Chương mười năm
Tác giả: Jules Verne & André Laurie
Khi bờ biển nước Pháp đã khuất sau chân trời, Êrik mời ba người bạn lớn và cố vấn của mình tới phòng sĩ quan dự cuộc nói chuyện quan trọng.
- Con đã suy nghĩ nhiều về những tình huống đã diễn ra trong cuộc hành trình của chúng ta từ ngày rời Xtôckhôm đến giờ - chàng nói với họ - Tự bản thân con đã rút ra điều kết luận: Chúng ta còn phải gặp nhiều vướng mắc và trở ngại mới nữa trên đường đi. Kẻ đã cả gan đưa chúng ta tới chỗ chết ở gần Bas-Fruađ sẽ không muốn thừa nhận sự thất bại đâu... Có thể lắm, hắn đang phục kích chúng ta ở Ghibraltar. Ở Malta hoặc ở nơi nào khác nào đó... Nếu hắn không đạt được ý định giết chúng ta thì con tin chắc rằng hắn sẽ làm tất cả những gì có thể được để cầm chân chúng ta và không cho chúng ta đến được eo biển Bêrinh trong mùa hè, khi tàu bè có thể qua lại Bắc Băng Dương.
- Tôi cũng đi đến kết luận như vậy đó - Brêđêzhor tuyên bố - nhưng tôi để bụng thôi, vì chúng tôi không muốn làm cho cháu mất niềm hy vọng cuối cùng, cháu thân mến của tôi ạ. Tôi tin chắc rằng từ nay chúng ta phải từ bỏ ý nghĩ có thể vượt qua quãng đường từ đây đến eo biển Bêrinh trong ba tháng trời.
- Ý kiến tôi cũng như vậy - bác sĩ nói.
Về phía mình, Maljarius cũng gật đầu tỏ ý tán thành điều đó.
- Như thế là - Êrik nói - kết luận của tất cả chúng ta đều giống nhau. Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?
- Chỉ có một cách phù hợp với hoàn cảnh là - Brêđêzhor trả lời - từ bỏ cái sự nghiệp mà chính chúng ta thừa nhận là không thể hoàn thành được và quay về Xtôckhôm. Cháu tự hiểu điều đó, cháu ạ, và cả ba chúng ta đều ủng hộ cháu về chỗ biết nhìn thẳng vào sự thật.
- Một lời khen như thế con đâu dám nhận ạ! - Êrik mỉm cười, kêu lên - Con hoàn toàn chưa xứng đáng với lời khen ấy! Thậm chí con không nghĩ đến việc từ bỏ mục đích của chúng ta và càng không cho rằng mục đích ấy không đạt được... Con tin chắc chúng ta sẽ đạt được mục đích ấy, miễn sao phá được những âm mưu bỉ ổi của tên đê tiện đang rình đón chúng ta trên đường, và cách duy nhất là thay đổi hoàn toàn tuyến đường đi.
- Mọi sự thay đổi tuyến đường đi chỉ tăng thêm sự khó khăn mà thôi - bác sĩ phản đối. Vì chúng ta đã chọn con đường ngắn nhất rồi còn gì. Nếu không dễ dàng đến eo biển Bêrinh trong ba tháng bằng đường đi qua Địa Trung Hải và kênh Xuyê thì càng không thể nào đi qua mũi Hảo Vọng hoặc mũi Horn được. Mỗi tuyến đường ấy mất ít nhất năm hoặc sáu tháng.
- Nhưng còn có một tuyến nữa không những không kéo dài, mà ngược lại, rút ngắn thời hạn bơi của chúng ta. Đi theo đó, chúng ta đảm bảo tránh được việc gặp Tuyđor Braun - Êrik nói, bình tĩnh chờ đợi ý kiến phản đối.
- Còn một tuyến đường nữa ư? - bác sĩ kêu lên - Trời ơi tôi đâu biết đường ấy, phải chăng con muốn nói kênh đào Panama. Nhưng, theo như tôi được biết, thì con đường ấy chưa được khai thông cho tàu bè qua lại và công việc xây dựng kênh ít nhất vài năm nữa mới hoàn thành kia (Kênh đào Panama khai thông cho tàu bè qua lại năm 1914).
