watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Sherlock Holmes mất tích-Lời cảm ơn - tác giả Jamyang Norbu Jamyang Norbu

Jamyang Norbu

Lời cảm ơn

Tác giả: Jamyang Norbu

Mọi cuộc hành trình đều kết thúc ở màn thanh toán tiền nong: trả tiền cho phu khuân vác, người dắt la hoặc điều khiển lạc đà và thưởng cho nhân viên, đặc biệt là những người dẫn đường đáng tin cậy và tất nhiên là sirdar(1) người lãnh đạo vô giá và là nhà tổ chức của đoàn hành hương. Đó cũng là lúc bạn phải tìm ra những lời thích hợp để cám ơn và đền đáp cho sự đóng góp của mỗi người bạn đồng hành trung thành, ít nhất cũng là vì vô số những nghĩa cử đẹp đẽ và tinh thương yêu mà bạn đã nhận được trên mỗi chặng đường.

Đầu tiên và trên tất cả, tôi ý thức được món nợ lớn lao đối với hai nhà văn nổi tiếng nhất nước Anh thời Victoria là Arthur Conan Doyle và Rudyard Kipling, chính là nhờ những tác phẩm vĩ đại của họ mà cuốn sách cóp nhặt nhỏ nhoi của tôi mới được tượng hình thai nghén và nuôi dưỡng - cũng như cái cách mà một loài động vật được nhắc đến trong truyện đã làm.

Sáu mươi cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes được ghi chép lại dưới ngòi bút John H. Watson được hậu thế biết đến như là "bậc thầy" của “Các tác phẩm thiêng liêng”. Những tác phẩm viết về Sherlock Holmes cũng tương đương với "Kangyur" trong Phật giáo Tây Tạng, là cội nguồn quan trọng cho cảm hứng và cuộc tìm kiếm tri thức; không chỉ trên cơ sở lập luận mà còn cho văn phong và thậm chí bối cảnh cho tác phẩm của tôi.

Nhìn chúng bạn đọc đông đảo thường không nhận biết được giá trị tham khảo của những bài phê bình về Holmes vốn được xem như là “Tác phẩm thứ hai", mà trong Lạt Ma giáo có một từ tương đương rất hay là "Tengyur" - hoặc những lời phê bình. Rất nhiều những “Tác phẩm thứ hai” đã thảo luận về đề tài này, có giá trị nhất trong số đó là tác phẩm kinh điển của Vincent Starret, Cuộc sống riêng tư của Sherlock Holmes và tất nhiên là tác phẩm của William S. Baring-Gould, Sherlock Holmes ở đường Baker, ngoài ra còn có bộ sưu tập lớn có chú thích toàn bộ các câu chuyện về Sherlock Holmes. Tôi cũng nên nhắc đến hai nỗ lực từ rất sớm trong việc xây dựng lại khoảng thời gian Sherlock Holmes ở Tây Tạng, đó là cuốn Sherlock Holmes ở Tây Tạng của tác giả Richard Wincor và tác phẩm The Adamatine Sherlock Holmes của Hapi.

Hạt giống ý tưởng đầu tiên về tác phẩm mandala of Sherlock Holmes được gieo trong đầu tôi là của John Ball tiên sinh (một học giả Oxford đầy tham vọng) tác giả nổi tiếng của tiểu thuyết (Trong cái nóng nực ban đêm, v.v…, chủ tịch Hội đoàn Los Angeles Scion Society (về Sherlock Holmes) và Master Copper-Beech-Smith of the song of the Copper Beeches, ở Phiìadelphia, người trong một đêrn đông lạnh lẽo tại Dharamsata năm 1970 đã kiểm tra một cách cẩn thận kiến thức của tôi về “Những tác phẩm thiêng liêng", để đi đến kết luận mà ông đã long trọng tuyên bố khi chào mừng tôi gia nhập vào Baker Street Irregulars. (John Ball, “Con đường của một Master”, Tạp chí Baker street, tháng 3 1971, Vol. 21, No.1, New York)

