Chương hai muơi hai
Tác giả: Jules Verne & André Laurie
Một tháng sau, các vị khách từ Nôrôê và Xtôckhôm đã tới Val-Fere ở ngoại vi thành phố Brest để dự cuộc họp mặt gia đình trọng thể ở nhà của mẹ và ông Êrik. Bà Đuyren thiết tha mong muốn được những con người nhân từ, bình dị đã cứu con trai bà chia sẻ với bà niềm vui lớn lao không gì sánh nổi. Bà muốn dù thế nào chăng nữa cũng phải đón tiếp không những bà mẹ Katrina và Vanđa, bác Hecsêbom và Ôttô mà cả bác sĩ Svariênkrôna, Kaisa, Brêđêzhor và Maljarius tại nhà riêng của mình.
Sống giữa cảnh thiên nhiên khắc nghiệt của miền Brêtanh gần biển Armôrikan (một phần vịnh giáp bờ bán đảo Brêtanh) hẳn là các vị khách Na Uy cảm thấy mình đỡ bị cách biệt quê hương hơn là ở phố Đêvaren, Paris. Họ đã thực hiện các cuộc dạo chơi xa trong các khu rừng ở ngoại ô, thông báo cho nhau những điều mới được ngài Đuyren cho biết, bàn luận những chuyện tản mạn, đối chiếu những tin tức rời rạc, cố làm rõ toàn bộ sự việc liên quan đến Êrik mà họ thấy còn nhiều chỗ lờ mờ và khó hiểu. Và dần dần, qua các cuộc tọa đàm và tranh luận kéo dài, chân lý đã được xác lập.
Trước hết, Tuyđor Braun là ai? Món tư lợi nào đã khiến y với sự giúp sức của Patric Ô Đônôgan cản trở việc tìm kiếm gia đình của Êrik? Cái điều mà tên người Ailen bất hạnh đã nói ra, ý nghĩa biết bao! Hắn ta đã gọi Tuyđor Braun là Zhôns và chỉ biết y dưới cái tên ấy mà thôi. Mà chính Noi Zhôns chứ không phải ai khác lại là người cùng hùn vốn với cha của Êrik khai thác một nguồn dầu hỏa do một kỹ sư trẻ phát hiện ở Pensilvania! Chỉ cần xác định sự thật này thôi cũng đủ làm cho những sự việc mới đây còn cảm thấy bí ẩn bỗng trở nên sáng tỏ.
Vụ đắm tàu “Cintia" rất đáng ngờ, việc đứa bé bị rơi xuống biển, mà có thể cả cái chết của cha Êrik nữa - tất cả những điều ấy - than ôi! - đều là kết quả của một bản giao kèo vô cùng nguy hại mà ngài Đuyren đã phát hiện ra qua các giấy tờ còn để lại của con rể mình. Ngài đã kể lại nội dung bản giao kèo ấy, có giải thích thêm một số điều khoản.
- Trước khi cưới vợ mấy tháng - ngài Đuyren thông báo với các bạn của Êrik - con rể tôi có phát hiện một nguồn dầu mỏ ở gần Harisberg. Vì nó không đủ vốn để xác lập quyền sở hữu lô đất của mình, nên nó cảm thấy bị mất hết mọi lợi lộc do sự phát hiện ấy mang lại. Nhưng nó đã gặp ở đây một lão Noi Zhôns nào đấy xưng là kỹ nghệ gia ngành chăn nuôi ở miền Viễn Tây, kỳ thực, sau này mới biết, y là tên chuyên buôn bán người nô lệ ở Nam Karôlina.Y tự nguyện xin hùn một số vốn cần thiết để mua và sau đó khai thác mỏ dầu "Vanđalia". Nhưng, dưới hình thức đền bù phí tổn, y đã buộc Zhorzh ký một bản giao kèo hoàn toàn bất bình đẳng. Theo bản giao kèo ấy thì Noi Zhôns được tính phần lợi nhuận lớn hơn. Khi con gái tôi đã đi lấy chồng, tôi không biết gì về điều kiện của bản giao kèo cả, và nói chung, thì chính bản thân Zhorzh cũng không nghĩ ngợi gì về bản giao kèo ấy. Có thể nói rằng, nó không biết gì về chuyện đại loại như thế. Là người cực kỳ thông minh, toàn diện, vừa là kỹ sư, nhà hóa học, vừa là nhà cơ khí xuất sắc nó hoàn toàn không có kinh nghiệm trong những việc thương mại và do việc không am hiểu ấy của mình mà nó đã hai lần bị mất cơ nghiệp. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả trong quan hệ với tên Noi Zhôns nó cũng cả tin. Rất có thể là nó đã ký vào bản giao kèo song phương của gã kia ấn cho, mà không đọc trước. Đây là những điều khoản và kết luận chủ yếu tiêu biểu cho mẫu mực văn phong Ănglô - Sắcsông.
