cái xắc chứa tất cả các đồ đạc của nàng, thứ xắc bằng giấy mà các tiệm thường tặng khách hàng. Đứa nhỏ đòi mẹ, nhung Kumalo bảo mẹ nó đi có việc và nó không đòi nữa.
Tới Volksrust, đầu máy xe lửa bỏ các toa lại và người ta móc toa vào một cái đầu máy khác có một cái lồng trên mui tiếp nhận điện lực từ hai sợi dây cáp trên cao truyền xuống. Rồi chuyến xe lượn quanh co những sườn đồi dốc của miền Natal và Kumalo bảo thiếu nữ rằng đã tới Natal. Nàng tò mò thích thú vì chưa bao giờ đi miền này.
Bóng tối đổ xuống, đêm đó chuyến xe ầm ầm chạy qua những bãi chiến trường thời xưa. Họ đi ngang qua nhưng không nhìn thấy những đồi Mooi, Rosetta, Balgowan. Khi mặt trời mọc thì xe lại lượn quanh những đồi cao nhất, xuống châu thành xinh đẹp Pietermaritzburg.
Tới đây, họ lên một chuyến xe khác chạy theo thung lũng Umsindusi, ngang qua những chòi đen, băng ngang Edendale, Elandskop rồi xuống thung lũng lớn Umkomaas, tại đó có các bộ lạc ở trên một khu đất cằn cỗi, không sao cứu vãn được nữa. Người ta bảo Kumalo rằng trời không chịu mưa xuống, dân chúng không thể cày bừa trồng trọt gì cả, thế nào thung lũng này cũng bị nạn đói kém.
Tới Donnbrook, họ lại sang xe một lần nữa chiếc xe lửa lần này như một đồ chơi chạy về Ixopo, ngang qua những đồi xanh mướt, nhấp nhô ở Eastwolds và Lufafa. Tới Ixopo, họ xuống xe, nhiều người vẫy chào họ mừng rỡ reo: “ Chà! Đi chuyến này lâu dữ ”.
Ở đây, họ lên chiếc xe lửa cuối cùng, và đường xe lửa chạy theo con đường cái đẹp đẽ vô miền đồi. Trong xe nhiều người biết Kumalo và ông sợ những câu hỏi của họ lắm. Họ ngây thơ như con nít, hỏi một cách rất tự nhiên, chẳng có ý tứ gì cả: “ Người này là ai đây? ”, “ Cô này là ai đây? ”, “ Em bé này của ai đây? ”, “ Họ ở đâu tới đây? ”. Họ rất có thể hỏi: “ Cô em của ông mạnh không? ”, “ Con trai ông mạnh không? ”. Để tránh những câu hỏi đó, ông lấy cuốn Thánh kinh ra đọc, thấy vậy họ quay đi tìm người khác dễ bắt chuyện hơn.
Mặt trời sắp lặn trên thung lũng lớn Umzikulu, sau dãy núi Đông Griqualand. Bà vợ đứng đó đón ông với người thân tín để xách giùm tay nải cho ông. Ông bước vội lại phía bà, ôm bà hôn theo lối Âu tây. Về tới quê nhà ông mừng quá.
Bà nhìn ông có vẻ dò hỏi, ông bảo:
- Con nó sẽ bị xử tử, có thể sẽ được ân xá, nhưng để lúc khác sẽ nói.
Bà bảo:
- Em hiểu.
- Còn cô Gertrude đã thu xếp xong xuôi để cùng về. Ở ngoài đó hai anh em cùng ở trọ một nhà. Rồi tới lúc anh vô đánh thức cô ấy để ra xe thì cô ấy đã bỏ đi rồi. Để lúc khác sẽ nói.
Bà cúi đầu xuống. Ông nói tiếp:
- Đây đứa cháu, con cô ấy đây. Và đây là con dâu của chúng mình.
Bà Kumalo bồng đứa nhỏ lên, ôm nó hôn theo lối Âu tây, bảo nó:
- Bác sẽ coi con như con bác.
Bà đặt nó xuống đất, lại gần thiếu nữ khép nép đứng một bên, tay cầm cái xắc giấy. Bà quàng tay ôm thiếu nữ theo lồi Âu tây, bảo:
- Mà sẽ coi con như con gái má.