- Con cũng chưa nghĩ đến kênh đào Panama, cũng như mũi Horn hay mũi Hảo Vọng - chàng thuyền trưởng trẻ nói tiếp - Con muốn nói đến một con đường hoàn toàn khác, con đường duy nhất mà theo con sau ba tháng chúng ta có thể đến được eo biển Bêrinh... Đó là Bắc Băng Dương: đó là con đường Tây Bắc!
Thấy đề nghị bất ngờ ấy của mình làm cho những người cùng đi sửng sốt, Êrik thấy cần thiết nói đầy đủ lý do.
- Con đường Tây Bắc - chàng nói - bây giờ đây không đáng sợ và giày vò các nhà hàng hải như trước đây nữa. Tất nhiên, đây không phải là tuyến đường bình thường. Bởi vì trong một năm chỉ vỏn vẹn có tám đến mười tuần lễ nó không bị đóng băng mà thôi. Nhưng đổi lại con đường này đã được nghiên cứu kỹ, được vẽ chính xác nhất trên bản đồ và hiện đang được hàng trăm tàu săn cá voi sử dụng. Đúng thật, tàu từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương rất ít khi đi theo đường này. Tàu bắt đầu đi vào đường này, bắt đầu từ phía này hay phía kia hầu như không bao giờ đi suốt nó từ đầu đến cuối. Và tất nhiên, có thể xảy ra tình hình là những điều kiện tạo cho chúng ta không thuận lợi và chúng ta sẽ không thể vượt qua con đường đó. Không loại trừ khả năng là đúng lúc chúng ta cần thì con đường bị băng đóng kín và sau đó, đến khi được khai thông thì muộn mất rồi. Do đó chúng ta cứ đánh liều đi. Nhưng cũng có nhiều cơ hội để thành công, trong khi những tuyến khác lại định trước cho chúng ta một sự thất bại chắc chắn. Và bởi vậy, ý thức trách nhiệm, quyền hạn và sự tài trợ của mọi người cho chúng ta buộc chúng ta phải chấp nhận quyết định này, một quyết định duy nhất tạo điều kiện để đến eo biển Bêrinh kịp thời. Một chiếc tàu bình thường chỉ thích hợp trên biển nước ấm hẳn là không dám chấp nhận một quyết định như thế. Nhưng với một tàu như "Aljaska" được trang bị đặc biệt để chạy trên vùng Bắc Cực thì không có gì phải do dự cả. Và, cuối cùng con cần phải tuyên bố rằng, có thể con trở về Xtôckhôm mà không tìm thấy Norđenshelđ, nhưng điều ấy sẽ không xảy ra trước khi con sử dụng tất cả những biện pháp để giúp ông.
Những kết luận của Êrik rất thuyết phục, đến nỗi không một ai có ý định bác bỏ cả. Bác sĩ, Brêđezhor và Maljarius có thể phản đối được điều gì không? Họ đã hình dung rõ ràng những khó khăn của kế hoạch mới. Những, ít ra những khó khăn ấy có thể khắc phục được, trong khi đó bất kỳ tuyến đường nào khác đều không có hy vọng gì. Ngoài ra, họ không thể không thừa nhận theo Êrik rằng, trong mọi hoàn cảnh đeo đuổi sự nghiệp đến cùng và trở về Xtockhôm một cách vẻ vang còn hơn là bỏ dở chuyến đi giữa chừng.
- Tôi chỉ có một điều không đồng ý quan trọng - bác sĩ Svariênkôna nói sau mấy phút suy nghĩ sâu sắc - Làm sao ta có thể dự trữ thêm than trên vùng Bắc cực? Rõ ràng là thiếu nhiên liệu thì chả có gì mà nghĩ đến việc vượt qua con đường Tây - Bắc trong thời gian ngắn.