- … "Điều 3: Nguồn dầu lửa "Vanđalia" là tài sản toàn vẹn của người phát hiện ra nó là Zhorzh Đuyren và người hùn vốn là Noi Zhôns.
“Điều 4: Noi Zhôns được đặc quyền điều hành tất cả các khoản kinh phí, tiêu thụ sản phẩm, thu lại, thanh toán chi phí với sự cam kết hàng năm phải báo cáo trước người cùng công ty của mình và chia thực lãi với người cùng công ty nói trên. Về phía mình, Zhorzh Đuyren chịu trách nhiệm lãnh đạo các công tác và kỹ thuật khai thác nguồn dầu.
“Điều 5: Trong trường hợp nếu một trong hai người cộng chủ muốn bán phần của mình, thì người ấy phải ưu tiên bán cho người cùng công ty với mình, người mua sau khi được thông báo chính thức sẽ được dành thời hạn ba tháng để quyết định, sau đó sẽ trở thành người chủ duy nhất và trả cho người cùng công ty với mình trước đây một khoản tiền bằng một phần ba số tiền thực thu hàng năm được xác định theo bản kiểm kê cuối cùng.
“Điều 6: Chỉ có con của người cùng công ty mới được thừa kế các quyền lợi của người ấy. Nếu một trong số những người cùng công ty bị chết mà không có con, hoặc trong trường hợp bị chết khi một đứa con hoặc các con của người cùng công ty đã quá cố chưa đến tuổi hai mươi, thì người cộng chủ còn sống sẽ trở thành người sở hữu duy nhất của xí nghiệp và các khoản tiền vốn, loại trừ tất cả những người thừa kế khác của người quá cố.
- Bản giao kèo như vậy đó - Ngài Đuyren nói tiếp. Con rể tương lai của tôi đã ký bản giao kèo ấy trong lúc nó chưa nghĩ đến việc lấy vợ và trong khi mọi người chung quanh, có lẽ chỉ trừ một mình Noi Zhôns, chưa ai hình dung được việc khai thác nguồn dầu lửa "Vanđalia" sẽ đem lại những khoản thu nhập lớn như thế nào. Các công việc thăm dò chưa kết thúc và mới chỉ bắt đầu vài việc nắm tình hình thôi. Có lẽ tên Mỹ tính làm nguội sự hăng hái của người cùng công ty và gạt người ấy ra khỏi công việc, đã tìm mọi cách cường điệu những khó khăn của việc khai thác mỏ dầu để chẳng bao lâu nữa giành toàn quyền sở hữu về mình. Việc Zhorh lấy con gái tôi, việc sinh thằng cháu yêu quý của chúng tôi và việc bất ngờ xác định được giá trị to lớn của nguồn dầu, tất cả những điều đó, dĩ nhiên, đã làm thay đổi tình hình một cách căn bản. Bây giờ không thể nói đến chuyện Noi Zhôns mua với giá mạt cái lô đất sinh lời đó nữa rồi. Muốn có khả năng ấy thì chỉ có cách làm cho, đầu tiên là Zhorzh và sau đó là người thừa kế duy nhất của nó, biến khỏi mặt đất. Và thế là, sau