Chương 7
Tác giả: Jamyang Norbu
Victoria chắc chắn là nhà ga tàu hoả tráng lệ nhất thế giới. Nó được mở vào tháng Tám, mới cách đây năm năm, nhân dịp lễ mừng đám cưới vàng của Nữ hoàng của chúng ta. Sự lộng lẫy cũng như sang trọng của nó được người ta tán tụng ở khắp nơi trong lãnh thổ, duy chỉ có bà Dufferin, Phó vương phu nhân là không chấp nhận mà cho rằng nó "quá xa hoa đói với đám đông hành khách ô hợp huyên náo của ngành hoả xa". Dinh thự động lớn này về mặt kiến trúc mà nói, là sự kết hợp hài hoà giữa các phong cách Viên, gothic, Tân cổ điển, Hindu và Hồi giáo. Các cột chống được làm từ loại đá granit xẫm màu rất đặc biệt, nhập khẩu từ Aberdeen , tạo nên một kết cấu tráng lệ pha lẫn nét đường bệ của Hoàng tộc.
Tôi đứng dựa lưng vào một trong những chiếc cột chống vững chãi ấy, hành lý xách tay và chiếc giường xếp nằm dưới chân, đôi mắt lơ đãng quan sát dòng người đến và đi, họ len lỏi bước qua những hình nhân nằm ngửa mặt lên trời, đó là những hành khách hạng ba, những người mua vé tàu đêm và tranh thủ chợp mắt ở thềm nhà ga trong lúc đợi tàu. Những người bán bánh kẹo, người chở nước, bán trà dạo bán thuốc lá và trầu cau (Paan) dạo cất tiếng rao ông ổng rất ồn ào át cả tiếng huyên náo của đám đông đi lại trong nhà ga.
Tôi mua tờ Thời báo Ấn Độ tại quầy sách báo A. H. Wheeler, ở đó cũng trưng bày cả những tác phẩm của ông Kipling với những bìa sách màu xanh đặc biệt (Thư viện Đường sắt Ấn Độ) giúp giải khuây cho hành khách trong chuyến hành trình dài dằng dặc phía trước. Trong lúc trả tiền cho người bán báo và kẹp tờ báo dưới nách, tôi thoáng thấy một người đàn ông dáng nhó thó mặc bộ đồ vải bông dày nhiệt đới màu cháo lòng, đội sùm sụp một chiếc mũ cát quá khổ. Hắn ta từ cửa phòng chờ hạng hai(1) lao ra ngoài và thình lình biến mất trong đám kỵ binh đông đảo người Sikh. Gã đàn ông có khuôn mặt chồn sương hai mặt một tên mật thám? Có đúng là hắn không. Rất nhiều người trên đất nước này đội mũ cát quá khổ và mặc bộ quần áo vải bông dày dơ bẩn nhưng một lần nữa…
Trước khi tôi có thể sắp xếp lại các suy nghĩ của mình một cách thích hợp thì có ai đó vỗ vào vai tôi từ phía sau khiến tôi giật nảy mình.
“Ồ, là anh à, Strickland,” tôi kêu lên mừng rỡ.
"Giờ thì hãy nghe tôi đây, ông Hurree. Tôi đã cố gắng lấy được ngăn buồng cuối cùng ở toa hạng nhất cho hai người từ suất ưu tiên của chính phủ, vì thế ông có thể đi với ông Holmes mà không phải lo lắng về bất cứ vấn đề nào nảy sinh với những hành khách châu Âu khác".
“Ồ, sẽ không có vấn đề gì đâu, anh bạn quý hoá ạ”.
"Tôi cũng không chắc lắm đâu, Hurree ạ. Tôi vẫn không sao yên tâm được khi để ông và ông Holmes ra đi như thế này”.
"Nhưng tại sao chứ, Strickland? Chúng ta đã nhất trí là…"
“Tôi biết ông Holmes sẽ an toàn hơn khi rời khỏi Bombay, nhưng một con tàu trên đường đi của nó có vẻ như cũng là một mục tiêu lý tưởng cho một cuộc tấn công khác…"
“Đừng lo, thưa ngài. Tôi sẽ không ngủ nghê gì đâu".