- Con đã thấy được điều khó khăn duy nhất thực sự nghiêm trọng ấy - Êrik đáp - và con cho rằng khó khăn ấy là không thể khắc phục được. Thay vì đi hướng Gibarlar và Malta, nơi chắc chắn có những quỉ kế mới của Tuydor Braun đang rình rập sẵn, thì chúng ta đi Luân Đôn. Từ đó sẽ đánh điện theo đường dây cáp xuyên Đại Tây Dương cho một trong số các nhà buôn của Mônrêal; yêu cầu phái ngay đến vịnh Bafinov một chiếc tàu chở than và đợi chúng ta ở đó. Đồng thời con sẽ gửi một bức điện như thế đến SanFransiscô để chiếc tàu thứ hai cũng sẽ gặp “Aljaska” ở eo biển Bêrinh. Hiện thời chúng ta vẫn còn khá nhiều nguyên liệu, thậm chí còn dư chút ít. Bởi vì tuyến đường mới không đòi hỏi nhiều nhiên liệu như tuyến đường trước đây, khi ta định bơi qua các bờ biển châu Á. Con đường chúng ta bây giờ sẽ ngắn hơn nhiều! Chúng ta chẳng cần gì phải mong đến eo biển Bafinôv trước cuối tháng năm, và vì thế, may ra thì những ngày cuối tháng Sáu chúng ta đã đến eo biển Bêrinh rồi. Những người cung cấp hàng cho chúng ta ở Mônrêal và SanFransiscô cũng sẽ có đủ thời gian thực hiện đơn đặt hàng của chúng ta. Còn việc thanh toán thì do nhà băng Luân Đôn đảm nhận. Như vậy là đối với chúng ta con đường Tây - Bắc có thật sự sẽ không bị đóng băng không? Tất nhiên điều ấy không tùy thuộc vào chúng ta. Nhưng nếu thậm chí nó không đi được thì ít nhất chúng ta cũng có thể tự an ủi mình rằng chúng ta đã thử mọi cách để đạt được mục đích!
- Hoan hô, hoan hô, chú bé của tôi! - Maljarius kêu lên - Những chứng cứ của con không thể bác bỏ được.
- Bình tĩnh đã, bình tĩnh đã, thưa ngài - Brêđêzhor nói - Ta đừng vội say mê. Tôi có một ý kiến không tán thành khác khá xác đáng đây Êrik yêu quí. Không lẽ con không nghĩ rằng "Aljaska" lặng lẽ bơi trên sông Temzơ chăng? Tất nhiên là không rồi. Có đúng vậy không nào? Báo chí sẽ nói việc nó đến đây. Các hãng thông tấn sẽ đưa tin về nó. Việc nó đến Luân Đôn thì cả Tuyđor cũng sẽ biết. Hắn sẽ biết kế hoạch của chúng ta thay đổi, còn hắn, thì có cái gì cản trở hắn cũng thay đổi kế hoạch của mình chứ? Cháu có cho rằng, chẳng hạn, hắn sẽ cản trở những tàu chở than mà nếu thiếu than thì cháu cũng chẳng đạt đến cái gì không?
- Đúng quá - Êrik trả lời - và đây lại là một lần nữa khẳng định rằng chúng ta cần phải dự kiến hết mọi điều một cách cẩn thận. Nghĩa là chúng ta không bơi đến Luân Đôn nữa! Vậy thì chúng ta dừng ở Lisabon, vẫn trên đường cũ đi Ghibraltar và kênh Xuyê, sau đó cử một người dấu tên đến Mađrit, liên hệ bằng điện báo với Mônrêan và San-Fransisco để bảo đảm có tàu chở than. Nhiệm vụ của các tàu này không ai được biết cả, và chúng sẽ đậu ở một địa điểm nào đó theo lệnh của thuyền trưởng các tàu ấy, họ sẽ được thông báo khẩu lệnh qui ước.
- Đấy lại là chuyện khác! Với điều kiện như vậy thì hầu như Tuyđor Braun không thể nào bám theo đấu vết của ta được!
- Bác sĩ muốn nói lần theo dấu vết của con, bởi vì con hy vọng rằng bác sĩ sẽ không định đi với con đến biển Bắc cực, có phải thế không ạ? Êrik hỏi.
- Quái lạ vậy! Tôi muốn nhìn thẳng vào mọi người với lương tâm trong sạch để không kẻ nào dám nói rằng có một tên xỏ lá nào đó đại loại như Tuyđor Braun đã khiến tôi phải rút lui! Bác sĩ tuyên bố.