Kim - cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Ruyard Kipling về Ấn Độ thuộc Anh, được Nirad Choudhari xem là câu chuyện đẹp nhất về Ấn Độ thuộc Anh là nguồn cung cấp những thông tin địa lý cho bối cảnh của câu chuyện, nhất là hoàn cảnh ra đời của "Cuộc chơi vĩ đại" cùng một số nhân vật của nó - những nhân vật không thể thiếu từ Bengali Boswell cho đến Giáo sư. Những truyện ngắn khác của Kipling, đặc biệt trong những tuyển chọn này: Chiếc xe kéo ma quái và tác câu chuyện kỳ quái khác, Câu chuyện của núi dồi, và Dưới những cây thông tuyết đã cung cấp thêm nhiều chi tiết thú vị khác.

Tôi không cho phép mình quên những kiến thức thu lượm được trong các tác phẩm của Sarat Chandra Das, một học giả đồng thời là điệp viên người Bengal nổi tiếng, đó là nguồn cảm hứng thật sự cho nhân vật Hurree Chunder Mookerjee của Kipling. Tác phẩm quan trọng của Das đã tạo thêm sinh khí cho cuốn cách này là Hành trình đến Lhassa và Trung tâm Tây Tạng. Tôi cũng phải nhắc đến tác phẩm Xuyên qua Himalaya của Sven Hedin, nó đã cung cấp chất liệu trong việc chuẩn bị cho hành trình của Holmes đến Lhassa.

Về bối cảnh của Ấn Độ và sự cai trị của Anh ở Ấn Độ: tác phẩm Hướng dẫn đến Simla và vùng lân cận của tác giả Sood, cuốn Những câu chuyện rút được từ sự cai trị của Anh ở Ấn Độ của tác giả Charles Allen, cùng tác phẩm sự cai trị của Anh ở Ấn Độ, một cuốn ghép hình về Anh-Ấn, Ấn Độ thuộc Anh của Geoftrey Moorhouse; Phong tục và đặc điểm của Ấn Độ thuộc Anh của Evelyn Battye, tất cà đều là những nguồn mà tôi đã vay mượn ít nhiều để dựng lại đoạn miêu tả về cảnh sát giao thông ở Bombay. Còn về tôn giáo, tôi có tham khảo những tác phẩm của Kazi Dawa Samdup và Evans Wentz liên quan đến “phowa và Trongiug”, cuốn Shambala: ốc dào ánh sáng của Andrew Tomas; những tác phẩm của Carl cũng liên quan đến những vật thể bay lạ trong không gian và mandala trong bộ sưu tập đồ sộ của ông. Nền văn minh trong buổi giao thời. Những học giả và nhà văn khác có những tác phẩm được nhắc đến và ghi lại trong phần chú thích và trích dẫn. Xin được cám ơn Gyamtso vì hai tấm bản đồ, cám ơn Pierre Stilli, Lindsey và đặc biệt là Christopher Beauchet vì những đóng góp cho những hình ảnh minh hoạ ban đầu. Tôi cũng xin cám ơn Esther vì đã đánh máy toàn bộ bản thảo này.

Tôi mang ơn Shell và Roger Larsen vì lòng mến khách nhiệt tình, không có giới hạn mà họ dành cho tôi trong giai đoạn tôi bắt đầu viết sách và sự ủng hộ của Tamsin. Tôi cũng biết ơn những người bạn Tashi Tsering và Lhasang Tsering vì đã hiệu đính, đề nghị và đôn đốc thường xuyên để "mandala " được xuất bản; tôi cũng xin cám ơn Patrick French vì những lời khuyên đáng giá và sự động viên hào phóng. Tôi phải cám ơn người biên tập đầu tiên - Aradhana Bisht - với những lời nhận xét hữu ích về nhân vật Hurree. Tôi đặc biệt cám ơn Jan Smith, Anthony Sheil, Elenora Tevis, Susan Schulman, Jenny Manriquezl và các cựu đại sứ Mỹ ở Ấn Độ là Frank Wisner, Tenzin Sonam, Riêu Sarin, giáo sư Sondhi và bà Madhuri Santanam Sondhi vì sự động viên quý giá và sự giúp đỡ trong việc cho ra đời cuốn sách này. Xin cám ơn Amalay Regzin và nhất là Tenzing và Nam kha vì tình yêu và sự ủng hộ vô bờ bến.

