watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Chú bé thoát nạn đắm tàu-Chương mười bốn - tác giả Jules Verne & André Laurie Jules Verne & André Laurie

Jules Verne & André Laurie

Chương mười bốn

Tác giả: Jules Verne & André Laurie

"Aljaska" đã va vào đá ngầm mạnh đến nỗi nó nằm chết cứng và không cảm thấy gì là dị vật giữa những dải đá ngầm ấy cả. Mặc dù tình hình tàu đen tối thật, nhưng nó chưa đến nỗi đe dọa trực tiếp đối với đoàn du hành. Khi vấp phải vật chướng ngại bất thường này, sóng biển đã trùm lên nó, tràn qua boong, các tia sóng đã bắn lên tận đỉnh buồm. Nhưng biển vẫn chưa động đến mức báo hiệu tàu bị đắm ngay tức khắc. Nếu thời tiết không xấu đi thì nó hy vọng có thể cầm cự đến sáng sớm mai mà không có gì rắc rối thêm nữa.


Êrik hiểu ngay điều đó. Với cương vị sĩ quan trưởng, chàng đảm nhận ngay trách nhiệm chỉ huy. Sau khi ra lệnh bịt kín hết cửa để vũ khí và các cửa để lỗ sáng, đồng thời che kín tất cả các lỗ bằng vải bạt tẩm nhựa đề phòng bão, chàng cùng thợ mộc cả đi xuống hầm tàu. Chàng rất mừng là ở đây không có chỗ nào bị dò. Lớp bọc ngoài của tàu “Aljaska" đã bảo vệ được thân tàu, còn những biện pháp được áp dụng để chống sự va chạm của băng giá ở Bắc cực thì hóa ra lại có tác dụng đối với cả đá ngầm. Đúng là sau khi bị va mạnh, máy hơi nước có bị hư. Nhưng, vì không xảy ra tiếng nổ, nên cả những hư hại ấy cũng không đáng kể lắm. Bởi vậy, Êrik quyết định trì hoãn việc đưa người lên bờ trong khi chưa thật cần thiết phải như vậy.


Kế đó, chàng ra lệnh bắn đại bác để báo cho đảo Sen biết, và quyết định cho hạ ca nô để đi Lôrian.


“Không thể hy vọng một nơi nào khác - chàng an ủi mình - có thể trợ giúp nhanh chóng và hiệu quả hơn xưởng hải quân lớn nhất miền tây nước Pháp này đâu”.


Và đúng cái giờ phút bi đát ấy, khi mỗi người trên tàu "Aljaska" cho rằng thôi thế là hết, thì Êrik lại bắt đầu hy vọng vào tương lai, bởi vì chàng thuộc hạng người có trái tim bất tử, không bao giờ ngã lòng và chịu khuất phục.


"Chỉ mong sao giải nguy được cho "Aljaska" - chàng nghĩ - và khi ấy ta hãy xem ai là người chiến thắng".


Nhưng, chàng không định chia sẻ với ai về niềm hy vọng của mình, những niềm hy vọng mà trong hoàn cảnh này có thể bị coi là viển vông. Sau khi ở hầm tàu lên, chàng đã tuyên bố tạm thời chưa có điều gì đáng lo ngại, bởi vì vẫn còn có thời gian để cứu trợ. Rồi chàng ra lệnh cả đoàn uống trà với rượu rum. Cũng chẳng còn gì hơn để ổn định tinh thần cho anh em thủy thủ.


Chiếc canô chạy bằng hơi nước được hạ xuống biển rất khẩn trương.


Đúng lúc ấy những pháo hiệu từ hải đăng trên đảo Sen được bắn lên, báo tin có tàu bị nạn và tàu sẽ được cứu trợ. Chẳng mấy chốc, trong đêm tối đã xuất hiện hai ánh lửa đỏ từ hướng khuất gió tiến dần về phía “Aljaska”. Từ cả hai bên vang lên những tiếng hô, và thế là đã rõ, tai nạn xảy ra gần Bas-Fruađ, cạnh lạch cảng Sen. Nhưng, hơn một giờ sau, trước khi thuyền cập bến, một đợt sóng mạnh làm cho việc áp tàu trở nên rất nguy hiểm. Cuối cùng, sáu tay chèo đã bám được dây cáp thả xuống biển và leo lên boong "Aljaska".