- Cả tôi cũng thế! - Brêđezhor và Maljarius đồng thanh kêu lên.
Chàng thuyền trưởng đã quyết định thuyết phục những người bạn lớn của mình, giải thích rằng một quyết định như thế liên quan đến nhiều chuyện nguy hiểm, rằng du lịch trong đêm Bắc cực sẽ đơn điệu và tẻ nhạt, nặng nề. Nhưng, những lý luận của chàng không tác dụng gì cả. Những người bạn lớn của chàng nói rằng sau khi họ vượt qua ngần ấy thử thách, bây giờ điều vinh dự là hoàn thành cuộc du hành đến cùng. Cùng nhau ở lại, họ có thể giúp nhau giảm bớt những khó khăn trong cuộc hành trình trên biển sắp tới. Chẳng lẽ không biện pháp gì đề phòng cho hành khách của "Aljaska" khỏi bị lạnh quá sao? Ai chứ những người Thụy Điển và Na Uy thì băng giá chẳng làm họ sờn lòng!
Tóm lại là Êrik đã chịu nhượng bộ và đồng ý thay đổi tuyến đường, nhưng không kéo theo sự thay đổi nào của thành phần thám hiểm.
Đã đến lúc cần phải làm sao vượt qua phần đường thứ nhất nhanh hơn nữa. Ngày 2 tháng Tư. "Aljaska" thả neo ở Lisabon. Trước khi báo chí Bồ Đào Nha kịp báo tin về việc tàu tới đây, Bređêzhor đã có mặt ở Mađrit, với sự giúp đỡ của nhà băng, ông đã dùng đường cáp điện báo xuyên qua Đại Tây Dương liên lạc với hai hãng buôn lớn ở Mônrêal và SanFransiscô, ông đã thỏa thuận về việc phái hai tàu chở than đến những nơi qui định và thông báo khẩu lệnh để sau này họ nhận biết Êrik. Khẩu lệnh ấy chẳng phải gì khác, đó chính là câu danh ngôn “Semperiđem” đã được thêu trên vài thứ đồ dùng của hài nhi nằm trong nôi để trên chiếc phao cứu hộ năm nào. Cuối cùng, ngày 9 tháng Tư, sau khi ký kết và làm xong các thủ tục cần thiết cho những bản hợp đồng với các hãng nước ngoài, Brêđezhor trở lại Lisabon, và “Aljaska” ra khơi ngay tức khắc.
Ngày 25 cùng tháng, sau khi thuận buồm xuôi gió vượt qua Đại Tây Dương, tàu đã đến Mônrêan để dự trữ thêm than. Mọi điều khoản do Brêđêzhor đưa ra trước đây đã được thực hiện một cách chính xác. Ngày 29, "Aljaska" đã rời sóng nước vịnh Tavrêntia thiêng liêng để ngày hôm sau đi qua biển Bel-Ail ngăn cách Labrađor với Niu-Faunlenđ. Ngày 10 tháng Năm, tại Gôthavn, trên bờ biển Grơnlan họ gặp tàu than thứ hai đã đến thậm chí trước thời hạn qui định.
Êrik biết rất rõ rằng về mùa này trong năm nếu định băng qua vòng cực và bơi quanh các eo biển theo con đường Tây - Bắc hầu như bị đóng băng thì quá sớm. Nhưng bù lại chàng có mọi cơ sở để hy vọng thu nhận được ở vùng biển thường xuyên có tàu đi đánh cá voi qua lại những tư liệu chính xác hơn cả những tấm bản đồ tốt nhất. Tại đây, chàng cũng có dự tính mua mười con chó tốt với giá khá cao. Với Klaas làm đầu, những con chó này trong trường hợp cần thiết sẽ kéo xe trượt tuyết.