khi nó lấy vợ được hai năm và sau khi đứa cháu trai của chúng tôi sinh được sáu tháng, xác của Zhorzh được tìm thấy bên cạnh một giếng khoan, mà theo lời các bác sĩ thì do bị hơi độc. Lúc ấy tôi không còn ở Mỹ nữa, bởi vì tôi đã được cử làm lãnh sự ở Riga trước khi xảy ra những sự kiện này. Vấn đề thừa kế đã được tòa án điều chỉnh lại. Noi Zhôns tỏ ra mình là người tốt và đã đồng ý thực hiện mọi nghĩa vụ đối với con gái tôi. Hồi ấy đã thỏa thuận là y sẽ vẫn như cũ tiếp tục điều hành các khoản vốn chung và cứ nửa năm một lần đem nộp vào ngân hàng trung tâm ở Niu-York phần thu nhập thực tế thuộc về đứa bé. Thế nhưng, thậm chí phần thu nhập của kỳ sáu tháng thứ nhất hắn đã không phải trả. Vì muốn mau chóng được gặp tôi, con gái tôi đã lọt vào số hành khách của tàu "Cintia” bị tai nạn trong những hoàn cảnh rất đáng nghi ngờ. Do đó, công ty bảo hiểm đã được dịp rũ bỏ mọi trách nhiệm, còn người thừa kế duy nhất của Zhorzh thì đã mất tích trong thời gian xảy ra tai nạn... Từ đó Noi Zhôns trở thành người toàn quyền sở hữu mỏ dầu "Vanđalia”, hàng năm đem lại cho y bình quân một trăm tám mươi nghìn đô la thực lãi.
- Và ngài cùng không khi nào nghi ngờ rằng y đã dính dáng vào tất cả những tai nạn tiếp theo vụ ấy? Brêđêthor hỏi.
- Tất nhiên, nghi ngờ chứ, điều đó là hoàn toàn tự nhiên, bởi vì sự chồng chất những thảm cảnh ngẫu nhiên ấy tiếc thay nhằm một mục đích đã quá rõ ràng. Nhưng tôi làm sao có thể lý giải được những điều nghi ngờ của mình trước cơ quan tư pháp? Trong tay tôi không có bằng cớ sự việc mà chỉ có những điều phỏng đoán mơ hồ. Theo kinh nghiệm, tôi biết rằng khó có thể dựa được vào tòa án, khi vấn đề lại liên quan đến việc tranh chấp giữa công dân của các quốc gia khác nhau... Hơn nữa, tôi cũng muốn an ủi hoặc ít nhất muốn tránh cho con gái tôi khỏi những điều suy nghĩ phiền toái, mà việc kiện cáo thì chỉ có làm tăng thêm những nỗi đau khổ của con tôi mà thôi. Đấy là chưa nói đến chuyện người ta có thể gán cho tôi là hám lợi. Có đáng tiếc về chuyện ấy không? Nhưng tôi nghĩ và vẫn tự tin rằng tôi có làm thì đằng nào cũng chẳng đạt được kết quả gì đâu. Các ngài tự biết đấy, thậm chí ngay bây giờ đây khi đã thu thập được đủ tình hình và sự việc mà chúng ta đã biết, chúng tôi cũng không dễ gì đi đến một kết luận nào đó dứt khoát được!
- Nhưng Patric Ô Đônôgan có thể đóng vai trò như thế nào trong việc này? - bác sĩ Svariênkrôna nêu câu hỏi.