Đó là những ngư dân mạnh khoẻ, dũng cảm ở đảo Sen, những con người không biết sợ hãi và đã được tôi luyện, không phải lần đầu tiên đến giúp những nạn nhân bị đắm tàu. Họ hoàn toàn tán thành ý định của Erik nhờ chi viện từ Lorian, vì cảng nhỏ ở đảo Sen không có những phương tiện cần thiết cho việc cứu hộ. Mọi người quyết định hai trong số sáu người ấy hễ trăng lên là cùng bác Hecsêbom và Ôttô lên canô đi Lorian. Còn bây giờ họ thông báo vài điều về nơi nguy hiểm đã xảy ra tai nạn.


Bãi bồi Sen có hình lưỡi búa kéo dài từ đảo Sen về hướng đông chín hải lý. Nó được phân thành hai phần: Pông đơ Sen và Bas-Fruađ (cầu Sen và Doi đất Lạnh).


Pông đơ Sen dài bốn hải lý, còn ngang một hải lý rưỡi.

Nó gồm những vách núi đá khá cao kéo thành một dải trên mặt biển. Bas-Fruađ, tựa hồ như nối tiếp Pông đơ Sen, trải dài thêm năm hải lý nữa và ngang bình quân hai phần ba hải lý. Bas-Fruađ còn là một đống đá ngầm không nhìn thấy khi thủy triều lên. Chỉ có vài chỗ khi thủy triều rút mới nhô lên mặt nước. Những vách đá ngầm quan trọng mang tên: Kornênghên, Shomer, Kornok-ar-Gulơ, Bas-Ven, Mêđju và Armen. Những vách đá nói trên lại ít nguy hiểm nhất, bởi vì chúng nhô cao lên mặt nước, hơn nữa lại là những dải đá ngầm chưa được nghiên cứu đầy đủ, sức mạnh của sóng biển trên doi cát này, những dòng nước ngầm chảy xiết quanh doi làm cho nó trở nên nguy hiểm đối với việc đi lại của tàu bè và dường như nó được cố ý tạo nên để gây những vụ đắm tàu. Đấy là lý do tại sao đèn pha của những cột hải đăng trên đảo Sen và Bekđuy-ra đã được đặt với dụng ý rọi hình dáng của dải đá ngầm. Nhờ đó mà tàu bè đi hướng tây đến có thể dễ dàng nhận ra nó và đi vòng để tránh. Nhưng, dải đá ngầm này lại rất nguy hại đối với tàu bè từ hướng nam tới, đến nỗi người ta phải báo trước để đề phòng nguy hiểm bằng những tín hiệu đèn đặc biệt. Tức biết mấy, ở đầu phía nam của bãi bồi Sen lại không có lấy một hòn đảo bé tí tẹo, hay một mỏm đá nào để xây dựng một cột hải đăng, mà sức sóng ở đây lại quá lớn, không cho phép dùng phao tiêu. Bởi vậy, người ta quyết định xây dựng một hải đăng trên vách núi Armen cách cuối dải đá ngầm ba hải lý. Công việc đã gặp những khó khăn rất lớn. Hải đăng được khởi công xây dựng năm 1867, mười hai năm sau, năm 1879 mới chỉ đạt một nửa chiều cao của nó, tức mười ba mét so với mặt biển. Người ta kể rằng đã có năm tính chung lại chỉ làm việc được có tám giờ đồng hồ, mặc dù những người xây dựng rình đón từng phút thuận lợi một. Đó là lý do tại sao cho đến lúc "Aljsaka" bị nạn: hải đăng vẫn chưa được xây dựng xong.


Vả lại, chừng ấy cũng chưa đủ để giải thích tất cả những gì đã xảy ra khi rời cảng Brest. Êrik đã hứa với mình khi nào chiếc ca nô chạy bằng hơi nước rời bến, chàng sẽ lo việc tìm hiểu và giải thích nguyên nhân tai nạn?


