Chương 12
Tác giả: Jamyang Norbu
Vào khoảng giữa trưa cái ngày thứ tư ấy, chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi và ăn uống. Trong khi Kintup cho đàn súc vật ăn thì Jamspel bận rộn với đống nồi niêu xoong chảo, còn Gàfuru bắt đầu nhóm lửa. Sherlock Holmes ngồi tựa vào một tảng đá phẳng lì dãi dầu mưa nắng mà hút tẩu thuốc của người Tarta với dáng trầm ngâm thanh thản của một nhà hiền triết. Tôi bước sang vệ đường bên kia. Xa xa phía dưới, dòng nước dào dạt của con sông Sutlej đang sùng sục không yên.
Con đường đất uốn lượn, nương theo dòng chảy khúc khuỷu của con sông. Ngược lên trên khoảng nửa cây số, phía trên con đường là một cây cầu hẹp bắc ngang qua sông, nơi dòng nước thắt lại chỉ còn chừng 20 mét bề ngang. Cây cầu đó thuộc loại mà người dàn miền núi gọi là sanga tức là cầu gỗ hay cầu lát ván gỗ, khác hằn với jhula có nghĩa là cầu dây. Trụ cầu ở bờ bên trái được làm bằng một tảng đá đơn độc nhỏ chênh vênh ra khỏi vách đá.
Lôi chiếc ống nhòm trá hình ra khỏi túi, tôi chiếu sang vách đá ở phía bờ sông bên kia, cố điều chỉnh tiêu cự chính xác để thu vào tầm nhìn toàn bộ chiều dài của khúc sông, ngoại trừ một con kền kền lẻ loi đang rỉa xác một con cừu chết, tôi chẳng phát hiện được điều gì đáng chú ý Nhưng như mấy người trong Bộ chúng tôi thường nói với nhau "người ta chẳng thấy được điều gì cả, trừ phi đã kiểm tra mọi thứ tới lần thứ hai,” tôi lại nang ống nhòm lên và bắt đầu quan sát thận trọng kỹ càng, vừa nói lầm bầm trong miệng suốt thời gian đó. Một thói quen chẳng giống ai, nhưng là cái mà tôi đã vô tình nhiễm phải sau nhiều năm sống trong cảnh phải cố gắng ghi vào ký ức tất cả những gì mà đôi mắt quan sát được.
"Ồ, cái gì thế nhỉ?” Tảng đá gì mà hình dáng đến là kỳ cục… giống một cái mũ cát xấu xí hơn bất cứ thứ gì. Trời đất ơi, đích thị là một chiếc mũ cát… làm thế quái nào nó lại lạc đến đó được Ủa, lạ chưa kìa! Có một cái đầu bên dưới vành mũ… để mình nhìn cho rõ coi nào. Ôi, mẹ kiếp cái núm điều chỉnh khi gió này! Chặt quá. Lurgan ơi là Lurgan ơi… À, tốt hơn rồi đấy Gì thế này? Gã mặt chồn sương? Ôi, trời đất quý thần ơi!”
Cái đầu biến mất sau một tảng đá, ngay lúc tôi chiếu ống nhòm vào chỗ đó, khiến tôi băn khoăn không dám chắc vừa nãy mình có nhìn thấy nó hay không. Tôi vội quay lại chỗ nghỉ chân kể cho Sherlock Holmes nghe những gì vừa nhìn thấy.
"Hừm,” ông cau mày nói, "cái gã này bắt đầu trở thành một con chim báo bão quá thường xuyên rồi đấy. Chúng ta phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức. Nó đã bị phát hiện".
“Phải, thưa ngài. Tôi sẽ chuẩn bị khởi hành ngay. Này, Kintup, đến đây nào!”
Tôi giải thích tình huống cho Kintup và mấy người kia.
Kintup (chàng trai cử khôi ấy), đã trải qua nhiều cuộc phiêu lưu lớn nhỏ trong đời nên luôn có thái độ điềm tĩnh và bình thản trước những sự việc bất ngờ không được chờ đón như thế này.