Chuyến tàu thư biên giới rầm rập lăn bánh vào ga, chỉ muộn hơn một vài phút so với giờ ghi trên vé là 1 giờ 45 phút sáng.
Đám người nằm ngủ gà gật ngổn ngang trên thềm ga lồm cồm bò dậy. Tiếng ồn và sự huyên náo thông thường của một nhà gả lúc này đã lên tới đỉnh điểm, hành khách thi nhau gào lên trong lúc tập hợp hành lý, túi ngủ, trẻ con và người thân, rồi lao đi như điên, chen lấn nhau nhốn nháo ở cửa lên xuống và cửa sổ các toa tàu. Sự tán loạn của đám hành khách dường như cũng lây cả sang những người bán dạo, đám phu khuân vác và đoàn người ăn xin trong lúc họ la hét, tranh cướp khách hàng và cầu xin lòng thương xót của những người đang vội vã cho một chuyến đi xa.
Chúng tôi đến đón ông Holmes ở phòng chờ hạng nhất. Với sự giúp đỡ của một phu khuân vác mặc sơ mi chinh tề màu đỏ và thắt dải băng màu đồng nơi cánh tay - anh này nhanh nhảu đội số hành lý ít ỏi của chúng tôi lên đầu - chúng tôi cũng phải chen lấn qua đám đông hỗn loạn mới lên được tàu. Như một biện pháp ngăn ngừa bọn thổ phỉ tấn công, xe lửa ở Ấn Độ không có lối đi thông toa này sang toa khác, mỗi toa đều có một lối đi lên xuống độc lập từ thềm ga. Trên sân ga có một nhóm quân nhân người Anh nhốn nháo - dáng vẻ bặm trợn rất lính tráng của trung đoàn Hoàng gia Warwickshire - ngay lập tức họ chiếm toa tàu nối liền với toa chúng tôi.
"Ông đã vũ trang đầy đủ chưa, ông Holmes?" Strickland hỏi.
"Tôi có một khẩu súng rất nhỏ. Tôi nghĩ nó cũng đủ tốt để mang theo.
“Tôi sẽ nhẹ nhõm và an tâm hơn nếu ông bao giờ cũng giữ nó cạnh mình, ngày cũng như đêm, không một phút lơ là canh giác. Hurree là một tay lão luyện trong chuyện này, ông có thể tuyệt đối tin tưởng vào ông ấy”.
"Hắn rồi. Tốt lắm, bây giờ thì tạm biệt anh, Strickland. Tôi không biết cám ơn thế nào cho đủ về sự giúp đỡ quý báu của anh".
"Tạm biệt ông, Sherlock Holmes,” Strickland nói khi tàu bắt đầu lăn bánh khỏi thềm ga và những đứa bé ăn xin cố sức những nỗ lực điên cuồng cuối cùng để gợi lòng thương hại của hành khách trên tàu.
“Tạm biệt Hurree. Nhớ là không được bất cẩn đấy".
Sau khi xua đuổi vài đứa bé ăn mày, đang nhảy như con choi choi toan trèo vào trong toa, tôi ngồi xuống, tựa lưng vào ghế và chúi mũi vào tờ báo mới mua, trong lúc con tàu rời khỏi ga, bắt đầu cuộc hành trình dài đến Peshawar nằm dưới chân đèo Khyber, sau sẽ chạy qua Deolali, Burhanpur, Khandwa, Bhopal, Jhansi, Gwalior, Agra, Dehli, Umballa, Amristar và Lahore, nhưng chúng tôi sẽ xuống ga tại Umballa và đón một chuyến xe ngựa đến Simla.
Holmes thò đầu ra ngoài cửa sổ, chăm chú nhìn xuống một cái gì đó ở bên ngoài. Một lúc sau ông thụt đầu vào trong, cũng ngả người vào lưng ghế và châm tẩu thuốc. Tôi sắp xếp hành lý gọn gàng lên cái giá phía trên đầu, rồi bỏ một miếng paan vào miệng. Trong lúc chậm rãi nhai paan, tôi điểm lại một lần nữa tất cả những sự kiện vừa xảy ra trong ngày. Đọt nhiên tôi nhớ đến gương mặt chồn sương của một gã đàn ông.