Khi trăng đã lên và chiếc canô đã lên đường, chàng thuyền trưởng trẻ, theo thường lệ, chỉ cắt mấy người gác trên boong, còn lại bao nhiêu chàng cho đi nghỉ hết. Còn chàng đi xuống phòng sĩ quan.


Brêđêzhor, Maljarius và bác sĩ vẫn trực suốt bên thi thể của thuyền trưởng "Aljaska". Thấy Êrik, mọi người đứng dậy.
- Cháu tội nghiệp của ta, cái gì đã gây nên tấn thảm kịch này? Rốt cuộc thì chuyện gì đã xảy ra thế? Bác sĩ hỏi.
- Không hiểu nổi nữa - chàng thanh niên đáp, cúi mình trên tấm bản đồ trải trên bàn của thuyền trưởng quá cố - Theo băn năng, con đã cảm thấy và nói rằng chúng ta đi sai hướng mất rồi. Con tin chắc - và tất cả mọi việc đều khẳng định điều đó - rằng chúng ta đang ở cách hải đăng ít nhất ba hải lý về phía tây - gần chỗ này đây - chàng nói thêm, chỉ vào một cái chấm trên bản đồ - và, các thầy thấy không, ở đây đâu có ký hiệu nguy hiểm nào - bãi bồi không có, đá ngầm cũng không. Không có gì ngoài một màu xẫm đen của những nơi có độ sâu lớn. Điều này thật không hiểu nổi! Không thể tin được rằng bản đồ của tư lệnh hải quân Anh có sai sót, bởi vì đây là nơi quen biết và đã được nghiên cứu kỹ lưỡng hàng mấy thế kỷ nay rồi kia mà. Tất cả những điều ấy vô lý hết sức, chẳng khác nào một giấc mơ khủng khiếp.
- Liệu có sai sót trong việc xác định tọa độ của ta không và liệu có nhận nhầm hải đăng không? - Brêđezhor hỏi.
- Việc đi lạc đường trên một chặng đường ngắn như thế này là không thể được, - Êrik nói - Các thầy nhớ lại mà xem! Chúng ta chưa có một phút nào mất hút bờ cả và bao giờ cũng đi từ một mốc định hướng này đến mốc định hướng khác. Đúng là có thể giả thuyết rằng một trong hai ngọn lửa tín hiệu vẽ trên bản đồ không được thắp sáng, hoặc ngược lại, mới có thêm một ngọn đèn pha nào đấy. Nhưng như vậy thì đàng nào ta cũng chưa giải thích được việc gì cả, vì hướng ta đi vẫn bình thường, còn chiếc "Lag" của ta thì rất bảo đảm, không thể sai được! Chúng ta có thể vạch trên bản đồ tuyến đi của chúng ta với độ chính xác tới năm trăm mét. Điểm cuối cùng của tuyến hầu như khít với ký hiệu ngọn hải đăng Sen trên bản đồ. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật: chúng ta đang mắc trên đá ngầm, trong khi đó, nếu đối chiếu với bản đồ thì bên dưới chúng ta phải là độ sâu ba trăm mét!
- Nhưng tất cả điều đó do đâu? Làm sao có thể biết điều ấy? Bác sĩ kêu lên.
- Chúng ta sẽ biết mau thôi - Êrik trả lời - nếu các nhà hàng hải đang cố thúc đẩy việc ứng cứu. Còn bây giờ chúng ta kiên trì chịu đựng và tốt nhất là nằm ngủ coi như ta đang thả neo ở một vịnh biển an toàn nhất.
Chàng thuyền trưởng trẻ im lặng, tự cho mình quyền thức trong khi để cho các bạn của mình được ngủ. Suốt đêm, Êrik cứ đi đi lại lại trên boong, quan sát xem những người gác hoàn thành công vụ có tốt không, hoặc đi xuống phòng sĩ quan vài phút.
