watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Khúc tráng ca Thành cổ Quảng Trị-Chương III: Vẫn thơ khúc tráng ca. - tác giả Biên soạn chính: Trần Lê An Biên soạn chính: Trần Lê An

Biên soạn chính: Trần Lê An

Chương III: Vẫn thơ khúc tráng ca.

Tác giả: Biên soạn chính: Trần Lê An

Ga quán Hành

TRẦN LÊ AN

Chốn này xưa làm chi có sân ga

Cơn gió Lào thổi tung mù cát bụi

Cái nóng hầm hầm muốn thiêu cháy trụi

Mặt đất rùng mình trong mỗi đợt bom.



Giữa điêu tàn của cuộc chiến tranh

Chuyện ngày xưa như là không có thật

Người bẻ ghi chui lên từ lòng đất

Chẳng có sân ga, chẳng thấy một tiếng chim.



Những đoàn tàu xuyên thủng cả trời đêm

Bỗng hiện ra như là cổ tích

Những binh đoàn tiếp những binh đoàn

Nối theo nhau đi vào chiến dịch.



Những chàng trai tuổi trang giấy thếp

Những chiếc áo xanh phơi phới tinh nguyên

Đem cả tuổi xuân ném vào trận đánh

Những thiên thần tỏa sáng trong đêm.



Quán hành quân - Quán dừng chân giây lát

Chẳng có sân ga... Pháo sáng cứ bừng lên

Bom nổ - kính rung - Lính xuống tàu đi tiếp

Nhằm phương Nam hát khúc quân hành...





Giật mình súng đã tràn tay

Bàng hoàng biết tuổi thơ không về nữa

Lặng lẽ đi qua những thành phố cháy

Tàn tro bay đỏ quạch trước đình làng

Giật mình ngẫm may mà con có mặt

Để khỏi cúi đầu khi nghe chuyện ngày xưa





Quảng Trị yêu thương



Bữa con xa nhà trời xối xả mưa

Quanh mâm cơm chia tay cả nhà ngồi xổm

Nước ngoài sân tràn vào lênh láng

Mấy khuôn mặt âm thầm quây quanh chiếc nồi rang

Lặng lẽ đè lên nhau

Những vết đũa dọc ngang

Quệt vào lòng nồi rang mẹ chưng khô nước mắm

Nước mắm kho vừa khét vừa đắng

Đứa em út con cứ khen ngon vội vội vàng vàng đưa lên

miệng mút

Mắt tròn đen len lén nhìn xuống đất

Canh chừng nước mưa ập vào lôi mất cái nồi rang



Thiếu bát canh rau dền

Nên tiếng cười của đàn con không bị lút

Mong cho mẹ vui gắng đợi lửa tàn

Mẹ lụi cụi chạy vào trong bếp

Con cúi đầu nuốt vội tiếng khóc than

Cái nấc nghẹn

Chỉ riêng mình mẹ thấy

Con đi theo bạn theo bầy

Họng súng hứng đầy bụi khói

Những đứa con trai vai gồng sông núi

Nhìn vầng trăng lại nhớ mảnh quê gầy

Đất dọc chiến hào đỏ tươi đâu phải ruộng mới cày

Sao đồng đội con cứ chăng dây cắm đầu đạn làm hàng

lúa cấy

Những hàng lúa - đạn - đồng không run theo gió

Chỉ có khói bom bay là là như ai đang vãi tro

Khi lúa lốp sợ nhỡ thì con gái

Đất ruộng làng ta cũng đã mỡ màu

Gió ở chiến trường chẳng ngừng lâu

Hắt ngược vào mắt con cay xè nhung nhớ

Đạn bắn đi rồi

Vỏ đạn gỉ xanh

Rải rác những mảnh đời lẫn vào sắc cỏ



Con run run vuốt xuôi đôi mắt

Đồng đội con chưa kịp nhắm

Bỗng chạm phải

Một vệt sáng long lanh nóng hổi

Nước mắt của chính mình bỏng rát trên môi

Cái khoảng trống giữa hai trận đánh

Thường được lấp đầy như thế mẹ ơi!

