watch sexy videos at nza-vids!
Truyện GULLIVER DU KÝ (Tập 2)-Chương XI - tác giả Jonathan Swift Jonathan Swift

Jonathan Swift

Chương XI

Tác giả: Jonathan Swift

Chuyến du lịch nguy hiểm. - Tác giả đến New Zealand và dự định ở lại đó. - Một thổ dân đã bắn tên khiến ông bị thương. - Ông bị bắt và cưỡng bức nhốt trong con tàu Bồ Đào Nha. - Thuyền trưởng đối xử tử tế với ông. - Tác giả quay trở lại nước Anh.



Tôi bắt đầu chuyến du hành tuyệt vọng này ngày 15 tháng Hai năm 1714 vào lúc chín giờ sáng. Gió thuận. Hơn nữa tôi đã bắt đầu chèo. Nhưng sau khi thấy là việc chèo sẽ nhanh chóng làm tôi mất sức, còn gió thì có thể thay đổi, tôi đánh bạo dương cánh buồm nhỏ của mình lên. Bằng cách này cùng với tác động của nước triều đang rút theo tính toán của tôi, tôi đi với tốc độ chừng một hải lý rưỡi một giờ. Chủ nhân của tôi và bạn bè của ông vẫn còn lại trên bờ khi tôi chưa hoàn toàn khuất dạng. Thỉnh thoảng vọng đến tai tôi tiếng kêu của con ngựa tía con (nó bao giờ cũng yêu quý tôi): “Hnuy illa nyha, majah Yahoo” (Yahoo thân yêu, hãy gìn giữ cẩn thận nhé).



Tôi hướng đến hòn đảo mà trước đó tôi đã thấy nhờ kính viễn vọng từ trên bờ. Tôi hi vọng rằng ở đó tôi sẽ tìm thấy được phương tiện để sống bằng lao động của chính mình. Tôi cảm thấy kinh sợ khi thoáng nghĩ tới việc quay về với xã hội của Yahoo và sống dưới sự cai trị của chúng. Vì trong tình trạng cô đơn mà tôi mong ước, ít ra tôi cũng có thể suy tưởng về những phẩm hạnh của các Ngựa-người có một không hai, tôi không muốn mình lại mạo hiểm lần nữa trong những thói hư tật xấu của giống nòi mình.


Hẳn độc giả còn nhớ câu chuyện tôi kể về việc các thủy thủ đã âm mưu chống lại tôi thế nào và đã cầm tù tôi trong buồng thuyền trưởng. Sự cầm cố này như tôi nhớ lại kéo dài mấy tuần lễ, trong khi tôi không biết con tàu đi theo hành trình nào.


Các thủy thủ sau khi thả tôi lên bờ với sự thề thốt thực lòng hay là vờ vĩnh cốt làm tôi là bản thân họ không biết chúng tôi đang ở vùng nào của trái đất. Tuy nhiên, tôi tính toán là chúng tôi hành trình theo tuyến cách mũi Hảo vọng chừng mười độ về phía Nam hay là ở gần vĩ tuyến 450 Nam. Tôi đã kết luận về điều này trên cơ sở nghe lỏm những câu chuyện của các thủy thủ về ý định của thuyền trưởng của chúng đi đến Madagascar và về việc chúng tôi ở vị trí Tây Nam của hòn đảo này. Mặc dù điều đó chỉ là phỏng đoán, nhưng dù thế nào tôi cũng giữ hành trình về phía Đông, hy vọng sẽ cập được bờ biển Tây Nam của New Zealand. Cạnh bờ biển này tôi dự tính tìm cho mình một hòn đảo nào đó phù hợp.


Trong suốt thời gian đó gió luôn luôn thổi theo hướng Tây và vào lúc sáu giờ chiều theo tính toán của tôi, tôi đã đi được về phía Đông ít nhất là mười tám hải lý, tôi nhận thấy cách tôi chừng nửa dặm có một hòn đảo nhỏ.


Đó là một ghềnh đá nhẵn nhụi với một cái vịnh nhỏ được nước thủy triều rửa sạch. Sau khi ghé thuyền vào đây, tôi leo lên ghềnh đá và phân biệt rõ một dải đất nằm ở phía Đông kéo dài từ Nam lên Bắc. Tôi ngủ đêm trên thuyền và sáng tinh mơ hôm sau tôi lại lên đường và chừng bảy giờ sáng tôi cập bờ Đông Nam của New Zealand


Bờ biển nơi tôi ghé vào hoàn toàn trống trải và không có người ở. Nhưng bởi vì tôi không có vũ khí nên tôi không dám đi sâu vào đất liền. Trên bờ tôi tìm được một số con sò và đem chúng ăn sống. Tôi sợ nếu mình đốt lửa thì sẽ gây sự chú ý của những thổ dân. Ba ngày liền tôi ăn hàu và các con sò khác mong muốn giữ số lương thực dự trữ nghèo nàn của mình càng lâu càng tốt. May mắn thay tôi tìm thấy một con suối nước ngọt, điều này củng cố lòng tin của tôi rất nhiều.