"Có chuyện gì thế, Hurree?” giọng điểm tính của Holmes vang lên phá vỡ nỗi ưu tư của tôi. "Trông ông như thể vừa mới nuốt phải một đồng ba xu vậy”.
Tôi thuật lại cho ông nghe về chuyện vừa thoáng bắt gặp gương mặt kẻ bám theo đuôi chúng tôi ở nhà ga.
"Nhưng tôi cũng chẳng chắc lắm, thưa ngài,” tôi nói. "Tất cả diễn ra quá nhanh".
"Hừm. Dù vậy sẽ là một sự khinh suất đáng trách nếu chỉ xem nó như một sự cố ngẫu nhiên. Vào lúc này thì chắc chắn tên Moran đã biết việc chúng ta rời khỏi Bombay tối nay. Đó không phải là một ý nghĩ dễ chịu gì cho lắm. Trở thành đích ngắm, một lần nữa, cho những động vật nguy hiểm và những viên đạn nở rộng thể tích khi xuyên vào người, nhất là khi ta lại ở trong khoảng không gian rất giới hạn của một toa tàu đang chạy, là một cái gì quá sức đối với tạng người như tôi. Nhưng may mắn thay Sherlock Holmes đã khéo léo lái tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ ảm đạm bằng cách hướng cuộc nói chuyện của chúng tôi sang các đề tài dễ chịu và có tính học thuật hơn.
"Dân tộc học là chuyên môn của ông, đúng không Hurree?” Holmes gợi chuyện, “Ông có thể vui lòng nói cho tôi biết hình ảnh một bàn tay xòe ra có ý nghĩa tượng trưng nào trên đất nước ông hay không?”
"Một bàn tay mở ư? Ồ, đó là biểu tượng của nữ thần Kali".
"Làm ơn nói cho tôi biết một cách chi tiết hơn".
“Rất hân hạnh, thưa ông Holmes. Kali chắc chắn không phải là vị thần nhân ái bình thường như trong suy nghĩ của ông. Hoàn toàn không phải như vậy. Bà ta là hiện thân của những khía cạnh hung dữ và khủng khiếp nhất của Devi, Nữ thần Tối cao; chắc chắn đó là vị thần độc ác nhất trong thần hệ của người Hindu. Kali được mô tả như một mụ phù thuỷ gớm ghiếc, toàn thân nhuốm máu tươi, nhe răng thè lưỡi ra ngoài. Bốn bàn tay của bà ta nắm giữ những vật khác nhau, một thanh gươm, một cái khiên, một bàn tay gớm guốc của người khổng lồ và một sợi dây thòng lọng. Có một thời, các nghi lễ thờ cúng nữ thần Kali bao gồm cả việc tàn sát những vật cúng tế. Kali được cho là đã… phải, đã phát triển sở thích hút máu người khi bà ta được mời đến để giết quỷ Raklavija.
"Nhưng nói chung, tất cả những điều này đều xuất phát từ những tín ngưỡng mê tín và man rợ, ông Holmes ạ, hoàn toàn không phù hợp với tư duy khoa học. Bản thân tôi, một người Brahmo Somajist (2), thì tránh xa những hành động tàn ác như thế và thay vào đó luôn tôn trọng những nguyên tắc hợp đạo lý và mang tính nhân văn cao quý, những điều đã được diễn ta trong Upanishads(3) vốn dại diện cho những triết lý nhân sinh chân chính của Ấn Độ giáo chưa hề bị hoen ố".
Rút cái tẩu thuốc ra khỏi miệng, Sherlock Holmes hơi cúi người về phía trước, nói:
"Thật thú vị, nhưng có phải nữ thần tàn bạo kia hay biểu tượng bàn tay mở có bất cứ mối liên hệ nào với một điều gì khác hơn chuyện thần thoại ông vừa kể, với một tội ác, chẳng hạn.…”
"Chuyện đó thì có đấy thưa ngài. Kali là nữ thần được hội “Những kẻ sát nhân” thờ phụng.