Gôthavn, cũng như tất cả các làng Đan Mạch khác trên bờ biển Grơnlan, là một làng nghèo, được các thương nhân dùng làm trạm kho chứa mỡ và lông. Về mùa xuân thời tiết ở đây không lạnh hơn mấy so với Xtôckhôm và Nôrôe. Nhưng Êrik và những người cùng đi ngạc nhiên khi thấy hai nước cùng ở cách Bắc cực một khoảng cách như nhau mà lại rất khác nhau. Gôthavn cùng vĩ độ với Berghen. Nhưng trong khi ở phía nam Na Uy rừng và cây ăn trái, thậm chí những giàn nho trồng trên đất được chăm bón đầy đủ xanh tươi, thì ở Grơnlan, tháng Năm rồi mà vẫn còn băng tuyết, cây cỏ ủ rũ thê lương. Hình thể vùng duyên hải Na Uy có nhiều eo, vịnh và có dãy đảo che chắn bên ngoài tạo điều kiện nâng nhiệt độ trung bình hàng năm trong nước lên gần như ngang nhiệt độ của Golfstrin. Ở Grơnlan thì bờ biển lại bằng phẳng, thấp, nên phải hứng chịu trước tiên những luồng không khí lạnh gọi về. Hơn nữa, bờ biển Grơnlan, cũng như toàn bộ bề mặt của đảo, bị phủ một lớp băng dày đến vài “fut” (Foot - đơn vị đo chiều dài của Anh, mỗi foot bằng 30,48cm).
"Aljaska" dừng ở Gôthavn mất mười lăm ngày, sau đó đã bơi trên biển Đevis dọc theo bờ biển Grơnlan và băng qua vòng cực.
Ngày 28 tháng Năm, lần đầu tiên họ gặp những tảng băng trôi ở kinh tuyến Bắc 70015', dưới nhiệt độ âm hai. Quả thực những khối băng đầu tiên này là một khối băng bị vỡ vụn hoặc trôi thành những cụm nhỏ tách rời nhau. Nhưng sau đó những tảng băng trở nên rắn chắc hơn và nhiều lúc đã phải dùng búa để mở đường đi tiếp. Cho đến nay hành trình chưa gặp nguy hiểm nghiêm trọng nào, khó khăn lớn nào. Tuy nhiên, căn cứ vào những triệu chứng thì đã có thể xác nhận rằng đoàn thám hiểm đang ở một thế giới hoàn toàn khác. Mọi vật thể ở xa một chút đều trở nên vô sắc và hình như không còn liên kết với nhau. Cái nhìn không dừng lại ở một cái gì cả, vì đường chân trời luôn luôn thay đổi và di động dưới ảnh hưởng của sóng và những tia nắng bị khúc xạ trong những khối không khí chuyển động. Nhưng, đặc biệt về ban đêm, dưới ánh đèn pha trên tổ quạ của tàu "Aljaska", vịnh Bafivôv có một vẻ thật thần tiên.
“Ai mà có thể tưởng tượng nổi cái cảnh buồn hiu ấy - một người đã chứng kiến viết - tiếng sóng vỗ rì rào dưới những tảng băng trôi, tiếng lạo xạo lạ tai của những lớp tuyết bất thình lình bị trượt xuống nước và tan ra xèo xèo như thể hòn than nóng bị nhúng nước vậy. Ai mà có thể hình dung được những mảnh băng sáng lóa từ trên núi đóng băng lả tả rơi xuống như thác chảy, làm bọt nước biển bắn tung toé lên khiến những chú chim biển đang ngủ trên đỉnh một hòn đảo băng nào đấy hoảng hốt vỗ cánh, nháo nhác một hồi lâu trên không rồi mới đậu xuống một tảng băng nào đấy trông thật tức cười... Còn quang cảnh sáng sáng, khi mặt trời trên quầng mây quyển đột nhiên chọc thủng màn sương mù, thoạt đầu mới chỉ hé ra một khoảng trời xanh, sau lan rộng dần ra, những đám mây nhẹ bị xua chạy tán loạn về phía chân trời, trông mới kỳ diệu làm sao.”
Êrik và những người bạn của chàng lúc rảnh rổi có thể ngắm những bức tranh tương tự thường xảy ra trên các biển Bắc cực.