Ngay lập tức anh ta bắt tay chuẩn bị cho cuộc ra đi vội vã. Những người còn lại noi theo tấm gương đáng quý đó. Nhưng ngay khi con la cuối cùng được chất hàng lên lưng xong thì Gaffuru, một người lai vừa hét to vừa chỉ xuống con đường bên dưới mà chúng tôi đã vượt qua cách đây không lâu.
"Ôi thưa ngài! Các kỵ sĩ kìa!”
Cách đó khoảng một dặm ở khúc cuối con đường, một đám bụi mù mịt nhanh chóng bóc về phía chúng tôi. Tôi giật phắt chiếc ống nhòm đặc biệt, giơ lên ngang mắt và nhìn muốn nổ con ngươi về phía một tốp kỵ sĩ trông chẳng khác gì những tên thổ phi hung bạo nhất, vũ trang đến tận răng, đang quất nhưng con ngựa lông xù một cách hung hăng, hiếu chiến.
“Nhìn kìa, ông Holmes!" tôi kêu lên và trao cho ông chiếc ống nhòm. "Chúng ta đang ở trong tình huống nguy hiểm đến tính mạng".
“Xem ra mọi việc có về đúng như thế thật,” ông trả lời không hề nao núng, rồi trả lại cho tôi chiếc ống nhòm và đến gần một trong những con la, lôi ra một khẩu súng trường Martini-Henry mà chúng tôi đã giấu, pro re nata (1), dưới những chiếc sọt của nó.
Sherlock Holmes vội vã nạp đạn.
“Hãy mau mau dẫn mấy con la này đi ngược lên con đường mòn kia. Nếu cố băng qua được cây cầu trước khi chúng đến, ta sẽ có một tia hy vọng mong manh ngăn không cho chúng băng qua sông”.
Tôi hiểu ngay rằng kế hoạch của Sherlock Holmes là việc làm khả thi duy nhất. Phải, chúng tôi cách cây cầu chừng 600 mét hoặc xa hơn nữa và lũ la sẽ khiến cả đoàn bị chậm lại một chút, trong khi đó đám cướp cạn sẽ nhanh chóng bắt kịp chúng tôi. Chỉ có cách duy nhất là phải liều mạng.
"Này đi mau chúng mày".
Kintup, Jamspel và Gaffuru lùa đám súc vật thồ lên con đường mòn trong khi thám tử Sherlock Holmes, với khẩu súng trường hếch lên trời, và tôi với khẩu súng lục mạ kền đi sau tập hậu, cùng giật dây cương ngựa lao tới. Con đường ở khúc này như cắt sát vào bên hông một vách đá dựng đứng gần đó rồi khúc khuỷu uốn lượn theo đường đi ngoắt ngoéo của con sông hung dữ cách mặt đường khoảng 50 mét ở bên dưới.
Chúng tôi chưa đi xa được hơn 200 mét thì đột nhiên nghe "đoàng, đoàng” tiếng nổ danh gọn của một khẩu súng trường đang khai hoả bắn tội từ bên kia con sông khiến cho vách đá bên cạnh chúng tôi cày tung bụi và bẳn lên những mảnh vụn. Lũ ngựa lồng lên vì hoảng sợ.
"Trời đất!”, Holmes hét lên, "Chúng còn có một số tay xạ thủ bên kia sông. Cẩn thận đày Hurree".
Gần như ngay sau khi Sherlock Holmes thốt những lời canh cáo thì một viên đạn đã cày một đường bên hông con ngựa lùn đáng thương của tôi, khiến nó trượt đi vài bước đến mép đường rồi đổ sụp xuống với một tiếng hí vang rền thảm hại. Bản thân tôi cũng ngã xuống đất, nhục nhã như một trái bóng vô dụng và chắc chắn tôi cũng sẽ lăn tròn khỏi mặt dường như quả bóng, rơi khỏi vách đá, lao xuống dòng nước sôi sục dưới kia nếu Sherlock Holmes không nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa lao đến giúp tôi.