“À tôi nhớ là đã đọc về chúng cách đảy vài năm. Một hội giết người chuyên nghiệp, có phải không?”
"Đúng vậy, thưa ông Sherlock Holmes. Chúng là thành viên của liên minh những kẻ ám sát được tổ chức rất tốt trong thế giới ngầm của Ấn Độ suốt hơn ba trăm năm qua".
"Làm ơn tiếp tục đi,” Holmes nói, đôi mắt nhắm lại, các đầu ngón tay chụm vào với nhau, trong khi cả thân người ngả vào lưng ghế.
"Cách hành sự của những kẻ giết người hiểm độc này khá đơn giản, chúng tìm cách chiếm được lòng tin của khách bộ hành và khi đã trở nên thân thiết với họ, chúng tìm cách bóp cổ họ từ đằng sau bằng một chiếc khăn tay đã được thắt nút lại ở các góc (để nắm cho chặt hơn) và một đồng bạc dâng tặng cho Kali. Nhất nhất việc gì cũng đều phải thực hiện theo những quy định nghiêm ngặt, cổ xưa, tiếp theo việc cử hành những nghi thức tôn giáo đặc biệt trong đó việc phong thánh cho cuốc chim và lễ dâng đường kính là phần được thực hiện một cách nối bật nhất. Mặc dù tín điều tôn giáo chủ yếu của họ là tôn thờ Kali, nhưng có thể thấy nhiều dấu vết của giáo lý đạo Hồi hiện diện trong tín ngưỡng của họ. Phường hội này sử dụng một loại biệt ngữ riêng được gọi là Ramasi. Bọn chúng cũng đưa ra những dấu hiệu đặc biệt để các thành viên có thể nhận ra nhau".
"Khi nào thì nhà cầm quyền biết đến sự tồn tại của tổ chức này?”
“Bằng chứng rõ ràng về môn phái sát nhân này chỉ được phát hiện khi huân tước William Bentinck trở thành Toàn quyền Ấn Độ; điều này xảy ra vào những năm 1830, đúng cái thời hoàng kim của công ty Bahadur - Công ty Đông Ấn đáng kính. Huân tước đã chỉ đạo đại uý Sleeman thực hiện những biện pháp cần thiết để trừng trị những kẻ coi thường Luật pháp Đại Anh quốc.
Trong vòng năm năm có không dưới ba nghìn kẻ sát nhân bị bắt và bị kết án; một trong số đó đã thừa nhận riêng bản thân hắn thực thiên không dưới 719 vụ giết người, nhiều vụ khác diễn ra cũng phải quá lâu trước những vụ được kê trong bản danh sách phong thiếp này. Hơn 400 kẻ sát nhân đã bị treo cổ, phần còn lại bị lưu đày, chắc chắn là đến quần đảo Andaman”.
“Như vậy là toàn bộ bọn man rợ độc ác này đã bị quét sạch?"
“À đó sẽ là một luận điểm… à… mặc nhiên, nhưng cũng không hẳn là như vậy… e concensu gentium(4) ông cũng biết đấy”.
“Nhiều kẻ còn sống sót ư?”
“Không nhiều, nhưng cũng đủ để khôi phục và duy trì tổ chức tội ác này. Khi đại úy trẻ tuổi Sleeman thực hiện những cuộc truy sát, thì Những kẻ sát nhân có địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Ấn, phần lớn ở những khu vực nông thôn hẻo lánh và vùng rừng núi. Những kẻ bị mắc kẹt ở những vùng xa xôi hẻo lánh đều đã bị tóm, không sớm thì muộn. Chỉ có một số ít đã thay đổi thói quen hành sự, mò đến những thành phố lớn như Calcutta hay Bombay thì còn sống sót. Đó là lý do tại sao tôi muốn ông rời khỏi Bombay càng sớm càng tốt, ông Holmes ạ. Chúng vẫn nhởn nhơ ở đó, vẫn giết người như ngóe, sẵn sàng bán linh hồn và tay nghề của mình cho những kẻ như Đại tá Moran".