Lúc hừng đông chàng hài lòng tin chắc rằng gió đã lặng và sóng vỗ nhẹ đi. Chàng nhận xét thấy thủy triều gần như rút hết mức của nó và “Aljaska” chẳng bao lâu sẽ lộ ra trên cạn. Điều đó cho phép hy vọng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi đã có thể xác định được mức độ hư hại của tàu. Và thật vậy, khoảng bảy giờ sáng đã có thể bắt đầu tiến hành việc xem xét tàu.
Tàu đã đâm vào những mũi đá nhọn từ dưới đáy cát nhô lên. Ba mũi đá xuyên thủng lớp vỏ bọc ngoài của “Aljaska” lúc bị tai nạn và bây giờ đây đang đỡ cho tàu nằm yên. Cả ba mũi đều hướng về phía bắc, là hướng ngược chiều tàu chạy khi bi nạn, điều đó cho thấy vị trí của tàu không bình thường, phần mũi bị kẹt ngay rìa bãi bồi. Nếu không có những mũi đá ấy thì “Aljaska” đã bị va ngay vào vách đá rồi. Việc Êrik khéo léo điều chỉnh sự di chuyển của tàu cũng có tác dụng giảm bớt sức va chạm. Trước khi trườn lên bãi bồi vài giây, tàu đã được điều chỉnh chạy lùi, thành ra nó chỉ đâm vào đá ngầm theo quán tính và lực của dòng chảy, nếu không như vậy thì chắc chắn “Aljaska” đã bị vỡ tan tành. Hơn nữa, hôm qua gió và dòng chảy không mạnh lên. Và nhờ vậy “Aljaska” mới có thể giữ nguyên vị trí, không bị xô vào vách đá, mà khi đổi gió thường không tránh khỏi. Nói chung không thể hình dung đến một sự ngẫu nhiên nhiều may mắn hơn nữa đối với một tai nạn như thế này. Nhiệm vụ bây giờ là làm sao sớm giải phóng con tàu khỏi bị kẹt trong khi gió chưa đổi hướng và những điều kiện thuận lợi chưa bị mất đi.
Êrik quyết định hành động ngay, không để lỡ một phút nào. Sau bữa điểm tâm, chàng ra lệnh cho toàn đoàn bắt tay ngay vào việc - dùng rìu mở to ba lỗ thủng chính ra. Nếu tàu kéo từ Lôrian đến không bị chậm trễ thì khi thủy triều lên có thể giải phóng được "Aljaska" mà không khó khăn gì lắm. Ta dễ dàng đoán được chàng thuyền trưởng trẻ đã cố mong nhìn thấy nơi chân trời một làn khói mỏng như thế nào.
Mọi việc đã diễn ra đúng như chàng mong muốn. Thời tiết êm dịu như hôm nay chỉ có thể ước mơ mà thôi! Đến giữa trưa, một chiếc tàu đi hộ tống và tàu kéo đã đến gần "Aljaska". Trung úy chỉ huy tàu hộ tống tự giới thiệu nhã nhặn nhiệm vụ đến cứu giúp những người bị nạn. Êrik cùng với các sĩ quan ân cần đón tiếp ông ta. Sau đó, cả hai thuyền trưởng đã đi vào phòng sĩ quan.
- Nhưng, xin ngài hãy cho biết - viên trung úy hỏi - làm sao các ngài đâm được vào bãi bồi Sen trên đường từ Brest tới nhỉ?
- Tấm bản đồ này giải thích cho ngài tất cả mọi điều - Êrik trả lời - trong đó không có ký hiệu nguy hiểm nào cả.
Viên sĩ quan Pháp tìm hiểu tuyến đường vẽ trên bản đồ thoạt đầu với sự tò mò, nhưng sau đó hết sức kinh ngạc.