Chú thích:

(1) Sirdar: người đứng đầu, ng trưởng nhóm hoặc người tổ chức một đoàn buôn hoặc một cuộc thám hiểm (tiếng Hindu)



Bảng chú giải ngắn về từ và câu Hindu, tiếng Anh-Ấn, tiếng Phạn, Tây Tạng và Trung quốc.

Amban: người đại diện cho triều đình Mãn Thanh ở Lhassa.

Angrezi: Người Anh (tiếng Hindi-Urdu ) (Hindustani là từ trong tiếng Anh để chỉ cả hai thứ tiếng Hindi (ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ) và tiếng Urdu (ngôn ngữ chính thức của Pakistan ), mà theo giới ngôn ngữ học là hai phương ngữ của cùng một thứ tiếng). Tiếng “Hindustani" cũng được viết là tiếng Hindi-Urdu )

Anna: đơn vị tiền tệ Ấn Độ bằng 1/16 đồng rupi.

Argon: con của một cuộc hôn nhân giữa người Yarkandi và Ladakh hay người bản xứ Spiti.

Arre! diễn tả sự kinh ngạc (tiếng Hindi-Urdu ).

Arya- arta: cùng đất cao quý, Ấn Độ (tiếng Phạn).

Babu: người bần xứ có học thức làm công chức nhà nước (tiếng Hindi-Urdu ).

Bahadur: anh hùng, dũng cảm (tiếng Mông Cổ, Hindi-Urdu ).

Baksheesh: tiền boa, tiền trà thuốc (tiếng Hindi-Urdu ).

Bakwas: vô lý, nhảm nhí (tiếng Hindi-Urdu ).

Baapre-baap: cha ơi (tiếng Hindi-Urdu ).

Baraat: đám rước dâu (tiếng Hindi-Urdu ).

Bảy Báu vật (Seven Articles): Bày Báu vật hoàng tộc gồm Nữ hoàng cao quý, Bộ trưởng cao quý Trưởng tu viện cao quý, Ngọc ước quý giá, Bánh xe quý Voi quý và Ngựa quý.

Bearer: người hầu, người phục dịch trong nhà (tiếng Anh-Án).

Benaras: thành phố thảnh của người Hindu, ở bên bờ sông Hằng.

Betel nut: quả cau.

Bewakoof. đồ ngốc (tiếng Hindi-Urdu ).

Bhangi: người ở, người giúp việc (tiếng Hindi-Urdu ).

Bhisti: những người mang nước (tiếng Hỉndi-urdu).

Bhocia: dân Tây Tạng, hay dân tộc Tây Tạng ở Himalaya Ấn Độ (tiếng Hindi-Urdu ).

Bi đi: điếu xì gà nhỏ của người bản xứ (tiếng Hindi-Urdu ).

Bikaner : một tiểu vương quốc và thành phố tráng lệ trước đây ở Rajastan.

Bilaur: pha lê (tiếng Tây Tạng).

Bistra: túi ngủ tiếng Tây Tạng).

Bodhistat~a: dịch âm Hán ~lẹt là Bo-đề T~á~doa hay còn gọi là “Ồ Tá(. Trong Phật giáo Đại thừa, Bồ tát là hành gia sau khi hành trì đã đạt thành tựu (Phật qua) nhưng nguyện không nhập Niết bàn khi chúng sanh chưa giác ngộ (tiếng Phạn).

“rahmo Somay ~Xã hội thần thánh là khái niệm được nêu ra của Rajam Ram Mohan Roy: nhà cải cách vĩ đại Ấn Độ và vị lão thành nhất của Thời phục hưng Bengal .