Thiếu nữ oà lên khóc. Bà phải bảo:
- Ý, đừng khóc chứ con.
Rồi lại bảo:
- Nhà ba má đơn sơ và yên tĩnh, không có gì sang trọng đâu.
Thiếu nữ mắt nhoà lệ, ngửng lên nhìn bà và đáp:
- Thưa má con chỉ cầu có vậy.
Nàng xúc động từ đáy lòng, cảm xúc đó vui thích mà thâm trầm. Mặc dầu nàng ứa lệ mà thấy được an ủi trong cảnh đau xót.
Kumalo bắt tay người thân tín, rồi họ tiến vô con đường mòn chật hẹp đi về hướng tây trong thung lũng Ndotsheni.
Có tiếng đàn ông gọi Kumalo:
- Umfundisi mới về mừng quá.
Rồi một người đàn bà nói với người đàn bà khác:
- Kìa, Umfundisi về kìa.
Một người đàn bà bận theo lối Âu, vắt tấm tạp dề trên đầu, chạy vô chòi, cười cười khóc lóc, bộ điệu giống một em bé hơn một thiếu phụ, reo lên:
- Umfundisi về kìa!
Chị ta dắt mất đứa con ra cửa, và chúng đứng nép sau váy mẹ nhìn Umfundisi về.
Một em gái chạy ra giữa đường, chắn Kumalo, ông phải ngừng lại. Nó bảo:
- Umfundisi về chúng con mừng quá.
- Nhưng các cháu đã có một Umfundisi mới rồi mà?
Ông muốn nói tới người trẻ tuổi mà đức Giám mục phái lại thay ông.
Đứa nhỏ đáp:
- Chúng con không hiểu Umfundisi đó, chúng con chỉ hiểu Umfundisi của chúng con thôi. Umfundisi về, chúng con mừng quá.
Con đường mòn tới đây bắt đầu xuống dốc, bỏ lại miền ngọn đồi xanh những cỏ cùng phượng vĩ, nhờ có sương mù; phải thận trọng bước, vì ngọn đồi dựng đứng lởm chởm. Nhất là đàn bà có mang phải coi chừng, nên bà Kumalo đi trước bà nhắc nàng dâu:
- Có phiến đá đây, coi chừng trượt chân đấy.
Đêm đã xuống và những ngọn đồi Đông Griqualand tím đậm nổi bật trên nền trời.
Con đường đưa xuống miền đất đỏ Ndotsheni. Nơi này hoang tàn, chỉ có ông già bà cả, đàn bà và con nít, nhưng là xứ sở của họ. Bắp cao không tới đầu người, nhưng là quê hương của họ.
- Thưa Umfundisi, quê nhà bị hạn hán. Mọi người đều cầu mưa.
- Ừ, tôi có nghe nói.
- Thực phẩm dự trữ gần hết rồi, thưa Umfundisi. Rồi đây không biết lấy gì mà ăn.
Con đường bớt dốc, nó đi theo bờ một con suối nhỏ ở bên cạnh khu đất của giáo đường, Kumalo ngừng lại để nghe tiếng suối, nhưng chẳng nghe thấy gì cả.
- Suối không chảy ư?
- Thưa Umfundisi, nó đã cạn khô một tháng nay rồi.
- Thế thì kiếm nước ở đâu?
- Đàn bà phải lại múc nước ở con sông trên đồn điền của uJarvis, thưa Umfundisi.
Nghe tên Jarvis, Kumalo lại thấy sợ sệt, đau khổ, nhưng ông cũng rán hỏi:
- Ông Jarvis ra sao?
- Ông ấy về hôm qua, thưa Umfundisi. Tôi không biết ông ấy ra sao. Còn Inkosikazi (1) đã về từ trước mấy tuần, bà ta có vẻ gầy và đau. Tôi hiện làm ở trên đó.
Kumalo làm thinh, không nói được nữa. Người kia bảo:
- Ở đây ai cũng biết rồi.
- À, ai cũng biết rồi.
- Thưa Umfundisi, người ta biết cả rồi.