Họ tiếp tục bơi dọc theo bờ biển Grơnlan lên đến vĩ tuyến Upernivik, để sau đó quay về phía tây và băng ngang hết vịnh Bafinov. Tại đây, những khó khăn trở nên rõ rệt hơn nhiều, bởi vì vịnh Bafinov là tuyến đường chính của những tảng băng Bắc cực bị vô số dòng nước ngầm cuốn ra khỏi vịnh. "Aljaska" đã buộc phải liên tục dùng búa phá băng để mở đường tiến. Đôi lúc nó phải dừng lại ở những tảng băng lớn không thể vượt qua được, đành phải đi vòng. Có khi nó bị những trận bão tuyết tấn công, boong tàu, cột buồm và toàn bộ dây dợ đều bị tuyết phủ một lớp dày. Còn có những chuyện thế này nữa, dưới tác động của những cơn gió buốt thấu xương, "Aljaska" bị phủ đầy băng, suýt bị chìm vì sức nặng của lớp "áo giáp" ấy. Đã xảy ra trường hợp "Aljaska" bị sa xuống cả những hố tựa như những hồ nước, bị những tảng băng ùn lại bao bọc kín chung quanh. Những trường hợp như vậy, con tàu như bị dồn vào bước đường cùng, không biết có thoát nổi ra biển khơi không. Những lúc ấy cần phải đặc biệt cảnh giác để cho thân sau không bị đụng vào một núi băng lớn nào từ phía bắc lao đến với tốc độ nhanh có thể đè bẹp tàu như đè một vỏ hạt bồ đào vậy! Nhưng còn nguy hiểm hơn nữa là những tảng băng ngầm bất đầu chuyển dịch khi tiếp xúc với sống tàu - và bất ngờ xảy ra hiện tượng thủy động học thực sự - lúc nào chúng cũng có thể thay đổi trọng tâm và trồi lên mặt nước với một sức mạnh không thể tưởng tượng nổi, quét sạch mọi thứ trên đường đi. "Aljaska" đã bị mất hai chiếc xuồng vì trường hợp như vậy và đã phải nhiều lần kéo chân vịt lên mạn tàu để nắn lại những chiếc bánh bị cong. Phải trực tiếp trải qua mọi thử thách và nguy hiểm xảy ra liên tục trong cuộc hành trình trên các biển Bắc cực mới có thể hình dung được những điều ấy, dù chỉ áng chừng thôi. Trong những điều kiện như vậy chỉ cần một đến hai tuần cũng đủ làm cho cả đoàn thám hiểm có sức chịu đựng bền bỉ nhất phải kiệt sức: mỗi người đã đến lúc cần được nghỉ ngơi.
Nhưng, mọi thử thách và lo âu của các nhà thám hiểm đã được đền bù ít nhất bằng tốc độ thể hiện qua các độ kinh tuyến được ghi lại trong nhật ký hành trình. Có những ngày thậm chí họ ghi được từ mười tới mười hai độ. Nhưng cũng có những ngày họ không đánh dấu qua được một độ nào cả. Và đây, cuối cùng ngày mười một tháng Sáu, mọi người trên tàu "Aljaska" đã trông thấy đất liền và chẳng bao lâu, con tàu đã neo ở cửa vịnh Lankaster.
Êrik dự tính phải dừng tại đây vài ngày rồi mới có thể tiến sâu vào chặng đường dài này. Nhưng, chàng ngạc nhiên và sung sướng biết bao, hóa ra vịnh biển đang vắng, ít nhất là lúc đầu. Không chút do dự, Êrik cho tàu vào vịnh. Song, ngay ngày hôm sau "Aljaska" đã bị băng bao kín chung quanh mất ba ngày liền. May mà nhờ có những dòng chảy mạnh ở vịnh bắc cực này mà con tàu - đúng như các tàu cá voi ở Gôthav đã nói trước - mới tiếp tục cuộc hành trình mặc dù bị nguy hiểm.
Ngày 17 tháng Sáu, "Aljaska" đã đến vịnh Baron và mở hết tốc độ chạy qua đây. Nhưng ngày 19, khi nó đã ra khỏi vịnh Melvil, đang chạy trên kinh tuyến của mũi Uôlk thì lại bị băng cản đường.
Thoạt đầu, đối với chuyện bực mình này Êrik tỏ ra bình tĩnh, chờ băng trôi. Nhưng, ngày nọ qua ngày kia, mãi mà bãi băng vẫn không thấy nhúc nhích.