- Quả như vậy, ở đây không vẽ cả Bas-Fruađ lẫn Pông đờ Sen! - ông ta kêu lên - Thật là một sự cẩu thả chưa từng thấy! Màu xanh của những vùng biển sâu lại vẽ sát ngay đảo! Cả hình dạng của dãy đá ngầm, thậm chí vị trí của hải đăng cũng đều bị chỉ dẫn không đúng! Tôi tuyệt nhiên không hiểu gì cả... Nhưng, đây là bản đồ của bộ tư lệnh hải quân Anh kia mà! Dẫu sao thì đây cũng là bản đồ không xác thực! Có thể tin rằng nó đã cố ý bị làm sai, làm giả và gian trá! Thời xưa cũng có những thủy thủ bày trò xảo nguyệt như thế này với các đối thủ của mình. Nhưng tôi không bao giờ tin rằng ở nước Anh vẫn còn có thể tồn lưu những hủ tục như vậy!
- Xin ngài cho phép tôi nói - Brêđêzhor xen vào một cách lịch sự - Chúng ta có căn cứ gì để buộc tội nước Anh trong chuyện này? Tôi mới nảy ra một điều nghi ngờ khác có lẽ xác đáng hơn. Tấm bản đồ này là tấm bản đồ giả. Tên đê tiện nào đấy đã tráo tấm bản đồ thật bằng tấm bảng đồ giả này và để nó vào ngăn kéo lẫn với tất cả bản đồ khác.
- Điều đó chỉ có Tuyđor Braun mới có thể làm được! - Êrik phẫn nộ kêu lên - Lúc chúng ta dùng tiệc trưa ở Brest với ngài quận trưởng, hắn đã đi xuống phòng chung để xem bản đồ! Bây giờ thì đã rõ cả rồi. Ôi, quân khốn nạn! Hắn không trở lên tàu nữa là vì thế.
- Điều đó có lẽ hoàn toàn đúng như vậy - bác sĩ Svariênkrôna nói - Nhưng hành động ác độc ấy chứng tỏ một sự hèn hạ vô cùng. Hắn làm như thế để làm gì?
- Thế hắn đi Xtôckhôm để làm gì? Không nhẽ chỉ báo cho chúng ta biết tin Patric Ô Đônôgan đã chết thôi sao? - Brêđezhor phản đối - Thế hắn đóng góp hai mươi lăm ngàn curon khi "Aljaska" đã quyết định lên đường rồi, để làm gì? Thế hắn lên tàu để làm gì - lẽ nào chỉ để cùng ta đến Brest thôi sao?... Và quả thật người mù thì mới không thấy trong tất cả các sự việc ấy có một mối liên hệ nhất định và sự sắp xếp rất logic, vừa thật ghê người! Tuyđor Braun muốn hưởng lợi gì cho bản thân? Tôi không biết. Nhưng sự quan tâm của hắn là nghiêm chỉnh và lớn lao, hắn không chịu rút lui trước số tiền lớn như vậy đâu, hắn chỉ cốt không cho chúng ta đạt được mục đích thôi! Bây giờ tôi tin rằng chính vì thế mà hắn buộc chúng ta phải dừng lại ở Brest để sau đó đẩy chúng ta tới những vách đá có tử thần rình đón sẵn đây!
- Nhưng, khó có thể cho rằng hắn đã biết trước thuyền trưởng "Aljaska" định chọn đường nào? - Maljarius phản đối.
- Tại sao vậy? Không nhẽ những thay đổi đã được đưa vào bản đồ đã không ảnh hưởng gì đến sự lựa chọn tuyến đường đi hay sao? Chẳng nhẽ không phải rõ ràng là để bù lại thời gian bị mất sau ba ngày chậm trễ, thuyền trưởng Marsilas đã tính chọn một con đường ngắn hơn sao? Và, bởi vì thuyền trưởng Marsilas đã dựa vào bản đồ dự đoán rằng biển ở đảo Sen sẽ an toàn, nên mới trù tính cho tàu quay sang hướng nam và mới bị mắc kẹt ở nơi này chứ!
- Mọi việc đúng như thế - Êrik nói - Nhưng, những lời con khuyên thuyền trưởng tiếp tục đi theo hướng tây chứng tỏ lúc đó tuyến đường còn chưa được xác định chính xác.