Sang ngày thứ tư tôi quyết định đi sâu một chút vào đất liền. Bất thình lình tôi nhìn thấy một nhóm thổ dân trên một ngọn đồi không cao cách tôi chừng năm trăm yard. Tất cả họ - những người đàn ông, đàn bà và trẻ con - đều hoàn toàn trần truồng và đứng ngồi cạnh đống lửa. Một người trong số họ nhìn thấy tôi và chỉ tôi cho những người khác. Năm người đàn ông lao ra khỏi chỗ và hướng về phía tôi, để những người đàn bà và trẻ em lại. Tôi chay ba chân bốn cẳng ra bờ, leo lên thuyền và ra khơi. Những thổ dân thấy tôi bỏ chạy liền đuổi theo tôi và trước khi tôi kịp ra xa bờ ở khoảng cách đủ xa thì họ bắn một mũi tên đuổi theo tôi, mũi tên đâm sâu vào đầu gối trái của tôi. Tôi sợ đây là một mũi tên tẩm thuốc độc. Khi tôi cảm thấy đã ra ngoài tầm tên bắn, tôi vội vã hút vết thương một cách cẩn thận và sau đó buộc chặt nó lại.


Tôi không biết quyết định phải làm gì. Tôi sợ quay lại chỗ đổ bộ ban đầu. Bởi thế tôi chọn hành trình lên phía Bắc, mặc dù phải chèo bằng tay. Trong khi nhìn xung quanh tìm một nơi thuận tiện để cập bến, tôi phát hiện một cánh buồm ở hướng Bắc Đông Bắc, mỗi lúc càng thấy nó rõ hơn. Tôi dao động mất một lúc không biết là nên đợi nó hay là không. Nhưng cuối cùng sự căm thù của tôi với giống Yahoo đã lấn át mọi toan tính khác. Tôi quay thuyền, hướng về phía Nam và đi vào cái vịnh mà ban sáng tôi đã rời đấy đi. Tôi dự tính thà nộp mình cho các thổ dân man rợ còn hơn là sống giữa các Yahoo châu Âu. Tôi lôi thuyền lên bờ còn bản thân thì trốn sau tảng đá ở bên con suối nước ngọt.


Con tàu biển tiến gần vào vịnh đến cự ly chừng nửa hải lý và phái một chiếc xuồng mang theo thùng lấy nước ngọt tiến vào bờ. Rõ ràng trên con tàu này người ta biết rất rõ chỗ này. Tôi nằm giữa các tảng đá và cũng đã quá muộn để tìm một nơi ẩn náu khác. Sau khi cập bờ, các thủy thủ ngay lập tức phát hiện ra chiếc thuyền của tôi. Họ quan sát nó rất kỹ càng và chẳng khó gì cũng đoán ra chủ nhân của nó đang ở đâu đó gần đây. Bốn người trong số họ bắt đầu quan sát cẩn thận từng khe đá, từng bụi cây và cuối cùng đã tìm thấy tôi trốn sau các tảng đá. Họ ngạc nhiên quan sát tôi trong bộ dạng kỳ quặc và vụng về mất một lúc; áo khoác bằng da thỏ, giày đế gỗ và tất lông thú. Hơn nữa theo bộ dạng này họ kết luận tôi không phải là thổ dân, bởi vì tất cả các thổ dân đều trần truồng. Một trong các thủy thủ ra lệnh bằng tiếng Bồ Đào Nha cho tôi đứng dậy và hỏi tôi là ai. Tôi hiểu anh ta rất rõ (vì tôi biết tiếng này) và trong khi tôi đứng dậy tôi nói tôi là một Yahoo bất hạnh, bị đuổi khỏi đất nước của các Ngựa-người và nài xin cho tôi được đi khỏi đây. Các thủy thủ ngạc nhiên khi nghe thấy tôi nói bằng tiếng Bồ Đào Nha. Qua sắc da mặt, họ nhận ra tôi là người châu Âu. Nhưng họ không thể nào hiểu tôi nói các từ “Yahoo” và “Ngựa-người” để chỉ cái gì. Đồng thời kiểu cách nói của tôi giống như tiếng ngựa hý đã khiến họ buồn cười. Run lên vì sợ hãi và căm thù, tôi lại một lần nữa xin đi khỏi đây và nhẹ nhàng rút lui về phía con thuyền của tôi. Nhưng họ giữ tôi lại và muốn biết tôi là người nước nào và tôi từ đâu tới đây. Tôi trả lời họ là tôi sinh ra ở Anh và tôi rời nơi đó cách đây năm năm, khi đất nước họ và đất nước tôi vẫn hữu hảo với nhau. Bởi thế tôi hy vọng rằng họ sẽ không đối xử với tôi như với kẻ thù; hơn nữa tôi không muốn độc ác với họ một chút nào. Tôi chỉ là một Yahoo bất hạnh và đi tìm một nơi trống vắng nào đó để sống nốt quãng đời còn lại.