Nói cho đúng thì các nhà du hành đâu có thiếu trò chơi giải trí. Sau khi bi kẹt lại ở cách bờ biển không xa lắm, vốn đã trang bị đầy đủ mọi thứ để khỏi bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, nên bây giờ họ đi chơi bằng xe trượt tuyết, đi săn hươu và từ xa xem cá voi đùa giỡn. Ngày hạ chí (ngày 21 tháng 6 dương lịch, ngày dài nhất trong năm) đã tới gần. Sau ngày 15, mọi người trên tàu “Aljaska” chứng kiến một cảnh tượng kỳ diệu, thậm chí những người Na Uy và thổ dân ở phía nam Thụy Điển cũng chưa từng biết: đó là cảnh mặt trời lúc nửa đêm đã đi vòng hết vòm trời mà lại không lặn sau đường chân trời.
Sau khi trèo lên một đỉnh núi không tên nhô cao trên vùng đất hoang vắng này, các nhà du hành đã quan sát cảnh mặt trời đi hết đường cùng trong một ngày. Tối tối, khi tất cả đều tràn ngập ánh nắng thì ở đằng xa kia, phía nam chân trời lại chìm trong bóng đêm. Toàn bộ thiên nhiên mới huyền ảo làm sao. Tại đây bạn không thể không cảm thấy mình đang ở một nơi xa lắc, nhưng lại gần cực biết bao!... Thế nhưng lại không giá lạnh lắm. Nhiệt độ chỉ khoảng 4-5 độ. Không khí đôi lúc ấm áp đến nỗi có thể tưởng tượng rằng đây chính là trái tim của Bắc cực.
Ngay cả những hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu cũng không thể lôi cuốn Êrik đến nỗi quên mục đích chủ yếu của cuộc hành trình của mình, dù chỉ một phút thôi. Chàng đến đây không phải yêu thực vật như Maljarius, ông phấn khởi thực hiện những chuyến đi tham quan xa, thu thập những loài thực vật chưa biết để bổ xung cho những màu thực vật của mình. Cũng không phải chàng đến đây để cùng với bác sĩ Svariênkrôna và Brêđêzhor thưởng thức những phong cảnh chưa từng thấy mà thiên nhiên vùng Bắc cực đã mở ra trước mắt họ. Mục đích của Êrik là tìm được Norđensheld và Patric Ô Đônôgan, là thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Và, có thể khám phá ra nguồn gốc của mình! Chính vì vậy mà chàng không nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, kiên quyết tìm cách thoát khỏi vòng băng đang bao chặt quanh tàu “Aljaska”. Những chuyến đi xe trượt tuyết, thanh trượt tuyết đến dường chân trời xa xôi, đi canô chạy bằng hơi nước để tìm đường thoát... Suốt mười ngày chàng đã thử tìm mọi cách có thể được để khai thông đường. Nhưng ở phía tây cũng như ở phía bắc và phía đông điều chồng chất những đám băng không thể vượt qua nổi.
Đã sang ngày 26 tháng Sáu rồi, mà họ vẫn còn ở cách biển Xibir quá xa! Không lẽ lại thú nhận thất bại của mình sao? Không, Êrik không thể thoả hiệp với điều ấy! Những lần đo lại độ sâu đều phát hiện dưới băng có dòng chảy ngầm về hướng eo biển Franclin, tức là về phía nam. Khi ấy, Êrik đã đi đến kết luận là chỉ cần một lực không mạnh lắm cũng đủ để làm cho những tảng băng chuyển động. Và, chàng đã quyết định làm thử trên suốt chiều dài bãi băng bảy hải lý. Chàng cho khoan một loạt lỗ, cái nọ cách cai kia hai - ba mét, rồi đặt vào mỗi lỗ một kilôgam chất nổ đinamit. Các lỗ trên băng được nối liền với nhau bằng một sợi dây đồng có lớp cách điện bằng nhựa.
Tám giờ sáng ngày 30 tháng Sáu, Êrik từ trên boong tàu "Aljaska" ấn nút điện châm ngòi nổ.