- Về Patric Ô Đônôgan, cũng như về nhiều chuyện khác - ngài Đuyren nói - chúng ta đành chỉ giới hạn ở những dự đoán mà thôi. Nhưng có một căn cứ mà tôi thấy chắc chắn hơn cả là thế này. Đấy chính là Ô Đônôgan, thủy thủ tập sự trên tàu "Cintia", giúp việc cho thuyền trưởng, thường xuyên tiếp xúc với các hành khách hạng nhất ăn trưa tại phòng chung. Tất nhiên là hắn biết tên, biết nguồn gốc người Pháp của con gái tôi và có thể nhận ra được con gái tôi trong đám đông hành khách. Liệu Noi Zhôns có giao cho hắn một công việc tội lỗi nào không? Tên thủy thủ ấy có nhúng tay vào vụ đắm tàu "Cintia” đáng ngờ không, hoặc đơn giản hơn, vào vụ bỏ đứa bé xuống biển không? Vì hắn không còn nữa, nên chúng ta chẳng bao giờ biết được điều ấy. Nhưng dù thế nào thì Patric Ô Đônôgan cũng hiểu rõ "đứa bé trên phao cứu hộ" có ý nghĩa như thế nào đối với người cùng công ty với Zhorzh Đuyren đã quá cố. Mà một người như Ô Đônôgan, cái tên lười biếng và con sâu rượu ấy, hoàn toàn có thể nghĩ đến chuyện lợi dụng những tin tức về đứa bé vào những mục đích vì lợi. Tên Ô Đônôgan có biết rằng "đứa bé trên phao cứu hộ" vẫn còn sống không? Phải chăng chính hắn đã giúp cứu đứa bé bằng cách hoặc là đã vớt cháu bé trên biển, rồi sau đó đem để vào một nơi gần Nôrôê, hoặc là bằng một cách khác nào đấy? Đó cũng là điều bí ẩn. Nhưng, có một điều chắc chắn là: Hắn đã báo cho Noi Zhôns biết đứa bé vẫn còn sống sau vụ đắm tàu và rằng hắn, Patric, biết nơi đứa bé đã được cứu vớt. Và dĩ nhiên là hắn không quên hăm dọa Noi Zhôns rằng đứa bé “trên phao cứu hộ" sẽ biết hết mọi chuyện nếu như có điều chẳng lành nào đó sẽ xảy ra với hắn - Patric Ô Đônôgan. Noi Zhôns đã buộc phải trả công cho sự im lặng của hắn. Đó chắc chắn là sự thu nhập không thường xuyên mà tên người Ailen đã sử dụng ở Niu-York mỗi lần hắn đến đấy.
- Tôi cảm thấy điều ấy rất đúng với sự thật - Brêđêzhor nói - Và tôi xin nói thêm ý kiến cá nhân là các sự kiện tiếp theo đó hoàn toàn đúng với dự đoán của ngài. Những thông báo của bác sĩ Svariênkrôna trên báo chí đã làm cho tên Noi Zhôns lo lắng. Hắn đã làm tất cả những gì có thể để thoát khỏi tên Patric Ô Đônôgan, nhưng buộc phải hết sức thận trọng. Bởi vì tên Ailen đã nói những biện pháp đề phòng của hắn cho Noi Zhôns biết rồi. Noi Zhôns có lẽ đã mang những điều thông báo này ra dọa hắn, buộc hắn phải tránh sự can thiệp của cảnh sát. Kết luận này được rút ra từ câu chuyện của Boul, chủ tửu quán "Mỏ neo đỏ” ở Niu-York, và từ bản thân việc Patric Ô Đônôgan vội vã chuồn khỏi đây. Hẳn là hắn cho rằng người ta có thể bắt hắn như bắt một tên tội phạm và giao nộp cho một nước khác, nên hắn đã lánh đến tận nơi heo hút nhất ở vùng cực Bắc (vùng các dân tộc ít người như Nhenhét, Chukchi và một số dân tộc khác ở cực Bắc nước Nga) này, hơn nữa, lại mang một cái tên khác. Rõ ràng là Noi Zhôns đã mớm cho hắn cái ý đó, và từ đấy tên Zhôns đã tự coi mình được bảo đảm an toàn, thoát khỏi mọi điều bất trắc. Nhưng, những lần thông báo kiên trì tìm Patric Ô Đônôgan, như người ta nói, đã xoáy vào tim óc tên Zhôns, Cho nên thậm chí y đã phải chấp nhận một chuyến đặc biệt đến Xtôckhôm để buộc chúng ta phải tin Patric Ô Đônôgan đã chết và tận mắt thấy rõ ràng cuộc điều tra của chúng ta đã tiến khá xa. Cuối cùng, một thông tin từ tàu "Vêga" đã được công bố và "Aljaska” đã lên đường bơi đến các biển Bắc cực. Noi Zhôns, hay Tuyđor Braun cũng vậy, thấy không tránh khỏi cái chết, bởi vì y có cơ sở để không tin vào Patric Ô Đônôgan, nên đã không dừng lại trước bất kỳ tội ác nào, miễn sao hắn khỏi bị trừng trị là được. May quá, mọi sự kết thúc tốt đẹp đối với chúng ta và bây giờ chúng ta có quyền nói rằng chúng ta đã thoát nợ một cách nhẹ nhàng!