Bao nhiêu khoảng trống qua rồi

Bao nhiêu đồng đội con nằm lại

Màu lúa vàng rưng rưng

Nơi nào suối sông chưa tìm đến

Đồng đội con ở lại

Tuổi đời mới ướm thời trai

Những phần mộ quặn rừng già hoang dại

Như sóng chợt ngừng

Những cơn sóng gãy

Không kịp về biển

Cuồn cuộn rừng xanh rú đỏ thâm nghiêm

Những lượn sóng ngầm thấm vào lòng đất

Ngày một ngày hai

Về lại quê làng

Mướt mịn phù sa đắp bồi bến bãi

Mượt mà đưa câu hát sang ngang



Đêm Trường Sơn nhập nhoà pháo sáng

Con máy mắt liên hồi

Chắc mẹ thầm nhắc gọi

Xin mẹ đừng lang thang ra ngoài ngõ

Đừng tựa lưng thêm vào nơi mẹ đứng chờ con

Cái thân cau bây giờ nhẵn bóng

Loáng trơn

Những tiếng thở dài

Có phải cây cau vừa trổ gai

Níu mẹ lại khỏi ngã xoài xuống đất

Chiến tranh đi qua bàn tay lật

Hắt vào mắt mẹ

Bóng tàn nhang

Con ruổi rong dọc những đại ngàn

Vách đá rừng Lào hao hao dáng mẹ



Đá mồ côi

Đá cũng mồ côi như lũ trẻ

Nên gió mênh mang thổi lộng tháng ngày

Đất nước mình đắng cay

Con xa nhà mẹ già thêm nhiều lắm

Cái sạp nứa gãy nan



Mẹ lui hui ngồi dặm

Sờ lên dấu chân con nhảy nhót ngày nào

Mẹ cứ vuốt ngón tay khô gầy lên vết chân con ngày ấy

Lên cái giát giường để dằm xóc vào tay

Những tháng năm tươi nguyên màu máu chảy

Thổi suốt đời con ngọn gió trong lành

Như vỉa quặng ẩn mình dưới đất

Chút vốn liếng dụm dành

Trầm tích của trái tim

Cho con biết cười biết khóc

Biết yêu người mình yêu như chính yêu mình

Biết bạn bè không có nhiều lắm đâu dẫu mặt đất ngày càng

đông chật

Những gì đã có

Cố đừng để mất



Biết sự thật không hồn nhiên như cây cỏ

Cỏ bây giờ dần đã hiếm hoi

Ghét thì cho chơi

Thương thì cho roi

Lời thương mến lại nằm trong đá tảng

Đá tảng cô đơn

Giọt lệ vụng về.

(Trích chương 6 - Trường ca "Trầm Tích")



Dáng ta đứng

ĐÀO CHÍ THÀNH

Mặt trời ngang vai

Bởi ta trên núi

Dáng ta rất nổi

Giữa triền sóng núi mênh mông

Dáng dòng sông

Lượn vòng uốn khúc

Dưới chân đồi

Ta đứng

Oai hùng

Dáng ung dung

Đưa mắt nhìn bốn hướng.

Chốt Đá Đứng, ven bờ Thạch Hãn
thời kỳ giáp ranh năm 1973



Quảng Trị và tôi

Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha

Năm nay, tròn 35 năm ngày thống nhất đất nước. Song với những người lính sinh viên và giáo viên đại học nhập ngũ ngày 6.9.1971, thì niềm vui giải phóng đã đến từ tháng tư năm 1972 ở Quảng Trị. Họ người thì là lính chiến đấu ở sư đoàn 325. Người thì ở những đơn vị hậu cần, thông tin, công binh phục vụ chiến dịch. Vui nhất là họ đã tụ quần với nhau những ngày đầu giải phóng Quảng Trị. Lúc ấy, tôi bắt đầu tập làm thơ. Bây giờ giở lại cuốn sổ tay ngày đó, mới nhớ rằng mình đã từng làm một bài thơ ngày Quảng Trị giải phóng. Bài thơ tên là “Ngọn lửa mùa hè”. Bài thơ của một người mới tập làm thơ thật nhiều “lỗi kỹ thuật”, nó thực sự chỉ là một trang nhật ký bằng thơ giữa không gian nồng khét khói súng.