- Vậy thì ai có thể bảo đảm được rằng những bản đồ khác không bị đánh tráo? Giả dụ chúng ta đi qua Bas-Fruađ trót lọt - Brêđêzhor kêu lên - thì liệu có thể không bị kẹt ở nơi nào khác không?
- Điều đó thì có thể dễ dàng kiểm tra hơn cả - Êrik nói và lôi trong ngăn kéo tất cả các bản đồ hành trình có trong đó.
Tấm đầu tiên chàng mở ra đó là bản đồ vùng Côronia, và viên sĩ quan đã phát hiện ra ngay hai - ba sai sót nghiêm trọng. Tấm thứ hai là bản đồ mũi Sanvisitja, trong đó cũng có những sai sót như thế. Tấm bản đồ thứ ba là eo biển Ghibraltar, cả ở đây nữa cũng thấy đập vào mắt những ký hiệu không đúng. Tiếp tục nghiên cứu các bản đồ xét ra hoàn toàn không cần thiết nữa. Mọi thắc mắc nghi ngờ điều được giải tỏa. Nếu như "Aljaska" không gặp nạn Ở Bas-Fruad, thì tai nạn nhất định sẽ xảy ra đối với nó ở một nơi khác nào đó trên đường đi Malta mà thôi.
Nói về thủ đoạn tội ác này được thực hiện như thế nào, thì có thể xác định một cách dễ dàng. Đúng là những tấm bản đồ này đều là của bộ tư lệnh hải quân Anh, nhưng ở từng chỗ riêng biệt chúng đã bị tẩy xóa bằng hóa chất và vẽ lại với những ký hiệu thật giả lẫn lộn với nhau. Cho dù tất cả những chỗ sửa chữa ấy rất khéo léo, nhưng màu sắc vẫn thấy khác, nhất là khi ngón đánh tráo đã bị phát hiện. Cuối cùng, thêm một điều chứng tỏ âm mưu tội ác này là: những bản đồ có trên tàu "Aljaska" đều có đóng nhãn hiệu của Tổng cục hàng hải Thụy Điển. Trên các bản đồ bị sữa chữa không thấy có nhãn hiệu như thế. Rõ ràng là kẻ gian phi tưởng rằng ai nghĩ tới chuyện nghi ngờ và kiểm tra lại những tấm bản đồ ấy.
Những phát hiện đã khiến cho tất cả thành viên của đoàn thám hiểm hoảng hồn. Êrik là người đầu tiên phá tan sự im lặng nặng nề.
- Tội nghiệp cho thuyền trưởng Marsilas - chàng buồn rầu nói - Ngài đã phải trả giá cho tất cả chúng ta! Nhưng, nếu chúng ta đã tránh được số phận đen tối đó thì tới đây chúng ta hãy cố gắng hành động thận trọng hơn... Thủy triều đang nhanh và sắp đạt đến mức độ cao để có thể giải phóng “Aljaska”. Nếu không có ai phản đối chúng ta sẽ bắt tay ngay vào việc.
Êrik nói bình tĩnh và cương quyết. Ý thức trách nhiệm đã làm cho lời nói chàng thêm vững tin. Trở thành thuyền trưởng một tàu ở lứa tuổi như vậy, lại trong những hoàn cảnh như vậy, tự bản thân chàng cũng thấy điều đó không bình thường. Nhưng từ ngày hôm qua, khi chàng đảm nhận trách nhiệm chỉ huy, chàng đã vững tin là chàng sẽ hoàn thành nhiệm vụ của mình đến cùng. Êrik ý thức được rằng không chỉ dựa vào bản thân, mà cần dựa vào cả đoàn của mình. Và, khi ý thức như thế, chàng đã thay đổi rõ rệt. Hôm qua còn là một chàng trai, hôm nay chàng đã trở thành một người đàn ông. Lòng dũng cảm và chí quyết tâm đã được phản ánh trong cái nhìn của chàng. Uy tín của chàng thuyền trưởng trẻ đã không ngừng tác động đến tất cả mọi người chung quanh.