- Biết đâu đấy có thể là những thử thách đã qua rốt cuộc đã giúp chúng ta đạt tới mục đích cũng nên? - bác sĩ nói - Nếu không có việc bất hạnh ở Bas-Fruad thì có lẽ chúng ta đã vẫn đi con đường cũ qua kênh Xuyê và đến eo biển Bêrinh chậm, thành ra không gặp được “Vêga” ở đó rồi còn gì. Và càng ít tin được rằng chúng ta có thể moi được ở Patric Ô Đônôgan cái lời duy nhất đã giúp ta tìm ra được dấu vết tên tội phạm ấy, nếu như chúng ta gặp hắn trong đám của Tuyđor Braun!... Như vậy là cuộc hành trình của chúng ta, mặc dầu lúc đầu có những chuyện bi thảm thật, nhưng cuối cùng cũng đã giúp chúng ta tìm được gia đình của Êrik. Đó là nhờ hành trình vòng quanh thế giới của "Aljaska” đã làm cho cậu chàng trở nên tiếng tăm như vậy!
- Vâng - bà Đuyren nói, âu yếm xoa mái tóc xoăn của con trai - Vinh quang đã giúp cho cháu trở về với tôi.
Đoạn bà nói thêm :
- Tội lỗi đã cướp mất thằng bé của tôi, còn sự nhân từ của các bạn chẳng những đã bảo toàn được cháu mà còn làm cho cháu trở thành con người có tiếng tăm.
- Và hơn thế nữa, cái tên súc sinh Noi Zhôns ấy, thật là ngoài ý muốn của y, đã phải trả cho cháu một khoản tài sản mà nhiều người giàu ở Mỹ cũng phải phát ghen! - Brêđêzhor kêu lên.
Mọi người nhìn ông với vẻ ngạc nhiên.
- Không còn phải bàn cãi gì nữa - ngài trạng sư lão luyện nói tiếp - Chẳng phải Êrik đã không được thừa kế của cha mình những khoản thu nhập do dầu mỏ "Vanđalia" đem lại đó sao? Chẳng phải cháu đã từng suốt hai mươi năm bị tước đoạt khoản thu nhập ấy một cách bất hợp pháp đó sao? Và chẳng phải đã có đủ những chứng cứ đơn giản nhất của số người đã biết cháu từ hồi còn bé, kể từ bác Hecsêbom và bà Katrina, vợ bác, cho đến ngài Maljarius và chúng tôi, để phục hồi dòng họ của cháu và công nhận quyền thừa kế của cháu đó sao?
Nếu Noi Zhôns còn để lại con cái, thì chúng phải chịu trách nhiệm trước pháp lý về món nợ lớn quá hạn ấy; số nợ này có lẽ sẽ ngốn hết toàn bộ phần vốn chung thuộc về chúng. Nếu tên bất nhân ấy không có con, thì theo những điều kiện của bản giao kèo mà ngài Đuyren đã đọc cho chúng ta nghe, Êrik sẽ là người thừa kế hợp pháp duy nhất toàn bộ tài sản ấy. Trong mọi trường hợp, Êrik sẽ phải có ở Pensilvania một khoản thu nhập hàng năm ít nhất là một trăm năm mươi hoặc hai trăm ngàn đô la.
- Úi chà! - bác sĩ Svanênkrôna tươi cười nói - các bạn đã thấy chàng trai đánh cá nhỏ bé xứ Nôrôê chưa! Bây giờ đây anh chàng đã có một món tài sản lớn đấy chứ!... Một người được giải thưởng của Hội địa lý, người đầu tiên thực hiện cuộc hành trình vòng quanh thế giới qua Bắc cực, chàng trai có khoản thu nhập "khiêm tốn" hai trăm ngàn đô la một năm - một chú rể như thế dễ gì kiếm nổi ở Xtôckhôm! Cháu nghĩ thế nào, hả Kaisa?