Họ không nói gì nữa, và con đường bây giờ bằng phẳng, đi ngang qua các chòi các thửa ruộng đất đỏ, trụi khô. Nghe có tiếng gọi trong đêm tối, có tiếng một người hỏi cái gì đó và tiếng một người ở xa đáp lại. Nếu là người Zulu thì hiểu được họ nói gì, nhưng không phải là người Zulu thì dù biết tiếng Zulu, cũng khó mà nghe ra được. Một số người da trắng bảo đó là ma thuật, nhưng không phải là ma thuật, chỉ là một nghệ thuật đạt tới mức hoàn hảo thôi. Đây là châu Phi, quê hương yêu dấu.
- Thưa Umfundisi, họ la với nhau rằng Umfundisi đã về đó.
- Tôi có nghe, em.
- Họ mừng lắm Umfundisi.
Phải, họ mừng thật. Từ những căn chòi ở hai bên đường họ bước ra, chạy xuống đồi trong đêm tối. Bọn con trai gọi nhau, phát lên một tiếng kêu run run kì dị rất quen tai ở miền này.
- Thưa Umfundisi, đã về.
- Thưa Umfundisi, chúng con cảm ơn Umfundisi đã về.
- Thưa Umfundisi, Umfundisi đi vắng lâu quá.
Một em gái la lớn:
- A, có một cô giáo mới.
Một đứa khác ngắt lời:
- Đồ ngu, cô ở đây lâu rồi mà.
Một em trai la: “ Umfundisi ” và chào theo kiểu thầy dạy ở trường….Em không đợi Kumalo đáp, quay đi và phát lên tiếng kêu run kì dị, như để gọi trời cao chứ không để gọi ai cả. Nó bước đi, chân chầm chậm nhún nhảy như một bước vũ, vui mà làm vậy, chứ chẳng vì ai cả.
Một ngọn đèn treo trước giáo đường, ngọn đèn người ta đốt mỗi khi làm lễ. Có nhiều người đàn bà trong giáo khu ngồi trên mặt đất đỏ dưới ngọn đèn; họ bận áo dài trắng và cột quanh cổ một chiếc khăn mùi xoa xanh lá cây. Khi nhóm người tới gần, họ đứng cả dậy và một người hát lên một bài Thánh ca, giọng trong và cao vút, không sao ngân dài ra được; còn những người kia hát theo, giọng thấp hơn để nâng đỡ cho giọng ngân ra; vài người đàn ông cũng hợp xướng giọng trầm hơn và như vậy mới đúng. Kumalo lột nón ra, và cùng với bà vợ và người thân tín hát theo, trong khi thiếu nữ đứng ngây người ra nghe, và nhìn. Đó là bài Tạ ơn Thượng Đế: con người nhớ tới Thượng Đế, quỳ trước Thượng Đế và cảm ơn lòng nhân từ vô biên của Ngài. Nó vang lên trong miền đồi đỏ và trụi, trên những cánh đồng đỏ và trụi của bộ lạc đã tan tác.
Giọng hát đầy tình thương, lòng khiêm cung, lòng mang ơn và những con người chất phác khiêm cung đó trút tất cả tâm hồn của họ trong tiếng hát.
Và Kumalo cần phải cầu nguyện, ông cầu nguyện:
“ Thưa Tixo, chúng con cảm ơn lòng nhân từ vô biên của Ngài. Chúng con cảm ơn Ngài vì đã được yên ổn về đây. Chúng con cảm ơn Ngài vì được bạn bè, họ hàng quý mến. Chúng con cảm ơn lòng nhân từ của Ngài.
“ Thưa Tixo , chúng con van xin Tixo mưa xuống ”
Mọi người đều khấn Amen , vì họ đông quá, ông phải đợi cho họ khấn xong.
“ Xin Tixo mưa xuống. Chúng con van xin Tixo mưa xuống để chúng con cày ruộng, chúng con gieo lúa. Và nếu không có mưa thì xin Tixo che chở cho chúng con khỏi đói, khỏi chết, chúng con van lạy Tixo ”.