Khi họ bắt đầu trò chuyện thì tôi có cảm giác chưa bao giờ nghe thấy và chưa bao giờ trông thấy một cái gì phản tự nhiên hơn. Điều này đối với tôi cũng kỳ quái như ở Anh nếu người ta thấy chó và bò bắt đầu trò chuyện, hoặc ở đất nước Ngựa-người - các Yahoo bắt đầu trò chuyện. Những người Bồ Đào Nha đáng kính cũng không kém phần ngạc nhiên trước bộ quần áo kỳ quái của tôi và cách nói không bình thường mặc dù họ hiểu tôi rất tốt. Họ đối với tôi rất lịch thiệp và tuyên bố rằng thuyền trưởng của họ hẳn sẽ chở tôi về Lisbon và từ đó tôi có thể tự về Tổ quốc mình.


Hai thủy thủ quyết định quay trở lại tàu để báo tin cho thuyền trưởng về những gì mà họ thấy và nhận mệnh lệnh của ông. Họ cảnh cáo tôi là nếu tôi không cam đoan với họ sẽ không bỏ chạy thì họ sẽ buộc phải dùng bạo lực đối với tôi. Tôi tính tốt hơn cả là đồng ý với đề nghị của họ. Họ rất muốn biết các chuyến phiêu lưu của tôi nhưng tôi lại biểu hiện hết sức trầm mặc. Khi đó họ cho rằng sự bất hạnh đã làm tổn thương trí tuệ của tôi.


Sau hai giờ chiếc xuồng chở thùng nước ngọt lúc nãy quay trở lại với mệnh lệnh của thuyền trưởng đưa tôi lên boong. Tôi quỳ gối xuống và van xin hãy tha cho tôi tự do. Nhưng tất cả đều công toi: các thủy thủ trói tôi lại và ném lên thuyền, chở tôi về tàu và đưa tôi vào buồng của thuyền trưởng.


Thuyền trưởng tên là Pedro de Mendez. Đó là một người tốt bụng và lịch thiệp. Ông yêu cầu tôi kể một ít về bản thân mình và cam đoan rằng trên tàu họ sẽ đối xử với tôi giống như đối với ông và nói rất nhiều điều lịch sự đối với tôi đến nỗi tôi kinh ngạc thấy sự lịch sự đến như thế có ở Yahoo. Tuy nhiên tôi vẫn im lặng và làm bộ ngờ nghệch và tôi suýt ngất chỉ vì mùi của thuyền trưởng này và các thủy thủ của ông. Cuối cùng tôi xin đem lại cho tôi đồ ăn trong số dự trữ lương thực trên thuyền của tôi. Nhưng thuyền trưởng ra lệnh đem lại cho tôi một con gà giò và rượu vang rất ngon. Ông cũng ra lệnh chuẩn bị cho tôi chăn chiếu trong một cabin rất sạch sẽ. Tôi không muốn cởi quần áo và cứ để nguyên thế đi nằm. Sau nửa giờ theo ước tính của tôi, thủy thủ đoàn đi ăn trưa, tôi lén lút bò khỏi cabin của mình và lẻn lên boong tàu, có ý định sẽ lao xuống biển và bơi đi trốn chỉ vì không muốn ở lại với các Yahoo. Nhưng một số thủy thủ đã ngăn cản tôi và báo cáo mưu đồ của tôi cho thuyền trưởng. Ông ra lệnh nhốt tôi trong cabin.