Budmaash: một người không tốc, một kẻ xấu (tiếng Tây Tạng).

Bukoo: một kiểu áo choàng Tây Tạng (tiếng Hindi-Urdu ).

Bundobust: một tổ chức tài năng (tiếng Hindi-Urdu ).

Bundook: một khâu súng trường tiếng Hindi-Urdu ).

Burra: lớn, quan trọng tiếng Hindi-Urdu ).

Burra mèm: quý bà quan trọng (tiếng Hindi-Urdu ).

Cahuli: đến từ Kabul ở Afghanistan (tiếng Hindi-Urdu ).

Chatter Munzil: những cung điện ở Lucknow được xây dựng cho những bà vợ của một nhà cầm quyền Hồi giáo.

Chale cao: đi đi (tiếng Hindi-Urdu ).

Chao.: đi, chạy đi (tiếng Hindi-Urdu ).

Chang: một loại bia màu trắng nhạt làm từ lúa mạch lên men (tiếng Tây Tạng).

Chaprasi: người đưa tin, người phục vụ cho cho nhà nước, có đeo ~loá ở thắt lưng (tiếng Hindi-Urdu ).

Chilinpa: người ngoại quốc, người Châu Âu (tiếng Tây Tạng).

Chini: ngôi làng điên đồi ở biên giới Kinnaur, giờ là Kalpa.

Chintamani: vật quý thực hiện được điều ước trong các truyền ~hu~ết của Phật giáo (tiếng Phạn).

Chokra: thằng nhai, thằng nhóc lè đường (tiếng Hindi-Urdu ).

Chota-hazri: bữa trà sáng sớm (tiếng Anh lai ấn).

Churail: ma, linh hồn một người đàn bà đã chết khi sinh con (tiếng Tây Tạng). “C I E: danh hiệu trung tá của đế quốc Ấn Độ thuộc Anh.

Collector: người quần lý chính của một hạt, ban đầu là người thu thuế.

Dacoit: tên cướp (tiếng ~nh-ân).

Da dao: thanh gươm lưới to bấn của đao phu.

Dak bungalow: toà nhà cho khách ở của chính phủ (tiếng Anh-Án).

Daal:,đậu lăng (tiếng Hinsu).

Dam cha: gà nước (tiếng Tây Tạng).

Dayig: công văn nhà nước, theo nghĩa đen là mũi tên công vụ (tiếng Tây Tạng).

Dawat: tiệc mừng (tiếng Hindi-Urdu ).

De kho: nhìn kìa (tiếng Hindi-Urdu ).

Dekchis: nồi nấu ăn (tiếng Hindi-Urdu ).

Deodar: thuộc loài tuyết tùng mọc nhiều ở phía tây Himalaya .

Dharma: Pháp, một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật có nhiều nghĩa trong đó nghĩa quan trọng nhất là quý luật bao trùm toàn thêm vú trụ, nhất là quy luật tái sinh dưới tác động của nghiệp. Đức Phật là người đã giác ngộ được quy luật nói trên và giáo hoá giác ngộ cho chúng sinh (tiếng Phạn).

Dhoti: chiếc khố lỏng được những người theo Ấn Độ giáo mặc (tiếng Hindi-Urdu ).

Dorjee: ban đầu là vũ khí sấm sét của Indra, về sau được đồng hoá vào ký hiệu của Phật giáo như là “lvajral” (tiếng Phạn), quyền trượng kim cương (tiếng Tây Tạng).

Double dorjee: "quyền trượng kim cương" chữ thập, ký hiệu về tính bất biến của đạo Phật.

Drilbu: chuông (ciếng Tây Tạng).

Dllck~ trang phục được dẹt bằng sợi hong dày tiếng Anh ~11~.

Eblis: cương cự quý sa tăng của Hồi giáo tiếng ~A rập).

Ecca ghari: loại xe ngựa nhỏ, dùng để chơ khích, có 2 bánh (tiếng Hindi-Urdu ).