Lập tức, tiếng nổ khủng khiếp vang lên. Hàng trăm “ngọn núi lửa” phun bụi băng mù trời. Bãi băng rùng mình và nứt toác ra y như một trận động đất ngầm. Trong không trung, những đàn chim biển như những đám mây, hoảng hốt bay lượn, kêu la inh ỏi. Khi tất cả đã yên lặng, trên mặt băng mở ra một con đường đen ngòm khúc khuỷu do những khe nứt tạo nên. Một tảng băng khổng lồ đã bị tiếng nổ hất tung lên trời và vỡ tan dưới sức mạnh dữ dội của chất đinamit. Sau một lúc chờ đợi, coi bộ còn do dự, băng như đã chịu tuân theo hiệu lệnh và bắt đầu chuyển động. Khối băng bị tan ra từng mảnh và cuối cùng trôi theo dòng chảy, phát ra những tiếng ầm ầm rào rạo. Đó đây vẫn còn nguyên những bãi và những đảo băng, tựa hồ như muốn chống lại sức mạnh của con người. Nhưng, đến hôm sau đường đã thông. Bây giờ “Aljaska” đã có thể đốt lò. Với sự hỗ trợ của chất nổ đinamit, Êrik đã làm được điều mà mặt trời bắc cực yếu ớt có lẽ phải mất nguyên cả tháng.
Ngày hai tháng Bảy, "Aljaska" đã đến eo biển Banks. Ngày 4, nó đã đi vào nơi đúng với nghĩa đen của từ ấy - Bắc Băng Dương. Bây giờ, đường không bị cản trở nữa, mặc dù vẫn còn những đảo băng trôi, sương mù và tuyết. Ngày 12, tàu đã vòng qua mũi Gljasơ. Ngày 13, vòng qua mũi Lesborn. Ngày 14, lúc mười giờ sáng, nó đã vào vịnh Kôcêbu ở phía bắc eo biển Bêrinh. Tại đây, theo kế hoạch dự định, "Aljaska" đã gặp tàu than từ SanFransiscô đến. Thế là chương trình hành động vạch ra ở vịnh Biskaisk đã được thực hiện trong hai tháng và mười sáu ngày.
“Aljaska” chưa kịp thả neo, Êrik đã nhảy xuống xuồng và bơi cặp mạn chiếc tàu hàng:
- Semperidem! - chàng nói sau khi gặp thuyền trưởng.
- Lisabon - người Mỹ đáp.
- Ngài đợi tôi ở đây lâu chưa?
- Năm tuần! Chúng tôi đã rời San-Fransiscô sau khi nhận được điện của ngài một tháng.
- Về Norđenshelđ vẫn như cũ, không có tin gì nữa sao?
- Ở San-Fransiscô không có tin gì cả. Nhưng ở đây tôi có nói chuyện với nhiều người đánh cá voi, họ khẳng định rằng họ có nghe thổ dân các vùng gần mũi Trái tim - Đá nói hình như có một tàu châu Âu đã 9- 10 tháng nay bị kẹt băng ở phía tây mũi này. Họ cho rằng đấy chính là tàu "Vega".
- Đúng nó rồi! - Êrik kêu lên, hết sức mừng rỡ - Thế còn ngài cũng nghĩ rằng nó vẫn chưa qua được eo biển à?
- Tôi tin chắc là như vậy, năm tuần lễ gần đây không có tàu nào qua nơi này. Vậy nên tôi đâu có trao đổi được điều gì với thuyền trưởng.
- May quá! Tất cả những thử thách của chúng tôi sẽ được đền bù lại, nếu chúng tôi tìm được Norđenshelđ.
- Nhưng ngài sẽ không phải là người đầu tiên đâu - người Mỹ nói, mỉm cười vẻ nhạo báng - Một tàu buồm Mỹ đã vượt lên trước ngài rồi. Nó đã qua đây từ ba hôm trước, và cũng hỏi thăm tin tức về Norđenshelđ như ngài.
- Tàu buồm Mỹ à? - Êrik ngạc nhiên hỏi lại.
- Phải, "Albatros", thuyền trưởng Tuyđor Braun, từ Vankuver tới, tôi đã thông háo với ông ta tất cả những gì tôi biết, và ông ta lập tức quay ngay về mũi Trái tim - Đá.