Ngọn lửa mùa hè

Anh đi giữa trưa hè thị xã

Nắng biển mặn mà hòa lẫn sắc lá xanh

Màu áo xanh hòa lẫn sắc lá xanh

Đường phố ngập tràn màu xanh bóng nắng



Quê hương ơi! Bao tháng ngày cay đắng

26 năm đã tìm được một ngày

Anh lại trở về từ một buổi chia tay

Chẳng nói lên lời, lệ cười trên mí mắt



Mới hôm nao phố phường còn xám ngắt

Đời ngậm ngùi, nhức nhối vết giày đinh

Đạp lên những chi khu, căn cứ địch

Anh mang nắng về gọi đất mẹ hồi sinh



Nắng trưa hè ngời thép súng lung linh

Nắng tỏa từ ngực anh ban trưa thêm sắc lửa

Nắng tìm về tận ngõ sâu, phố đổ

Giữa bộn bề anh có thấy tương lai



Lửa bén bùng đỏ thắm sắc cờ bay,

Từ Cổ Thành lửa chia về mọi ngả

Mang hồn lửa cầu vồng từ ngọn súng tay ai

Lửa học trò phượng nghiêng nghiêng cửa sổ



Lửa tình yêu nhóm nhen từ lửa hoa

Cùng lửa cờ múa reo cùng lửa nắng

Bừng cháy giữa miền đất đai chiến thắng

Ngọn lửa mùa hè ấp ủ tự bao năm



Và trưa nay đang cùng anh hành quân...



Bài thơ đầy lạc quan. Nhưng sự thực của “Mùa hè đỏ lửa” diễn ra sau đó khốc liệt đến nỗi không thể tưởng tượng nổi. Quảng Trị thành nơi tranh chấp đẫm máu giữa hai bên liên quan tới Hội Nghị Paris đang đi tới quyết định ngừng bắn, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và cuối cùng thì sông Thạch Hãn trở thành giới tuyến tạm thời từ năm 1972 đến năm 1975.



Sau ngày thống nhất đất nước, đầu năm 1977, đơn vị tôi được cử ra Quảng Trị để xây dựng đường dây quân sự nối thông từ Quảng Bình đến Phú Bài (Huế). Những ngày mưa ẩm ướt của mùa xuân 1977, tôi mới có dịp chứng kiến lại những tàn phá, đổ nát của “Mùa hè đỏ lửa” 1972 mà khi ấy, hầu như vẫn còn nguyên hiện trạng giữa một cuộc sống mới bắt đầu nhú mầm hồi sinh. Những chiều lang thang bên bờ sông Thạch Hãn thật buồn. Luôn luôn có cảm giác bước chân mình đang chạm vào anh linh những người đã hy sinh ở Cổ Thành nhiều đến mức không sao đếm xiết. Vậy là bài thơ “Nhớ nắng” bật ra như một lời tưởng niệm. “Nhớ nắng” đã từng được in trên tạp chí “Văn nghệ Bình – Trị - Thiên”.



Không có lời nào rõ bằng cái nhìn

Bức tường đạn găm lỗ chỗ

Đất cát dưới chân nắng nằm mắt mở

Vết chém thân cây nhựa đọng thân



Vẫn còn đây Quảng Trị Cổ Thành

Trời bâng khuâng mây bạc

Gạch vụn ngổn ngang ngổn ngang đổ nát

Hố bom hun hút vết thương



Đo trên bản đồ hơn cây số vuông

Mà gặp ở đây tan tành bao miền dất

Nhưng nơi nào? Nơi nào đau nhất

Để suốt đời tôi không gặp lại Cổ Thành



Để suốt đời tôi không gặp lại các anh

Một mùa hè nung nấu

Mùa hè ấy gạch chảy ra như máu

Máu các anh che chở những căn nhà



Em cười chi? Em xếp gạch đằng xa

Em ghép lại mặt trời mùa hè ấy

Hay rưng rưng tay nâng dòng máu chảy

Có nghe dĩ vãng dội về?

Dĩ vãng trẻ măng, dĩ vãng binh nhì...

Kỷ niệm Quảng Trị của tôi là một tấm chăn dù. Ra Hà Nội đã lâu mà tôi vẫn đắp tấm chăn dù đó. Đến năm 1992, nhẩm tính đã 20 năm chiến dịch Quảng Trị, tôi lại khai bút bằng một bài thơ nhiều nỗi niềm mang tên là “Bụi”.