“adha: con lừa (tiếng Tây Tạng).

“aruda: phượng hoàng hay chim khổng lồ, loài chim đầy sức mạnh trong huyền choại Phật giáo ~à Ấn Độ giáo tiếng Phạn thau: chiếc hộp ma thuật (tiếng Tây Tạng).

“reay ~ame: 5ự đấu tranh và hoạt động gián điệp của ~nh-nga ở biên giới phía Bắc Ấn Độ.

Hai-mai: ~hố lân ~ôi chưa", tiếng khóc ru~ẹt vọng (Tiếng Hindi-Urdu ).

Ha kim: bác si (tiếng Hindi~rdu).

Havildal~ trung sĩ (tiếng Hindi-Urdu ).

Ha~dil]i: bùa hộ mạng (tiếng Hindi-Urdu ).

Hill ~a~ion: khll vực nằm cách mặt biển trên 1500 mét nơi mà chính pht~l chuyên đến lúc thời tiết nóng (tiếng ~nh~n).

“ookah; óng nt~ớc phương Đông tiếng Hindi~rau).

Howdah: chỗ ngồi có ~om che trên lưng voi tiếng Hindi~urdu).

Huthok~u: dòng dõi Lạt Ma cao cáp (tiếng Mông Cô”.

Ihar aao: đến đây (tiếng Hindi-Urdu ).

In~er: toa đệm, một trong nhiều toa trên những chuyến tàu lửa ~Ấn Độ thời xưa. Giữa toa thứ ba và thứ hai (tiếng Anh~ấn). lzzat: vinh dự (tiếng Hindi-Urdu ).

“adoo: ma thuật (tiếng Hindi-Urdu ).

“aldi: nhanh lên (tiếng Hindi-Urdu ).

“amun: một loại cay của Ấn Độ và châu á~ y~ygium cu~zi~zi; có quả màu đỏ tía có thể ăn được (tiếng Hindi-Urdu ).

Jehannum: địa ngục (tiếng Hindi-Urdu ).

“hampanees: xe kéo ở Simla (Pahari).

“hula: cầu treo thô (tiếng Tây Tạng).

“i: một hậu tố biểu thị sự tôn trọng v61 người được nói đến (tiếng Hindi-Urdu ).

“ingals: loại súng hoả mai nặng được đặt trên chan đứng cần hai người sử dụng (tiếng Anh~n).

Kabari: cửa hàng bán đò cũ (tiếng Tây Tạng).

Kacha: tạm thời (tiếng Hindi-Urdu ).

Ka li: nữ thần Ấn Độ giáo khát máu, được thờ phụng ở nhiều vừng thuộc Bengal .

Kalka: một thị trấn nhỏ ở chân dãy Himalaya , trên đường ~ừ ~mbala đến Simla.

Kankar: cay đoan.

“arma (nghiệp): niềm tin của Phật giáoẤn Độ giáo, cho rằng mỗi hành động đều kéo theo những hậu quả không thể tránh được, dù tọt hay xấu, trong cả đời này và kiếp sau.

Kashag: bộ trưởng Tây Tạng.

Kashgar: chành phố lớn ở Đông ~urkestan.

Kachiawar: bán đảo ở vùng biển Tây Bắc Ấn Độ.

Kayeth: người viết thuê ở chợ, hay (tiếng Hindi-Urdu ).

Kesar of Oros: Nga hoàng.

“habardar: diễn tả sự khiển trách (tiếng Hindi-Urdu ).

“haflla: hành hương (tiếng A rập).

Khanda: một loại kiếm (tiếng Pashto).

Khatag: những chiếc khăn quàng cố bằng lục hay sợi màu trắng đắt tiền được người Tây Tạng dùng như một dấu hiệu chào mừng hay bày cỏ sự kính trọng (tiếng Tây Tạng).

Khuya: loại bánh quy cứng của người Ladakh.

Kismet: số phận (tiếng Hindi-Urdu ).