Tới đây mọi người lại khấn Amen , và ông lại phải đợi cho họ khấn xong. Được họ tiếp đón niềm nở, lòng ông phấn khởi, hết lo sợ và thành tâm cầu nguyện.
“ Xin Tixo phù hộ cho đứa nhỏ này sống vui vẻ ở Ndotsheni, mỗi ngày mỗi khôn lớn. Còn má nó….”
Giọng ông ngừng lại như không cầu nguyện thêm được nữa, nhưng ông rán khiêm cung mà khấn nho nhỏ:
“ Còn má nó…thì xin Tixo tha thứ cho tất cả các lỗi xưa ”
Một người đàn bà rên rỉ, ông nhận ra là một mụ lắm điều nhất nơi đó nên ông vội vàng cầu nguyện thêm:
“ Xin Tixo tha thứ cho hết thảy chúng con, vì chúng con đều có lỗi hết. Và xin Tixo phù hộ cho thiếu phụ này sống vui vẻ ở Ndotsheni, sanh đẻ ở đây, mọi sự như ý ”
Ông ngừng lại rồi dịu dàng khấn thêm:
“ Xin Tixo cho nó tìm được ở đây điều nó tìm, được như sở nguyện của nó ”.
Và đây là lời cầu nguyện khó khăn nhất, nhưng ông rán khiêm cung hơn nữa:
“ Và thưa Tixo , đứa con trai của con….”
Không ai rên rỉ cả. Mọi người đều im lặng, cả mụ lắm điều kia cũng im, trong khi ông tiếp tục cầu nguyện thì thầm:
“ Xin Tixo tha thứ cho tội lỗi của nó…”
Thế là xong, lời mà ông ngại nhất đã thốt ra được rồi. Ông biết rằng không phải ông, mà tất cả những người ở đây đã thốt lời đó ra. Ông bảo:
- Các con quỳ cả xuống.
Và họ quỳ xuống nền đất đỏ, trần. Ông đưa tay lên, cất cao giọng lên và một sức mạnh dâng lên trong con người già nua đau khổ đến đứt ruột đó, vì ông là một mục sư mà:
“ Xin Chúa phù hộ che chở các con, cho hào quang trên mặt Ngài toả lên các con, mà các con sẽ được an ổn từ nay cho tới mãi mãi. Ta cầu nguyện cho các con và người thân của các con được hưởng ân sủng của Chúa Ki Tô, tình thương của Thượng Đế, và sự dìu dắt của Thánh Linh từ nay cho tới mãi mãi, không lúc nào tuyệt. Amen ”
Họ đứng dậy và cô giáo mới cất tiếng hỏi:
- Chúng ta có nên hát bài Nkosi Sikelel’ iAfrika (2) không?
Cô giáo cũ nói:
- Bà con ở đây chưa biết điệu hát đó.
Cô giáo mới nói:
- Chúng tôi thường hát ở Pietermaritzburg. Ở đó ai cũng biết. Tại sao ở đây không dạy?
Cô giáo cũ nói:
- Đây không phải là Pietermaritzburg. Ở Trường bận nhiều việc quá.
Vì cô không ưa cô giáo mới, mà cũng vì cô xấu hổ rằng không biết bài hát Nkosi Sikelel’ iAfrika . Xin Thượng Đế che chở châu Phi.
Vâng, xin Thượng Đế phù hộ châu Phi, quê hương yêu dấu, xin Thượng Đế phù hộ chúng con khỏi sa xuống cái vực thăm thẳm của tội lỗi, xin Thượng Đế phù hộ chúng con khỏi sợ hãi mà dám cứu giúp mọi người. Xin Thượng Đế cứu hết thảy chúng con với.
Ôi, em trai kia, cất tiếng gọi đi, cái tiếng kêu kéo dài run run, nó vang lên trong miền đồi đó. Ôi, em trai kia, bước một bước vũ chầm chậm, bước vũ em thích nhảy đó. Cất tiếng gọi đi, vũ đi, trong khi em có thể gọi và vũ được, hỡi tuổi ngây thơ. Vì đây mới chỉ là khúc dạo, mới chỉ là bước đầu. Còn nhiều chuyện kỳ dị rắc rối xen vào nữa do người lạ gây ra, những người em chưa hề nghe nói tới, sống ở những nơi em chưa được biết tới. Em sắp vào cuộc đời, em không sợ vì em chưa biết gì cả. Cất tiếng gọi đi, vũ đi. Ngay bây giờ đi, trong khi em còn có thể gọi và vũ được.