Bụi

Cuộc chiến tranh không chịu ra khỏi tôi

Như bụi trong nhà chẳng chổi nào quét sạch

Cả em nữa tận cùng ngóc ngách

Cứ chợt khi nhoi nhói buồn thương



Mỗi sớm ăn bát cơm nguội ngày thường

Gặp bữa phụ trước giờ chiến đấu

Sao hờn giận cứ quẩn quanh như máu

Giấc bên em cả giấc không em



Ôi thanh xuân cỏ dại ngạt men

Mọc lang thang khắp thời gian xứ sở

Tôi không tiếc nhưng bây giờ tàn úa

Xin lãng quên hay đồ cổ cứ bày



Lại qua nhanh một năm cũ lên mây

Còn trĩu nặng tấm chăn dù Quảng Trị

Cuộc chiến tranh vẫn bám đầy thân thể

Như thịt da sốt rét những u mê

Cũng năm 1992, không thể chịu ngồi yên khi nỗi đau mất mát ở Quảng Trị cứ nhay nhứt trong lòng, tôi rủ nhà văn Hòa Vang, cùng nhà biên kịch Trần Trọng Hiền và nhà quay phim Phạm Đăng Minh vào Quảng Trị để làm một phim tài liệu mang tên “Quảng Trị – 20 năm và một khúc tưởng niệm”. Phim đã được chiếu rộng rãi ở Quảng Trị. Lời bình của phim thì in trên tạp chí “Cửa Việt” số 17 năm 1992. Trong lời bình, Quảng Trị đã được khái quát hóa hơn qua bài thơ “Vết sẹo câm”.



Vết sẹo câm

Khi hy sinh lớn quá sự hy sinh

Dường như không ai kể nhiều nữa

Cồn cát nắng lặng trắng từng tâm sự

Tháy máu xương còn trên đất tầng tầng



Khi cái chết nhẹ như lẽ thường,

Quý biết mấy sự sống từng khoảnh khắc

Cứ đi vòng Cổ Thành đổ nát

Nghe 81 ngày xưa bật hát dưới chân



Mảnh đát này kẻ thù từng hủy diệt

Còn chúng ta cũng đã từng lãng quên

Hai mươi năm khôn thiêng về da diết

Chúng ta đã nhìn ra Quảng Trị. Và tin



Không bao giờ hoài phí sự hy sinh

Rằng cái chết bắt đầu cho sự sống

Rằng Quảng Trị vẫn là niềm xúc động

Trên hành tinh một vết sẹo câm

Sang thế kỷ mới, tôi tổ chức một tập thơ để vĩnh chào thế kỷ cũ mang tên “Biệt trăm năm” với 5 phần biệt “Biệt cố sử”, “Biệt thế sự”, “Biệt dị nhân”, “Biệt vãng xứ”, “Biệt thời truân”. Trong phần “Biệt cố sử”, tôi lại viết về mùa hè Quảng Trị 1972 với cái tên “Mùa hạ diễm”.



Mùa hạ diễm

Thành Cổ nát tan cùng hàng phượng dọc đường Nguyễn Hoàng mà em vẫn hát “Diễm xưa”



Hương ơi! Áo dài trắng cây ghi ta bé bỏng

Chai la – de đầu tiên anh uống cùng đá lạnh

Tanh nồng mùi máu mùi xương



Em có còn trên đời không, hay đã nát tan cùng những mảnh tường Bồ Đề

Hay đã chết sập hầm trước tòa nhà tỉnh trưởng

Cái giọng khàn khàn giai điệu lạ lẫm

Đã hòa em vào trong ký ức của anh



Hòa cả mùa hạ 72 cùng đồng đội trẻ măng,

Những binh nhì hy sinh ngày lính mới

Mưa vẫn hay mưa.. nắm cơm thiu vắt vội

Diễm xưa... Quảng Trị xưa... Mùa hạ xưa... Còn mất đến bao giờ?



Vậy đấy, Quảng Trị và tôi là vậy đấy. Là 1972 hồn nhiên, 1977 suy tư, 1992 trăn trở, 2005 trắc ẩn./.
Khúc tráng ca Thành cổ Quảng Trị
PHỤ LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I – Tình hình tác chiến
- 2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
Chương II: Những chuyện kể về khúc tráng ca Quảng Trị
- 2 -
- 3 -
- 4 -
- 5 -
- 6 -
- 7 -
- 8 -
- 9 -
- 10 -
Chương III: Vẫn thơ khúc tráng ca.