“otgarh: cơ sở truyền giáo của dạo Cơ đốc nằm phía Đông Bắc Simla.

Kuan-yin ~uan ~m) : tên của Bồ Tát tại Trung quốc và các nước lân cận, tại các nước này ~uan âm thường được diễn ta dưới dạng nữ nhân, là vị Bồ Tát tượng trưng cho tình chương vô lượng đối với chúng sinh.

Kệch nahin: không gì cả (tiếng Hindi-Urdu ).

Kunjiri: tâng lớp bán rau quả (tiếng Hindi-Urdu ).

Kusho: ngài, hay ngài đáng kính (tiếng Tây Tạng).

“uttar: dao găm (tiếng Pashto).

Kya: gì vậy (tiếng Hindi-Urdu ).

Hay hai: cái gì thết (tiếng Hindi-Urdu ).

La: ngọn đèo (tiếng Tây Tạng).

Lanh: trăm ngàn (tiếng Hindi-Urdu ).

Lathi: gậy trẻ (tiếng Hindi-Urdu ).

Leh: thủ phủ xứ Ladakh và là trung tâm thương mại sâm uất, trước đây nằm giữa Tây Tạng, Kashmir và Trung á.

Iha: thần (tiếng Tây Tạng).

Iha gyalo: Chiến thắng cho các vị thần? (tiếng Tây Tạng).

Lin gam: biểu tượng về dương vật (tiếng Phạn).

Lopchap: nhiệm vụ triều cống hàng năm của vua Ladakh đối với Đạt Lai Lạt Ma (tiếng Tây Tạng).

Mahasiddha: một người có Tăng lực tâm linh cao (tiếng Phạn).

Mahout: quản tượng (tiếng Hindi-Urdu ).

Mani lag-khor: bánh xe cảu nguyện (tiếng Tây Tạng).

Man tra: câu thần chú (tiếng Phạn).

Me la: chợ phiên (tiếng Hindi-Urdu ).

Mom: bánh bao nhân thịt hấp hơi (tiếng Tây Tạng).

Mudra: ấn, động tác trong khi hành lễ của Mật giáo (tiếng Phạn).

Murrree: khu an dương trên núi ở Tây Bắc Ấn Độ, nổi tiếng với món bia.

Mursala: quốc thư, công văn của nhà nước hiểu theo nghĩa trang trọng (tiếng ta Tư).

Mussak: thùng đã đựng nước (tiếng Hindi-Urdu ).

Namaste: diễn tả sự chào mừng (tiếng Hindi-Urdu ).

Narkhanda: một thị trấn nhỏ nằm ở Đông Bắc Simla.

Nickel Jao: cút đi (tiếng Hindi-Urdu ).

Nizamut: vụ án (tiếng Hindi-Urdu ).

Norbu rimpoche: nhìn thấy Chintamani (tiếng Tây Tạng).

Nowkri: phục vụ, làm việc (tiếng Hindi-Urdu ).

Om Mani Padme Hum: (dịch ra âm Hán Việt là Um ma ni bát mê hồng) câu thần chú Phật giáo (man tra), thường được dịch là "Om , Ngọc quý trong hoa sen, hum”.

Sáu âm của thần chú này được xem là tương ứng với sáu coi tái sinh của dục giới.

Oswal ~ain: một nhóm đặc biệt trong cộng dông người theo đạo Jana, nổi tiếng vì sự nhạy bén thương mại của nó.

Pan: một miếng lá trầu có tác dụng gây mê nhẹ, nhai cùng với một miếng cau, cùng gia vị và vôi, nhiều người Ấn có thói quen nhai paan vì nó có tác dụng chắc răng và làm môi đỏ.

Paan-bidi-wallahs: những người bán thuốc lá và paan dạo (tiếng Hindi-Urdu ).

Pahari: người vùng cao.

P~O: Cong ty hàng hải tàu hơi nước phương đông và bán đao, công ty hàng hai lớn và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực chơ du khách nh đến Ấn Độ và phương Đông.