Sau ăn trưa Don Pedro đến chỗ tôi và muốn biết những nguyên nhân khiến tôi quyết định có hành vi tuyệt vọng như thế. Ông an ủi tôi là nguyện vọng duy nhất của ông là giúp đỡ tôi hết lòng theo khả năng của ông. Ông nói thật cảm động và tin tưởng khiến tôi dù thế nào cũng phải đồng ý tiếp xúc với ông như với một động vật có một chút trí tuệ. Tôi kể vắn tắt cho ông về các chuyến du lịch của tôi, về sự nổi loạn của thủy thủ đoàn trên con tàu của tôi, về đất nước mà những kẻ phiến loạn đã bỏ tôi lên và về ba năm lưu lại đấy của tôi. Thuyền trưởng tưởng nhầm câu chuyện của tôi là chuyện nhảm nhí hay ảo giác thì thật hết sức xúc phạm tôi. Tôi hoàn toàn bỏ thói dối trá vốn có ở một Yahoo và đã quên bẵng những khuynh hướng thông thường của chúng là hoài nghi đối với lời nói của đồng loại.


Tôi hỏi ông:
- Phải chăng ở Tổ quốc ông có phong tục ăn không nói có hay không?
Tôi cam đoan với ông là tôi hầu như quên hết ý nghĩa của từ “dối trá” và dù tôi có sống ở đất nước Ngựa-người hàng nghìn năm tôi sẽ chẳng bao giờ nghe thấy một điều dối trá ở chính những người hầu bét nhất. Hơn nữa, tôi hoàn toàn không phân biệt được ông có tin lời tôi hay không, tuy nhiên do biết ơn tấm lòng lịch thiệp của ông tôi sẵn sàng khoan dung đối với các thói xấu vốn có của ông và trả lời mọi câu hỏi và ý kiến phản bác của ông, những gì mà ông sẽ thích đặt ra cho tôi.


Thuyền trưởng là một con người thông minh, sau vô số ý định vạch ra những mâu thuẫn trong câu chuyện của tôi, ông đã rút ra ý kiến tốt hơn về sự trung thực của tôi. Nhưng ông tuyên bố, nếu tôi tha thiết như thế đối với chân lý thì phải đưa ra một lời hứa danh dự là sẽ không bao giờ mưu hại đến cuộc sống của bản thân một lần nữa trong suốt cuộc hành trình này, nếu khác đi ông sẽ giam tôi lại cho đến tận Lisbon. Tôi đưa ra lời hứa mà ông yêu cầu, nhưng sau đó tôi lại tuyên bố rằng sẵn sàng chịu nỗi bất hạnh nặng nề nhất chỉ có điều đừng quay về với xã hội Yahoo.


Trong thời gian hành trình của chúng tôi không xảy ra điều gì đáng kể. Do biết ơn thuyền trưởng mà tôi đôi khi chịu nhượng bộ trước yêu cầu chính đáng của ông và đồng ý ngồi nói chuyện với ông, cố gắng không biểu lộ sự khinh miệt của mình đối với con người. Nhưng dù sao điều đó thường xuyên lộ ra ở tôi còn thuyền trưởng làm ra vẻ chẳng nhận ra điều gì. Gần như cả ngày tôi ngồi trong cabin của mình để tránh không gặp bất cứ ai trong số thủy thủ. Thuyền trưởng nhiều lần thuyết phục tôi bỏ bộ quần áo lông thú đi. Ông đề nghị tôi mặc bộ quần áo tốt nhất của ông, nhưng tôi kiên quyết từ chối tất cả, không muốn mặc lên người mình những vật có đụng chạm tới cơ thể Yahoo. Tôi chỉ xin ông hai chiếc áo sơ-mi sạch. Chúng được giặt thật sạch để không thể nào dấy bẩn lên người tôi nữa. Tôi thay chúng hàng ngày và tự tay giặt.


Chúng tôi đến Lisbon ngày 15 tháng Mười một năm 1715. Trước khi lên bờ thuyền trưởng quàng lên vai tôi chiếc áo mưa của mình để đám đông đường phố không tụ tập lại quanh tôi. Ông đưa tôi đến nhà mình và theo yêu cầu khẩn khoản của tôi, ông thu xếp tôi ở trong một căn phòng ở tầng thượng, có cửa sổ trông xuống sân. Thuyền trưởng khuyên tôi đặt cho bản thân một cái áo khoác mới. Nhưng tôi không bao giờ chịu cho thợ may đo cơ thể tôi. Bởi vì Don Pedro có tầm vóc gần giống như tôi do đó cái áo khoác may cho ông cũng vừa với tôi. Ông còn cũng cấp cho tôi cả những thứ cần thiết khác. Tất cả chúng hoàn toàn mới nhưng dù sao tôi vẫn đem chúng ra phơi suốt cả một ngày trước khi mặc vào người.