Trước lời nhận xét hài hước ấy, mà hiển nhiên là người bác của cô cháu gái không nghi ngờ tính chất tàn nhẫn của nó, cô gái đỏ bừng mặt. Đến lúc ấy Kaisa mới nhủ mình là đã không biết nhìn xa, đã "đẩy" mất một anh chàng ái mộ xứng đáng như vậy, và tới đây cần phải quan tâm tới anh chàng nhiều hơn mới được.
Nhưng, Êrik, chẳng lấy gì làm lạ, không cảm thấy có sự gắn bó gì với cô gái nữa, nhất là bây giờ, khi những lời nhận xét đầy vẻ miệt thị của cô ta đã không thể nào xúc phạm được lòng tự ái của chàng nữa. Có lẽ sự xa cách và những điều suy nghĩ trong những giờ đứng gác đêm đằng đẵng đã giúp Êrik hiểu rõ tâm hồn lạnh nhạt của Kaisa. Có lẽ chàng đã nhận thức quá rõ rằng giờ đây cô ta đã không thể coi chàng là “đứa con rơi đáng thương” nữa. Nhưng từ nay chàng chỉ biểu hiện với cô ta một sự chú ý cần thiết nhất, như đối với một cô gái trẻ và cô cháu gái của bác sĩ Svariênkrôna mà thôi.
Chàng tỏ ra thích Vanđa hơn. Vanđa ngày càng có sức hấp dẫn hơn. Lòng nhân hậu hiếm có, vẻ kiều diễm bẩm sinh, sự cao thượng và tấm lòng thành của nàng đã thu hút được sự cảm tình của tất cả những ai biết nàng. Nàng ở Val-Fere chưa đầy một tuần lễ mà bà Đuyren tuyên bố công khai rằng bà không thể tưởng tượng được là sẽ phải chia tay với nàng.
Êrik phải ra tay thu xếp ổn thỏa mọi chuyện. Chàng đã thỏa thuận được với ông Hecsêbom và Katrina cho Vanđa ở lại Pháp, nhưng với điều kiện tất yếu là hàng năm nàng sẽ cùng với chàng về thăm Nôrôê. Chàng rất muốn đưa bác sĩ Svariênkrôna cùng tất cả gia đình sang Brêtanh, và thậm chí còn đề nghị chuyển ngôi nhà gỗ mà chàng đã từng sống qua thời thơ ấu, về dựng lại trên bờ vùng biển Brest. Nhưng kế hoạch di chuyển chung ấy đã được thừa nhận là thực tế không thể thực hiện được. Bác Hecsêbom và bà Katrina đều nói rằng về tuổi già không dễ dàng thay đổi được nếp sống đã quen, vả lại họ sẽ không cảm thấy được hạnh phúc khi sống ở nước người, vì không biết tiếng và phong tục tập quán của nước ấy. Êrik phải đành lòng đồng ý để bố mẹ nuôi trở về Tổ quốc theo nguyện vọng của họ, và chàng đã bảo đảm cho bố mẹ nuôi một cuộc sống đầy đủ mà từ trước đến nay cả cuộc đời lao động lương thiện của họ cũng không thể làm ra được thế.
Êrik muốn ít ra cũng giữ được Ôttô ở lại, nhưng cả người anh nuôi của chàng cũng thích vùng biển của mình hơn mọi vùng biển trên thế giới và không thấy viễn cảnh nào hấp dẫn hơn cuộc sống gian truân của người đánh cá. Nhưng nếu đã nói thực đến cùng thì cần phải nói rằng những bím tóc vàng và đôi mắt xanh của Regnilđa, con gái viên quản lý nhà máy dầu cá, cũng đã có sự can dự nào đấy vào sự gắn bó không gì ngăn được của Ôttô đối với Nôrôê. Cho dù thế nào thì ta cũng có thể đi đến kết luận như vậy sau khi được biết rằng chàng định cưới nàng vào lễ Noel tới.