Thật chỉ trong đường tơ kẽ tóc, thân hình to béo nặng nê của tôi vừa lăn đến mép vực thì Holmes đã kịp thời chộp được vào cổ áo và lôi tôi lên khỏi vách đá dựng dựng.
"Đội ơn ngài… vì sự giúp đỡ kịp thời này… thưa ngài," tôi vừa thở hổn hển vừa nói.
"Không có chi,” ông đáp trong lúc chúng tôi vội va trườn về núp sau một tảng đá lớn. “Thật tình tôi sẽ không chịu đựng nổi nếu để mất đi một người dẫn đường vô giá như ông vào lúc mới bắt đầu cuộc hành trình”.
Thêm nhiều khẩu súng trường khác chĩa về chúng tôi.
Sherlock Holmes bắn trả vài phát nhưng không may con ngựa lùn của ông vì sợ tiếng súng đã lồng lên chạy mất. Thế là giờ đây cả hai chúng tôi đều không có ngựa. Đám thổ phỉ tiến đến rất gần. Một số tên nhảy xuống ngựa, bắn rất rất về phía chúng tôi. Thật là một tình huống nghìn cân treo sợi tóc - tôi xin thề với quý độc giả thân mến rằng những viên đạn chết người vãi ra xung quanh chúng tôi như một bầy ong vò vẻ đang nổi giận khi có kẻ chọc vào tổ chúng. Nhờ có vách đá, các ụ đá và những lùm cây xung quanh cùng những động tác xoay xở khéo léo sau các tấm lá chắn tự nhiên này và nhất là nhờ ở tài bắn súng của Sherlock Holmes - tôi cho rằng chẳng mấy ai trên đời này có khả năng thiện xạ như chế - không những chúng tôi không bị thương tích nào đáng kể mà còn làm nhụt bớt sự hung hăng điên cuồng của những kẻ tấn công liều mạng.
Trước mặt chúng tôi, con đường đánh một vòng của đột ngột, ngăn không cho ai nhìn thấy cây cầu. Tôi chỉ còn biết hy vọng những người cỏn lại trong đoàn đã đưa lũ súc vật băng qua sông một cách an toàn.
"Bọn phá hoại đang đến rất gần, thưa ngài," tôi hét lớn át cả tiếng nổ đì đoàng của một loạt súng ngắn từ phía kẻ thù.
"Tôi thấy rồi,” ông trả lời, chăm chú nạp lại đạn theo đúng quy tắc, “Chúng ta phải rời khỏi đây trước khi chúng đến đủ gần để làm thịt chúng ta. Nào, nghe thật kỹ nhé, Hurree. Ngay khi tôi bắt đầu bắn, ông hãy bật dậy thật nhanh và chạy hết sức bình sinh. Dừng dừng lại trước khi ông đến được khúc quanh. Nào, ông đã sẵn sàng chưa? Một, hai, ba!”
Ông Holmes bắt đầu trả đũa bằng một loạt súng rất rất và hiểm hóc khiến bọn địch phải co vòi, lom khom cúi đầu thấp xuống tránh đạn. Tử phía sau một tảng đá, tôi bật dậy, nổ một vài phát súng ngắn và lao lên con đường mòn - đôi chân khỉ gió của tôi gắng sức guồng nhanh liếc mức có thể. Sherlock Holmes bắn thêm một vài phát nữa rồi cũng chạy theo sau.
Hàng loạt đạn chết người rít lên chiu chíu và đồng loạt nổ vang trời trong lúc tôi chạy thục mạng đến bên bờ vách đá dựng đứng. Đối với tôi đó là một cuộc trốn chạy khốn khổ chậm chạp và dường như không bao giờ kết thúc nhưng cuối cùng tôi cũng đến được khúc quanh và, với sự bùng nổ của nguồn năng lượng cuối cùng, tôi phóng mình qua khúc quanh sống còn đó một cách thần tình.
Tôi vừa toan thở phào nhẹ nhõm vì thoát chết trong gang tấc thì bắt gặp ngay một cảnh tượng bất ngờ, gây sức, làm cho tôi phải từ bỏ ngay lập tức mọi hy vọng vừa nhen lên về mạng sống mới giành giật được.