Parao: nơi nghi ngơi bên đường (tiếng Hindi-Urdu ).

Peshawar : ở lối vào đèo ~jlyber, ~hủ pht~l rinh biên giới Tây Bắc.

Phowa: thuật chuyện đi tâm thức của những người theo thuyết đủ già (yoga ) từ một hoá thân này đến một hoá thân khác mà không gây ra sự đứt đoạn nào trong dòng tương tục của tâm thức (tiếng Tây Tạng).

Phurba: dao găm có ba cạnh thuộc lễ nghi tôn giáo, thường được gọi sai lầm là "dao găm ma quỷ” (tiếng Tây Tạng).

Pie: là phần nhỏ nhất của đồng rupi xưa. 1 rupi bằng lý anna, 1 anna hằng 4 pice và 1 pice bằng 3 pie.

Poodle-faker: người đàn ông lăng nhăng, đặc biệt là ở các khu an dương trên núi (tiếng Anh~n).

Poshtee'l: áo choàng dài bằng đã cửu xuất xứ từ Afghanistan .

Pukka: một từ thường được dùng với nhiều nghĩa như khoe mạnh, cứng cáp, lực lưỡng, chân thật hay hào phóng (tiếng Hindi-Urdu ).

Pundit: người có học, thầy giáo (tiếng Hindi-Urdu ).

Punkak: người hâm mộ (tiếng Hindi-Urdu ).

Puranas: mười tám bần văn thiêng liêng được viết giữa giai đoạn năm 200 trước công nguyên đến năm 800 sau công nguyên, chứa đựng các thiên anh hùng cả, huyền thoại, tri thức phổ biến… gồm các nguyên tắc chung về tôn giáo và đạo đức của Ấn Độ giáo.

Purana trong tiếng Phạn có nghĩa là cổ xưa.

Puttoo: vật liệu len dệt bằng tay.

P~VVD: Bộ công trình công cộng.

Rai Bahadur: một danh hiệu quan trọng được trao tặng bởi pho vương.

Ramasi: ngôn ngữ của nhăng kẻ sát nhân.

Rampur : thị trấn bên sông Sutlej ' Đông Bắc Simla, thủ phu của lãnh thổ đồi núi độc lập Bushair.

Rukho: dừng lại (tiếng Hindi-Urdu ).

Saat phải: hội kín Ấn Độ giáo.

Sadhu: chày tu khất thực (tiếng Hindi-Urdu ).

Sai: chú rể.

Sakht hurra a~sar: cấp bậc sĩ quan cao cấp trong quân đội (tiếng Hindi-Urdu ).

Salaam: lời chào, hay tỏ sự tôn trọng (tiếng Hindi-Urdu ).

Sambhar: loài hươu lớn Ấn Độ.

Samsara: với Phật giáo, là quá trình đầu thai vào một sinh vật khác sau khi một người chết đi; với Ấn Độ giáo, là vòng quay bất tận của sinh, tư và tái sinh mà tất cả sinh vật đều phải trải qua.

Sang: một chiếc cầu làm bằng không thanh gỗ thô (tiếng Pahari).

Sai: phong tục cũ của Ấn Độ giáo quy định phải thiêu sống goá phụ cùng với người chồng vừa chết, một phong tục đã man đã bị Ram Mohan Ro~ lên án và bị chính phủ Anh cho là bất hợp pháp.

Seer: đơn vị do lường trọng lượng của Ấn Độ tương dương với O~ kg.

Se rai: khu vực tạm nghỉ cho đoàn hành hương, cũng là nơi trú chân cho các du khách (tiếng Hindi-Urdu ).

Shay ~iêt (Sát) (tiếng Trung Quốc).

Shabash: rất tốt, hoan hô (tiếng Hindi-Urdu ).

Shaitan: ~u~ dư (tiếng Hindi-Urdu ).

Shamiana: lêu bạt (tiếng Hindi-Urdu ).