Mọi người ra về rồi, Kumalo quay lại nói với người thân tín đi đón ông lúc nãy:
- Có nhiều điều tôi phải nói với em. Ngay bây giờ tôi phải nói điều này trước đã, còn những điều khác sẽ nói sau. Cô em gái tôi, cô Gertrude đáng lẽ cùng về với bọn tôi. Chúng tôi ở chung một nhà, mọi sự sắp đặt xong rồi. Nhưng khi tôi vô đánh thức cô ấy dậy ra xe, thì cô ấy đã bỏ đi rồi.
- Tội nghiệp, Umfundisi!
- Và con trai tôi bị xử giảo. May ra nó có thể được ân xá. Khi quyết định xong, người ta sẽ cho tôi hay ngay.
- Tội nghiệp, Umfundisi!
- Em có thể báo tin cho các bà con hay, người này lại báo tin cho người khác. Chuyện đó không thể dấu ai được. Vậy nên cho mọi người hay đi.
- Thưa Umfundis, tôi sẽ cho bà con hay.
- Tôi không biết tôi có nên ở lại đây không?
- Tại sao vậy, Umfundis?
Kumalo chua chát đáp:
- Có gì đâu. Em gái tôi thì bỏ con, con trai tôi thì giết người. Mặt mũi nào mà ở lại đây?
- Thưa Umfundis. Việc đó thì tùy ý Umfundisi. Nhưng tôi xin thưa rằng ở đây không có một người đàn ông, một người đàn bà nào muốn như vậy đâu. Không có một người đàn ông, một người đàn bà nào mà không buồn cho Umfundisi, không mừng rỡ khi thấy Umfundisi về. Làm sao Umfundisi không thấy được điều đó? Làm sao Umfundisi không thấy xúc động?
- Có, tôi đã thấy và đã xúc động. Sau khi chịu bao nhiêu nỗi đau khổ, điều đó an ủi tôi được đôi phần. Em ạ, tôi không muốn đi nơi khác đâu. Nhà cửa tôi ở đây. Tôi đã sống ở đây bao lâu rồi, lẽ nào tôi lại muốn đi nơi khác.
- Thưa phải, Umfundisi. Còn tôi, tôi không muốn xa Umfundisi. Vì xưa kia tôi ở trong cảnh tối tăm….
- Em làm cho tôi cảm động.
- Umfundisi có biết tin tức gì về đứa con gái của Sibeko không? Umfundisi còn nhớ chứ?
- Nhớ. Nó cũng bỏ đi mất nữa. Đi đâu, không ai biết. Họ bảo tôi họ không biết nó ở đâu.
Lòng ông bỗng lại chua chát, ông nói thêm:
- Họ còn bảo nó đi đâu thì cũng chẳng cần biết.
- Tội nghiệp, Umfundisi!
- Tôi cũng rầu lắm.
- Thế giới này toàn là những chuyện ưu tư khổ não.
- Đúng vậy.
- Nhưng Umfundisi tin tưởng được chứ?
- Tôi tin tưởng, và tôi đã được biết rằng đó là một bí mật. Đau đớn, khổ não là một bí mật. Lòng nhân từ và tình thương là một bí mật. Nhưng tôi biết rằng đau đớn khổ não có thể bù đắp bằng tình thương. Nhờ có nhà tôi, có em, có tất cả những bà con tiếp đón tôi ở đây, có đứa con dâu tôi, nó được ở Ndotsheni này với chúng ta, nhờ những người đó mà trong khi đau khổ tôi vẫn còn tin tưởng được.
- Thưa Umfundisi, tôi nghĩ rằng một người theo đạo Ki Tô không bao giờ được thoát cảnh đau khổ. Vì đức Chúa của chúng ta đã đau khổ. Và tôi bắt đầu tin rằng Ngài đau khổ không phải để cứu chúng ta khỏi bị đau khổ mà để dạy chúng ta chịu đựng sự đau khổ. Vì Ngài biết rằng hễ sống thì phải đau khổ.