Ra khỏi Bombay đoàn tàu chạy chậm lại và dừng lại ở một ga xép nhỏ. Có lẽ đường ray phía trước chưa được giai phóng hoặc lịch tránh tàu đã có gì thay đổi. Một người soát vé lai Âu-Á, trông dáng vẻ như thể đang có điều gì lo lắng ghê gớm đi vào khoang; gương mặt khó đăm đăm của ông ta, bị khuất một phần dưới chiếc mũ cát to bất tiện, bóng loáng những giọt mồ hôi.
Ông ta nhìn chõ vào tôi vẻ trịch thượng, dễ ghét:
"Này Ba bu. Sao lại lớ xớ ở đây? Nikal jao Jaldi!(5)
"Quý ông này đang đi du lịch cùng với tôi," Holmes nói giọng ôn tồn nhưng cương quyết. “Chúng tôi đã thuê bao toàn bộ khoang này đây là vé của chúng tôi".
Lau mặt bằng một chiếc khăn tay không lấy gì làm sạch sẽ cho lắm, người soát vé chăm chú tìm tên chúng tôi trong tập danh sách hành khách - một xấp giấy nhàu nát ẩm ướt kẹp trong một cái bìa dựng hồ sơ - và cuối cùng đành bấm vào cuống vé của chúng tôi một cách bất đắc dĩ. Đúng lúc ông ta quay lưng đi khỏi, Sherlock Holmes nói:
"Xin lỗi, không biết ông có tình cờ mang theo một màu phấn không?”
Người soát vé có phần hơi ngạc nhiên trước đề nghị bất ngờ của Holmes, nhưng vẫn móc ra một cục phấn trắng nhỏ từ túi chiếc áo đồng phục màu xanh đã bạc màu và đưa cho Holmes.
Nhìn chung, nhân viên soát vé và bảo vệ thường mang phấn theo người để đánh dấu vào hông toa tàu cho dễ kiểm soát.
"Cám ơn rất nhiều," Holmes nói khi người soát vé kẹp bìa hồ sơ dưới nách và đi khỏi. Tôi cũng rời khỏi khoang đi tìm xe bán thức ăn. Cũng may là nó không ở quá xa nên tôi có thể mua một ít bia Murree ướp lạnh cho ông Holmes và nước khoáng có pha quinin cho mình. Khệ nệ mang nhưng thứ này, tôi vội vã qua lại khoang, may mà vừa đúng lúc, vì tôi vừa về đến nơi thì tàu bắt đầu lăn bánh trong màn đêm dày đặc.
Sherlock Holmes cũng không ở trên tàu, ông đang leo vào toa theo tôi. Khi ông vào đến cửa, tôi để ý thấy tay ông dính đầy bụi phấn. Sau đó, ông vào toilet nối vào toa của chúng tôi. Khi ông quay, lại, tôi nhận thấy đôi tay ông đã được rửa sạch sẽ.
Xe lửa tử từ tăng tốc, gầm lên trong lúc xuyên qua cái nóng hầm hập về đêm của Ấn Độ. Hai chúng tôi ngồi vào bàn. Chúng tôi vừa uống bia lạnh và nước khoáng, ăn nho Cabuli và quả hồ trăn mà tôi đã mua từ sớm tại chợ Bhindi vừa thân mật trao đổi về những vấn đề đặt ra trong cuộc đời con người, về nghệ thuật và triết học trước khi cái mỏi mệt và cơn buồn ngủ ập đến.
Khoảng ba giờ sáng, tôi đột ngột thức dậy vì những tiếng ẩu đả từ toa tàu bên cạnh, thậm chí nghe có cả tiếng súng nổ. Có lẽ, đám lính người Anh đã nốc đầy rượu vào và như thường lẹ, trở nên ngổ ngược bất trị, chỉ làm những chuyện làm ô danh bộ quân phục trên người. Có tiếng ai đó dường như hét to điều gì đó bằng tiếng Hindu, nhưng tôi không nghe rõ lắm. Một lúc sau, tiếng la ó lắng xuống và thần mộng lại dịu dàng ôm chặt tôi vào lòng.