Shikar: săn (tiếng Hindi-Urdu ).

Sirdar: lanh đạo, cũng là người tổ chức một đoàn hành hương hay thám hiểm (tiếng Hindi-Urdu ).

Si~ar: đàn luật có nhiều dây của người Ấn.

Sivaliks: một rặng đồi thấp ở phía tây dãy Himalaya .

Skanda Puranas: một trong mười tám bản văn thiêng liêng của Puranas.

Spiti: ở biên giới Tây Tạng. Trong thung lũng của một vùng phụ lưu sông Sutlej '

San~rasi: ân sĩ.

TA: trợ cáp du lịch (tiếng Anh lai ấn).

Talwar: gươm (tiếng Hindi-Urdu ).

Tam Bảo (Three ~e~els): Phật, Pháp và Tăng trong Phật giáo.

Tám biểu tượng chiến thắng (Eight Auspicious Emblems): gồm chiếc Lọng, Cặp cá vàng, có ốc xoắn (xoắn về phía bên phải), Nút buộc không bao giờ kết thúc; Lá cờ cối cao, Đại pháp thời luân; Chiếc bình giàu có vĩ đại và Hoa sen.

Tantric: Mật giáo (tiếng Phạn).

Tasam: đoàn hành hương: khu vực dừng chân (tiếng Tây Tạng).

Tạt: ngựa lùn vùng cao.

Taar: diện tín.

Thanh: sở cảnh sát, nhà tù.

Thang ka: cuộn tranh vẽ Tây Tạng.

Thugs: một ~ố chức sát nhân (tiếng Hindi-Urdu ).

Ticca ghari: xe ngựa bốn bánh cho thuê.

Tif~m: tiệc trưa (Anh-Án).

Tummies: lính trơn người ~nh.

Topee: mũ cát, chính xác là nón của người Hindu ~th-ấn).

Trichinopogy: xì gà chất lượng cao được làm tại ~orur, một ngôi làng gần Thiruchirapalli ở Nam ~n ~nh-ân).

Trong thuật thiền(yoga ) nhằm chuyển tâm thức của một người vào cơ thể của một người khác còn sống (Tây Tạng).

Trulku: hoá thân của một Lạt Ma (Tây Tạng).

Tsampa: lúa mạch rang.

Tsongdu: quốc hội Tây Tạng.

Tung: tín đồ Hồi giáo người Trung quốc ở ~ansu.

Tuticorin: cáng biên ở cực Đông Nam của Madras , có quan hệ buôn bán với Ceylon .

Chen: kiểu chữ Tây Tạng.

May: chữ thao Tây Tạng.

Umballa: theo cách viết cũ là Ambala, thủ phủ của vùng đấy

Ơ phía Đông Punjab .

Upanishads: trong Ấn Độ giáo, bất cứ một loại luận thuyết tự biện nào, thường được viết dưới hình thức đối thoại, được soạn trong khoảng từ giữa thế kỷ 8 đến thế kỷ 6 trước công nguyên và được chép thành văn ban lần đầu tiên vào năm 1300 sau công nguyên (tiếng Phạn).

Utpala: Hoa sen xanh (tiếng Phạn).

Va~ra: nhìn thấy "dorjee'l (tiếng Phạn).

Vangala: Bengal (tiếng Phạn).

“Vahl: phó từ diễn tả sự kính trọng và thán phục (tiếng Hindi-Urdu ). “Trang kur: cho nhập môn (Tây Tạng).

Yakdan: hòm gỗ bọc đã (tiếng Turkic).

Yamen: nơi ở của vị đại diện Man thanh tại trên một ốc đảo lớn ở Ta rim Ba sin.

Yidam: hoá thần, giống như thần hộ pháp (Tây Tạng).

Za de mon: quỷ dữ có hình dáng một con bò cạp toàn thân phu đầy mắt (tiếng Tây Tạng).

Zoolum: sự đàn áp (tiếng Hind~urdu).
Sherlock Holmes mất tích
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Lời cảm ơn