Kumalo vui vẻ nhìn người thân tín đó, bảo:
- Em có tài thuyết giáo.
Người đó đưa hai bàn tay chai cứng ra:
- Tôi mà có vẻ là nhà thuyết giáo ư?
Kumalo cười:
- Tôi nhìn tấm lòng của em chứ đâu có nhìn bàn tay em. Xin cảm ơn em đã giúp đỡ tôi.
- Có việc gì giúp đỡ Umfundisi được, tôi xin tận tâm. Umfundisi ở lại mạnh giỏi.
- Em về mạnh giỏi. Nhưng em về lối nào đây?
- Tôi sẽ ghé nhà Sibeko. Tôi hứa với anh ấy hễ được tin thì cho hay liền.
Kumalo trầm ngâm bước về căn nhà nhỏ của ông. Bỗng ông quay lại, gọi:
- Tôi cần phải giảng thêm cho em nghe. Chính cô em gái ông uSmith bảo rằng không biết nó đi đâu và nó đi đâu cũng chẳng cần biết. Nói bằng tiếng Anh. Và khi ông Jarvis dịch ra tiếng Zulu cho tôi nghe thì ông ấy bảo: “ Cô ấy không biết ” chứ không bảo rằng cô ấy không cần biết nó đi đâu. Lời sau đó, ông ta không nói ra.
- Tôi hiểu Umfundisi.
- Em đi mạnh giỏi.
- Umfundisi ở lại mạnh giỏi.
Kumalo quay lại nhìn lần nữa rồi mới vô nhà. Bà vợ và nàng dâu đương ngồi ăn.
Ông hỏi:
- Đứa cháu đâu?
- Nó ngủ rồi mình. Mình ở lại nói chuyện lâu quá nhỉ.
- Ừ, có nhiều chuyện cần nói.
- Mình có tắt đèn đi đấy không?
- Để cho nó cháy thêm một lát nữa.
- Giáo đường có nhiều tiền như vậy ư?
Ông mỉm cười với bà đáp:
- Đêm nay là một đêm đặc biệt mà.
Ông đau khổ cau mày lại, hiểu vợ đương lo nghĩ gì, rồi bảo:
- Anh đi tắt nó ngay bây giờ đây.
- Mình để nó cháy thêm một lát nữa. Mình ăn xong rồi hãy tắt.
- Phải đấy. Để cho nó cháy vì những chuyện xui xảy ra ở đây, rồi sẽ cho nó tắt cùng với những chuyện buồn xảy ra ở chỗ khác.
Ông đặt bàn tay lên đầu thiếu nữ:
- Con ăn no chưa?
Nàng mỉm cười ngó ông:
- Thưa, con ăn no rồi.
- Vậy thì đi nghỉ đi.
- Thưa ba vâng.
Nàng đứng dậy:
- Con chúc ba an giấc, chúc má an giấc.
- Để má chỉ phòng cho con.
Khi bà trở ra thì Kumalo đương ngó cuốn sổ trương mục ở bưu điện. Ông chìa cuốn sổ cho vợ, bảo:
- Có tiền đây nè, còn nhiều hơn số tiền mà vợ chồng mình trước kia dành dụm được nữa.
Bà mở sổ ra, thấy số tiền, reo lên:
- Của chúng mình đấy à?
- Phải, của chúng mình đấy. Một người nhân từ nhất đời, anh chưa thấy, đã tặng anh đấy.
- Vậy mình may áo mới đi, áo đen mới, cổ cồn mới, và mua một cái nón mới.
- Còn mình nữa, cũng phải may thêm áo. À, lại còn cái lò nữa. Ngồi xuống đây, anh kể cho mình nghe về ông Msimangu và nhiều chuyện khác nữa.
Bà run rẩy ngồi xuống:
- Em nghe đây.
Chú thích:
1. Có nghĩa là Phu nhân.
2. Bài Thánh ca này nguyên ở trong một cuốn sách mà nhan đề có nghĩa là: Xin Thượng Đế cứu Châu Phi. Sau thanh Quốc ca của dân da đen.