Công việc định làm buổi sáng hóa ra dễ dàng hơn dự tính nhiều. Không đòi hỏi mất nhiều công sức lắm mới gỡ tàu ra được khỏi bãi đá ngầm lúc ấy đã được thủy triều nâng lên. Chỉ cần cho tàu kéo chạy và kéo căng những sợi cáp buộc vào tàu là con tàu phát ra những tiếng kêu răng rắc ở chỗ bị thủng và bật khỏi thế kẹt thật khủng khiếp, đột nhiên trở lại thế tự do. Đúng là tàu nặng thêm vì nước thấm vào các vách ngăn, bị mất chân vịt vì kẹt trong đá và mất động cơ. Nhưng tàu vẫn lái được nếu cần, và có thể bơi được thậm chí bằng hai cánh buồm tam giác và một cánh buồm hình thang.


Toàn đoàn thám hiểm tụ tập trên boong hồi hộp theo dõi công việc có tính chất quyết định này và đã chào mừng "Aljaska" thoát nạn bằng những tiếng hoan hô vang dậy. Các thủy thủ lên tàu hộ tống và tàu cứu hộ đã đáp lại những tiếng reo hò phấn khởi ấy bằng những lời hô chào mừng...


Tối hôm đó “Aljaska” đã được đưa đến vùng Lôrian an toàn tuyệt đối. Ngay ngày hôm sau các nhà chức trách hàng hải Pháp đã cho phép đưa tàu vào một trong những ụ trên cạn. Những chỗ hư hại ở thân tàu không nghiêm trọng. Phức tạp hơn nhưng không đến nỗi mất hy vọng lại là những hư hỏng về máy móc. Có lẽ ở những cảng khác những công việc sửa chữa này đã đòi hỏi phải kéo dài lâu ngày, nhưng, đúng như Êrik đã phán đoán, không ở đâu có thể sửa chữa tàu nhanh chóng như ở các xưởng của Lôrian. Nhà máy sửa chữa tàu Gamara Nori và Kođa đảm bảo hoàn tất tàu trong ba tuần lễ. Hôm ấy là 23 tháng Hai, 16 tháng Ba sẽ tiếp tục lên đường, nhưng bây giờ là với tấm bản đồ đã được kiểm tra.


Như vậy, ba tháng rưỡi nữa, vào cuối tháng sáu mới có thể hy vọng đến được eo biển Bêrinh. Việc ấy không có gì quá đáng, mặc dù thời hạn rất căng, Êrik không hề có ý từ chối đi tiếp. Chàng chỉ ngại người ta cản trở chàng thôi. Chính vì vậy chàng thuyền trưởng trẻ tàu "Aljaska" đã quyết định không báo về tai nạn vừa qua cho Xtôckhôm biết. Chàng cho rằng người ta có thể triệu chàng về để khởi tố vụ án truy tội kẻ gây ra tai nạn, và khi đó chàng có thể bị giữ lại để điều tra.
Nhưng, nếu Tuyđor Braun chưa bị trừng trị thì hắn có dám gây ra những trở ngại mới trên đường đi của "Aljaska" không? Brêđêzhor và bác sĩ đã nêu ra câu hỏi ấy trong khi chơi bài với Maljarius trong phòng khách ấm cúng của một khách sạn mà họ đang trú chân khi đến Lôrian.
Đối với Brêđêzhor vấn đề đã rõ. Một tên Tuyđor Braun thì sau khi biết kế hoạch của mình bị thất bại - khó có thể cho rằng hắn không biết điều ấy - hắn sẽ không ngại gì mà không tái diễn hành vi tội ác của mình. Hy vọng đến được eo biển Bêrinh trong những hoàn cảnh như thế thậm chí không phải là ảo tưởng, mà đơn giản là sự điên rồ! Quả thật, Brêđêzhor không biết Tuydor Braun có thể bày mưu đặt kế mới như thế nào, nhưng chắc chắn là hắn sẽ tìm được cách này hay cách khác để làm việc đó. Bác sĩ Svariênkrôna hoàn toàn đồng tình với ý kiến của ông và Maljarius cũng rất tán thành. Họ chơi bài một cách buồn chán, và thậm chí những cuộc dạo chơi của ba người bạn ở vùng ngoại ô Lôrian cũng không làm cho tâm trạng nặng nề của họ khuây khoả hơn. Điều họ quan tâm nhất bây giờ là dựng bia kỷ niệm thuyền trưởng Marsilas mà khi mai táng ông cả Lôrian đã có mặt...