Không hề mủi lòng, như chính thần Chết, gã đàn ông có khuôn mặt chồn sương đứng chình ình giữa con đường hẹp.
Đập ngay vào mắt tôi là một khẩu súng lục tự động hiệu Mauser nằm chắc trong tay phải hắn và dường như đang chĩa thẳng vào người tôi.
"Thiên thần và các giáo sĩ của ngài bảo vệ chúng ta”.
Phía sau hắn, mà chỉ đến lúc này tôi mới nhìn thấy, là một đám du thủ, du thực Tâm Tạng khoác một vẻ man rợ nhất mà tôi từng thấy. Bọn chúng đã bày binh bố trận đâu vào đấy. Người của chúng được bố trí trên đường và rải rác trên sườn đồi, ẩn nấp sau các tảng đá và lùm cây với tất cả các loại vũ khí: súng trường, súng lục, súng hoả mai và cả súng thần công đã nạp đạn sẵn, trong tư thế sẵn sàng khai hoả. Sherlock Holmes phóng tử khúc quanh ra, suýt nữa thì đâm bổ vào tôi và cũng đứng trước cái ngõ cụt chết chóc này.
"Cái quái…" ông thốt lên, nhưng khi ý thức được tình huống nghiêm trọng, ông nhanh chóng trấn tĩnh lại một cách đáng khâm phục. Với đôi tay điềm tĩnh, ông đốt một tẩu tlluốc, bình thản nhả khói lên trời như thể trên đời này chẳng có chuyện gì đáng quan tâm hơn việc hút một điếu thuốc cho đúng cách. Tên mặt chồn sương nâng súng lên ngắm bắn. Mắt tôi nhìn ngón tay trò của hắn đặt vào lẫy cò và trong óc tôi vụt hiện lên hình ảnh ngôi làng nhỏ xanh bóng cọ ở hạ lưu sỏng Bengal nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Nhưng giọt lệ từ từ dâng lên trong mắt tôi.
Một tiếng nổ lớn kéo theo hàng tràng những tiếng nổ đanh gọn của một loạt súng trường và súng hoá mai. Tôi tưởng đâu mình đã chết thật rồi vì mọi thứ xung quanh tôi chao đảo, lộn vòng, tối tăm và lẫn lộn vào nhau. Nhưng khi mở mắt, tôi thấy mình vẫn đang đứng, và vẫn còn nguyên cái đầu trên cổ.
Sherlock Holmes đứng bên cạnh tôi, thở ra một làn khói thuốc xám nhạt. Gã đàn ông có khuôn mặt chồn sương và người của hắn vẫn dừng phía trước chúng tôi, khói bốc lên từ các nòng súng. Tôi quay người lại.
Con đường phía sau rải rác những con ngựa nằm chúng bốn vó lên trời - ngựa của những tên cướp hung dữ đã cố gắng giết chết chúng tôi nhưng lại bị hạ đồng loạt bởi gã mặt chồn sương và đám người Tây Tạng của hắn, lúc chúng theo ông Holmes và tôi tới khúc của trong trận rượt đuổi nóng bỏng hẳn chúng đâu có ngờ là có một sự đón tiếp dữ dội như thế?
Một số tên cướp, nhất là những tên tụt lại phía sau, nhờ thế mà sống sót qua loạt đạn vừa rồi thì cuống cuồng tháo chạy một cách nhục nhã. Người có khuôn mặt chồn sương bắn thêm vài phát như để tiễn chúng lên đường, rồi cất vũ khí vào một bao súng bằng gỗ đeo bên hông. Ông ta tiến về phía chúng tôi và chìa tay cho ông Holmes.
“Ông Sigerson phải không ạ?
"Vâng".
"Còn tôi là Jacob Asterman. Tôi là người của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng, được cử đến để trao tận tay ông tấm hộ chiếu đặc biệt, cho phép ông và người của ông đến thăm Linh Thành Lhassa”.
Chú thích:
(1) pro re nata (tiếng Latinh): cho sự việc đã phát sinh.