Nhưng ngay trước khi lịm vào giấc ngủ, tôi nghĩ mình đã nghe Sherlock Holmes cười khe khẽ một mình trong bóng tối toa tàu.
Khi thức giấc lần nữa, tôi thấy Sherlock Holmes mặc chiếc áo choàng màu tía đang hút tẩu thuốc và đọc tờ Thời báo Ấn Độ, trong khi một nhân viên phục vụ đường sắt mặc chế phục trắng tinh đang phục vụ bữa sáng trên tấm ván gỗ dùng như chiếc bàn gấp.
"Chào buổi sáng Hurree," Holmes nói, sột soạt lật thêm một trang báo. “Tôi tin là ông đã ngủ rất ngon”.
"Ồ, phải, thưa ông Holmes. Như một đứa trẻ. Chỉ có điều tiếng huyên náo chết tiệt ở toa bên cạnh phần nào đã làm phiền giấc ngủ của tôi. Chắc nó cũng đánh thức ông chứ?”
"Babuji!” người phục vụ nghe câu chuyện giữa hai chúng tôi thì lập tức xen vào, một điều không phải phép cho lắm. "Có hai tên thổ phỉ đã tấn công toa tàu bên cạnh vào đêm hôm qua".
"Làm thế nào anh biết được điều đó?” tôi hỏi bằng tiếng địa phương.
"Babuji, chính tôi đã vào toa đó để phục vụ bữa trà sớm tại ga chính Jalgaon vào sáng sớm hôm nay. Nhân viên cảnh sát ở đó đã bắt một tên từ toa tàu bên cạnh. Người soát vé cho tôi biết rằng hai tên thổ phi đã cố cướp một toa tàu chở đầy lính Anh. Hai! Bewakoof, khi biết mình đã nhầm địa chỉ, một tên đã nhảy ra theo đường cửa sổ. Tên kia bị một quân nhân bắn vào chân. Xin lỗi, giờ tôi phải đi để phục vụ cho những toa khác”.
"Một lũ thổ phỉ hữu dũng vô mưu, lại đâm đầu vào một toa đầy nhưng lính vũ trang đến tận răng cơ chứ," tôi đăm chiêu nói sau khi đã phiên dịch câu chuyện của người phục vụ cho người bạn đường đặc biệt của mình nghe. theo chỗ tôi biết, bọn tội phạm kiếu này vốn cẩn thận và chuẩn bị rất kỹ càng mỗi khi ra tay cơ mà!”
Nhưng dường như nhà thám tử không chia sẻ những nghi ngờ với tôi. Một ánh lửa hiểu biết và tinh nghịch lóe lên trong cặp mắt chim ưng của ông.
"Trời đất ơi, ông Holmes," tôi kêu lên, "tôi nhận thấy ông đã đi đến một kết luận đúng đắn về vấn đề này. Xin ông đừng bắt tôi phải sống mãi trong bóng tối của sự ngu dốt nữa"
”Có gì đâu,” ông bỏ tờ báo qua một bên, "Tất cả bắt đầu với việc vẽ một bàn tay mở. Ông vẫn nhớ là tối hôm qua tôi đã hỏi ông về ý nghĩa của biểu tượng đó chứ?”
“Vâng, thưa ông. Tôi đã bảo ông đó là biểu tượng của Kali”.
"Và tôi đã chú ý đến một phác thảo y như thế được vẽ bằng phấn trắng ngay bên hông toa tàu của chúng ta, chỉ ngay trước khi tàu rời ga ở Bombay ".
"Sao tôi chẳng thấy gì cả?”
"Ông có thấy nhưng nó không được lọc vào bộ nhớ của ông thôi. Sự khác biệt rất rõ ràng. Ví dụ, hẳn ông đã đi hàng trăm chuyến tàu trong đời và thường xuyên nhìn thấy các bánh xe dưới gầm toa".
"Vâng, thế thì sao?”
“Vậy thì tôi hỏi, theo ông có bao nhiêu bánh xe ở mỗi toa nào?”