Ngài Maljarius đang trù tính chẳng bao lâu nữa sẽ lại dạy con cái của chúng học như đã từng dạy Êrik và Vanđa, ông lại đã trở về với trách nhiệm khiêm tốn của mình ở trường làng, sau khi đã chia sẻ cùng với thuyền trưởng tàu "Aljaska" những niềm vinh dự mà Hội địa lý Pháp đã dành cho họ. Hiện ông đang chỉnh lại bản thảo của công trình lao động tuyệt vời của mình về hệ thực vật của các biển Bắc cực mà Hội các nhà nghiên cứu tự nhiên Thụy Điển (Hội này mang tên nhà vạn vật học nổi tiếng của Thụy Điển, tên là Linhây Karl (1707-1778)) đã nhận xuất bản.
Nói về bác sĩ Svariênkrôna thì ông cho đến nay vẫn chưa hoàn thành việc miêu tả các tượng đài cổ xưa, một công trình sẽ phải làm cho tên tuổi của ông trở nên bất diệt.
Vụ kiện cuối cùng của trạng sư Brêđêzhor là vụ do ông khởi tố nhằm phục hồi những quyền hợp pháp của Êrik đối với mỏ dầu "Vanđalia". Vụ kiện đã thắng chẳng những ở tòa sơ thẩm, mà còn cả ở tòa thượng thẩm, và là một sự thành công không nhỏ thậm chí đối với ngay cả một trạng sư tài giỏi như thế.
Êrik đã sử dụng thắng lợi này và số tài sản mà chàng được hưởng để mua lại chiếc tàu "Aljaska" mà chàng đã biến thành chiếc tàu buồm dạo chơi. Hàng năm chàng dùng nó để cùng với bà Đuyren và Vanđa đi thăm bố mẹ nuôi của mình ở Nôrôê. Mặc dù nhân cách và quốc tịch của chàng đã được xác nhận về mặt pháp lý và chàng đã mang tên hợp pháp là Emil Đuyren, có thêm tên Hecsêbom nữa, nhưng mọi người thân thiết gần gũi vẫn theo thói quen tiếp tục gọi chàng là Êrik.
Ước muốn thầm kín của bà Đuyren đến một lúc nào đó được thấy con trai mình trở thành chồng Vanđa mà bà yêu quý như con gái ruột, rất trùng hợp với nguyện vọng của chính Êrik, cho nên cái ngày nguyện vọng ấy được thực hiện không còn xa nữa.
Còn Kaisa vẫn chưa kén được "đám thích hợp", nên vẫn là cô gái chưa chồng, tự oán mình, như người ta nói, đã để "xểnh ăn".
Bác sĩ Svariênkrôna, trạng sư Brêđêzhor và giáo sư Hostedt vẫn chơi bài như cũ.
Một buổi tối nọ, khi bác sĩ chơi bài dở hơn mọi hôm, Brêđêzhor đã gõ gõ những ngón tay lên hộp đựng thuốc lá nhắc ông ta về vụ cá cược đã bị lãng quên từ lâu.
- Thế khi nào thì cuối cùng ngài chịu hạ cố gửi cho tôi cuốn Plini của ngài do Alđ Manuxija xuất bản? - Ngài trạng sư hỏi với ánh mắt hòa bình. Hy vọng rằng bây giờ ngài không còn cho Êrik thuộc gốc người Ailen nữa chứ?
Mặc dù có bị mất tinh thần trước cuộc tấn công bất ngờ ấy, nhưng bác sĩ cũng đã kịp trấn tĩnh nói với vẻ tin chắc:
- Biết làm sao được! Nếu ngay đến cựu tổng thống nước Cộng hòa Pháp (ý nói Mak Mahôn, Tổng thống Pháp năm 1873-1879) còn xuất thân từ dòng dõi vua Ailen thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nếu như họ nhà Đuyren cũng là gốc Ailen.
- Có thể lắm, Brêđezhor trả lời - Chỉ cần ngài chứng minh cho, và tôi xin sẵn lòng gửi cho ngài cuốn Kvintilian của tôi.
HẾT