Nhưng chỉ cần gặp Êrik là niềm hy vọng trở lại ngay với họ. Lòng quyết tâm của chàng thật kiên định, hoạt động của chàng có chí hướng rõ rệt, chàng tỏ rõ ý chí cứng rắn khắc phục mọi khó khăn, đến nỗi trước mặt chàng chẳng những họ không dám bộc lộ, mà thậm chí không thể giấu kín trong lòng những tình cảm mạnh mẽ.


Đồng thời, lại có thêm một tình huống nữa đã khẳng định Tuyđor Braun vãn chưa chịu từ bỏ những âm mưu của mình. Ngày 14 tháng Ba, Êrik khẳng định rằng các công việc trong buồng máy đang dần dần kết thúc, chỉ cần kiểm tra một trong số các máy bơm nữa thôi, và việc này ngày mai sẽ được làm xong. Thế là đêm 14 rạng ngày 15 chiếc máy bơm đã bị biến mất khỏi xưởng Gamara Nori và Kođa và không sao tìm thấy nữa. Việc ăn trộm ấy đã diễn ra như thế nào? Ai là thủ phạm? Việc điều tra kỹ lưỡng nhất cũng đã không thể xác định được.


Lại phải mất mười ngày nữa để làm lại công việc ấy, và thế là ngày rời bến của "Aljaska" đã bị lui lại đến 25 tháng Ba.


Một sự thật lạ lùng, những điều xảy ra cuối cùng đã gây cho Êrik ấn tượng còn lớn hơn chính tai nạn tàu mắc kẹt đá ngầm. Chàng coi đây là dấu hiệu ngoan cố và bằng mọi cách cản trở tàu "Aljaska" hoàn thành cuộc hành trình của nó. Và niềm tin này đã tăng lên gấp đôi nguyện vọng khao khát của chàng muốn hoàn thành nhiệm vụ đến cùng một cách tốt đẹp, nếu điều ấy có thể làm được.


Mười ngày hoãn bắt buộc đã được sử dụng hầu như hoàn toàn vào việc suy luận và suy nghĩ một cách toàn diện cho kế hoạch trong thời gian tới. Êrik càng cố gắng phân tích mọi vấn đề thì chàng càng khẳng định ý nghĩ phải đạt được mục đích của mình đến eo biển Bêrinh thời hạn ba tháng theo hành trình mà Tyuđor Braun đã biết, trong khi sau 40 ngày rời Xtockhôm, "Aljaska" chỉ mới đang ở Lorian - nghĩa là định trước cho mình không những sự thất bại, mà cả những điều bất hạnh không thể tránh khỏi.


Tuy nhiên, cái kết luận buồn rầu ấy không những không làm nản lòng, mà còn bắt buộc chàng đi đến quyết định thay đổi tuyến đường đã định. Tất nhiên Êrik không nói với ai ý định của mình, chàng nghĩ có lý rằng: Giữ bí mật trong những trường hợp này là đảm bảo đầu tiên cho thắng lợi. Chàng còn chăm chú trông nom việc sửa chữa tàu hơn trước.


Những người cùng đi với Êrik nhận thấy bây giờ chàng không hối thúc việc rời bến nữa. Từ đó họ kết luận rằng có lẽ trong thâm tâm chàng đã thừa nhận cuộc hành trình không thể thực hiện được, như chính bản thân họ giờ đây cũng cho là như thế.


Giữa trưa ngày 25 tháng Ba, "Aljaska" đã rời khỏi ụ, bơi qua vũng Lôrian và ra khơi.
Chú bé thoát nạn đắm tàu
Lời người dịch
Chương một
Chương hai
Chương ba
Chương bốn
Chương năm
Chương sáu
Chương bảy
Chương tám
Chương chín
Chương mười
Chương mười một
Chương mười hai
Chương mười ba
Chương mười bốn
Chương mười năm
Chương mười sáu
Chương mười bảy
Chương mười tám
Chương mười chín
Chương hai muơi
Chương hai muơi mốt
Chương hai muơi hai