“Bao nhiêu ư? Tôi cho là bốn. Nhưng tôi cũng không chắc lắm”.
“Vấn đề là ở chỗ ấy đấy! Ông đã không quan sát dù ông đã từng nhìn thấy nó. Nhưng tôi thì khác. Tôi biết rõ là có tám bánh xe ở mỗi toa bởi vì tôi đã thấy và đã ghi nhận. Nhưng hãy quay lại đề tài lúc nãy: khi nhìn thấy hình vẽ bàn tay xòe rộng tôi đồng thời biết rằng nó chỉ có thế rơi vào một trong hai trường hợp: trò nghịch ngợm vô hại của trẻ con, hoặc một dấu hiệu được để lại với một mục đích rõ ràng nào đó. Khi ông cho tôi biết rằng, hình vẽ đó là một biểu tượng của nữ thần Kali và do đó là biểu trưng giáo phái của tổ chức tội phạm Những kẻ sát nhân , thì tôi biết có một trò chơi đã được sắp đặt và chuyến đi của chúng ta đã bị phát hiện”.
"Nhưng ai có thể làm điều đó? Ông Strickland đặt chỗ cho chúng ta ngay trước khi tàu vào ga, và chúng ta luôn ở trong toa từ lúc lên tàu cơ mà”.
"Có thể đó là một trong những kẻ ăn xin leo lên cửa sổ toa tàu. Chắc chắn Moran sẽ đề phòng bằng cách bố trí người canh chừng tại nhà ga, phòng trường hợp tôi bỏ trốn".
"Rất có thể gã mặt chồn là một trong những kẻ đó thưa ngài".
"Nhiều khả năng hắn chính là kẻ đứng đầu và đã rải vô số tai mắt ở khắp các vị trí khác nhau tại nhà ga để báo lại cho hắn nhất cử nhất động của chúng ta, nếu chúng phát hiện ra bất cứ điều gì”.
“Phải, tất nhiên. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông, Holmes ạ".
“Lúc ấy tôi không thể nhờ cảnh sát can thiệp chỉ vì một cái hình vẽ ngớ ngẩn nào đó, đấy là đặt giả thuyết chúng ta có được một sự giúp đỡ như thế trên một đoàn tàu đang chạy. Chúng ta ai cũng thừa biết rằng trước khi ra tay giúp đỡ, nhất định cảnh sát sẽ muốn biết rõ vị trí của tôi trong cái kế hoạch được sắp đặt này một điều thật khó mà giải thích cho họ hiểu chân tơ kẽ tóc. Cũng có khả năng Đại tá Moran nguỵ trang một số tay chân của mình thành cảnh sát để đánh lừa chúng ta. Chẳng còn sự lựa chọn nào khác, tôi đành xoá hình vẽ bên hông toa tàu của chúng ta và vẽ một cái tương tự vào toa kế bên, toa tàu chở đầy lính vũ trang".
“Úi chà! Tất nhiên rồi. Như vậy Những kẻ sát nhân đã tấn công vào toa tàu ấy tối hôm qua, chứ không phải là thổ phỉ. Chao ôi. Nếu không có sự thận trọng và nhanh trí của ông rất có thế những chiếc khăn tay đã xoắn quanh họng chúng ta lúc nửa đêm về sáng rồi. Cha mẹ ơi!"
“Ồ, không đến mức bi đát thế đâu. Khẩu súng của tôi bao giờ cũng sẵn sàng nhả đạn cơ mà. Nhưng giám bớt nguy cơ thì vẫn tốt hơn. Xem nào, chúng ta có gì đảy nhỉ?” Holmes hói, nhấc nắp đậy thức ăn lên, hít hít một hồi rồi khen ngợi. "Chà, thịt xông khói và trứng. Xin được phục vụ ông một chút Hurree à. Nếu tôi không lầm, việc dùng một vài lát thịt hun thói không vi phạm những nguyên đắc đạo đức cơ bản trong tín ngưỡng đặc biệt của ông”.