Thuyền trưởng chưa có vợ và ông chỉ giữ có ba người hầu. Ông cấm họ phục vụ chúng tôi ở bàn. Nói chung, ông đối xử với tôi hết sức chu đáo, ông biểu hiện tính cách chân thành và hiểu rằng tôi đang dần dần làm quen với xã hội của ông. Cuối cùng ông đã thuyết phục được tôi nhìn ra cửa sổ trông ra vườn ở sau nhà. Sau đó tôi bắt đầu đi sang phòng khác. Có lần tôi nhìn ra cửa sổ trông xuống phố nhưng ngay sau đó sợ hãi giật bắn người lên. Một tuần sau thuyền trưởng đã khuyên được tôi cùng ông xuống dưới ngồi chơi ở cửa ra vào. Nỗi sợ hãi của tôi dần dần giảm đi, nhưng sự thù ghét và khinh miệt đối với mọi người dường như lại tăng lên. Cuối cùng tôi đã đánh bạo cùng với thuyền trưởng đi ra ngoài phố.


Chừng mười ngày sau khi tôi đến đây, Don Pedro người được tôi kể gì đó về gia đình tôi và các công việc trong gia đình, tuyên bố với tôi rằng nghĩa vụ của tôi là quay về Tổ quốc và sống ở nhà với vợ con. Ông nói rằng ngoài cảng có một con tàu chuẩn bị đi Anh đang đậu và biểu lộ sẵn sàng cung cấp cho tôi mọi thức cần thiết cho chuyến đi. Thật chán nếu kể tất cả những nguyên cớ ông đưa ra và những lời phản bác của tôi. Ông nói rằng hoàn toàn không thể nào tìm được một hoang đảo mà tôi mơ ước. Nhưng tại chính nhà mình tôi có thể làm gì mà tôi muốn và sống ẩn dật hoàn toàn.


Cuối cùng tôi chấp thuận sau khi thấy rằng chẳng có phương sách nào tốt hơn nữa. Tôi rời Lisbon ngày 24 tháng Mười một trên một con tàu buôn của Anh, nhưng ai là chủ nhân của nó tôi cũng không hỏi. đon Peđro tiễn tôi ra tàu và cho tôi vay hai mươi bảng Anh. Lúc tạm biệt ông ôm tôi thân thiết nhưng điều đó đối với tôi lại chẳng dễ chịu gì. Dọc đường tôi chẳng nói chuyện với thuyền trưởng cũng như các thủy thủy và chỉ ngồi suốt ngày trong cabin của mình như là bị ốm. Ngày 5 tháng Mười hai năm 1715 gần chín giờ sáng chúng tôi thả neo ở Downs, và khoảng ba giờ chiều tôi đã đến nhà mình ở Redriff.


Vợ và con tôi đón tôi hết sức ngạc nhiên và vui mừng. Từ lâu họ cho rằng tôi đã chết. Nhưng tôi cũng phải thừa nhận thẳng thắn rằng khi trông thấy họ tôi chỉ cảm thấy căm ghét, ghê tởm và khinh miệt.


Khi tôi vừa bước vào nhà, vợ tôi ôm chầm lấy tôi và hôn. Do sự va chạm này tôi ngã ra bất tỉnh suốt hơn một giờ. Khi tôi viết những dòng này thì đã năm năm trôi qua kể từ khi tôi quay về Anh. Trong suốt năm đầu tiên tôi không thể nào chịu được hình dáng của vợ và các con tôi. Nhưng cả cho đến giờ vợ con tôi vẫn không dám đụng đến bánh mì hoặc cốc uống nước của tôi, cho đến giờ tôi vẫn không thể nào cho phép họ nắm tay tôi.


Số tiền dôi ra đầu tiên tôi chỉ ngay để mua hai con ngựa con mà tôi nuôi trong một chuồng ngựa tuyệt đẹp. Sau chúng, người tôi yêu quý nhất là người chăn ngựa bởi vì từ người anh ta bao giờ cũng bốc mùi chuồng ngựa dễ chịu. Những con ngựa hiểu tôi khá tốt. Tôi trò chuyện với chúng ít nhất bốn giờ một ngày. Chúng không biết thế nào là yên, là cương nhưng rất nghe lời tôi và đối với nhau rất hòa thuận.
GULLIVER DU KÝ (Tập 2)
LỜI GIỚI THIỆU
PHẦN III- Chương I
Chương II
Chương III
Chương IV
Chương V
Chương VI
Chương VII
Chương VIII
Chương IX
Chương X
Chương XI
PHẦN IV - Chương 1
Chương II
Chương III
Chương IV
Chương V
Chương VI
Chương VII
Chương VIII
Chương IX
Chương X
Chương XI
Chương Kết