Khoảng mười một giờ tối, chúng tôi đến Dehli. Tôi nhảy khỏi giường ngủ và thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn vào cái nhà ga xấu xí, trông như một cái lô cốt xây bằng đá màu đỏ quạch.
Tiết trời rất nóng, còn nóng hơn ở Bombay nữa, và hết sức bụi bặm. Một người chở nước đơn độc đang phun ướt thềm ga bằng một chiếc bình đã màu da trâu đựng đầy nước, nhưng tiếc thay việc đó không giúp thanh lọc được bàu không khí bụi mù hay làm nó mát dịu đi được chút nào. Trên sân ga, đám người ăn xin còn ồn ào và lộng hành hơn ở đâu hết. Tôi mua paan từ người bán dạo chột mắt và nhai cho tới khi may sao con tàu được kéo ra khỏi nhà ga. Thỉnh thoảng cũng có vài cơn gió nhẹ thổi qua cửa sổ toa tàu và tôi nằm xuống ngủ lại.
Sáng hôm sau vào lúc năm giờ, tàu lăn bánh vào nhà ga thành phố Umballa, nơi Holmes và tôi xuống tàu. Cơn mưa phùn lất phất đã tẩy sạch bụi bặm và làm tươi mới làn không khí ban mai. Trong lúc chúng tôi ăn sáng tại một nhà hàng nhỏ nhưng sạch sẽ ở nhà ga con tàu thư biên giới tiếp tục cuộc hành trình dài đến ga cuối cùng ở Peshawar .
Ở thời điểm này còn chưa có đường xe lửa đến Simla, chúng tôi đón một chuyến xe trạm của công ty Vận tải Miền núi đậu sẵn tại ga và lên đường đến Kalkay điểm dừng đầu tiên en route (7) đến Simla.
Chú thích:
(1) Hạng hai, một trong ba hạng của các công ty tàu Ấn Độ thời ấy. Là loại nằm giữa vé cho toa hạng nhất với hạng ba. Toa hạng nhất thời ấy chỉ dùng để phục vụ cho người Âu.
(2) Brahmo Somai hay Hội thần thánh được Raja Ram Mohan Roy - một nhà cải cách lớn người Ấn và là nhân sĩ lão thành của Thời kỳ phục hưng Bengal - sáng lập vào năm 1828. Hoạt động của ông ta trên những nguyên tắc lý tính và quyền cá nhân được diễn đạt trong Upanishada. Tư tưởng lý luận của ông trở thành những khái niệm căn bản cho tư tưởng của cả người Ấn Độ lẫn người châu Âu và hình thành một cơ sở, qua đó chúng có thể vay mượn và ảnh hưởng lấn nhau. Mohan Roy đả phá hệ thống sati và sư lạm dụng đẳng cấp, ủng hộ việc nâng cao địa vị cho người phụ nữ và thủ tiêu hệ thống sùng bái ngẫu tượng
(3) Upanishads là tên gọi chung cho những tập luận văn cổ Ấn Độ, trong đó một số tập sớm nhất được sáng tác vào khoảng từ thế kỷ 6 đến 3 trước công nguyên. Được coi là nối tiếp các bộ Vệ Đà và là phần văn bản cuốn cùng của thời kỳ Vệ Đà, Upanishads là những tư liệu cổ lần đầu tiên đặt ra những vấn đề triết học như: chúng ta từ đâu đến, đang ở đâu, sẽ đi về đâu. Upanishads cũng là nguồn gốc của hệ thống triết học duy tâm khách quan Vệ Đà, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triền của tư tưởng triết học và giáo lý Ấn Độ (các đạo sà La Môn, Phật, Jana…) cũng có ảnh hưởng đến các quan điểm của các nhà tư tưởng lớn như Schopenhauer (người Đức, thế kỷ 19) Gandhi (lãnh tụ Ấn Độ thế kỷ 20).
(4) e concensu gentium (tiếng Latinh): bởi sự đồng thuận chung
(5) Nikal jao Jaldi: đi ra ngoài mau!
(6) Hai! Bewakoof: Úi giời! Đồ ngốc!
(7) en route (tiếng Pháp) trên đường.