Phần 2
Tác giả: Khuyết Danh
1. Bẩm chó cả
2. Mất trộm bò
3. Cứ bảo tuổi sửu có được không
4. Quan lớn mua vàng
5. Dân giần quan
6. Quan thị và quan võ xỏ nhau
7. Diệu kế
8. Bố mày! Ðã chết với tao chưa?
9. Có con giun đất
10. Ba anh đầy tớ
11. Bốn cẳng, sáu cẳng
12. Ghen bóng ghen gió
13. Sao đã vội chết
14. Con thanh tịnh
15. Sát sinh tội nặng lắm
16. Hết khoe chữ
17. Cha cố và sư ông thi tài
18. Xin tiền tiên
19. Nhất bên trọng nhất bên khinh
20. Cô dâu thử tài chú rể
21. Làm theo bố vợ
22. Nguyện vọng của anh lười
1. Bẩm chó cả
Nhà nọ thấy quan lại tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan đến nhà chơi, trong số đó có cả mấy bạn đồng song thuở trước. Ông ta bảo người nhà dọn rượu thết.
Người nhà bưng mâm lên, ông ta đứng dậy thưa:
- Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt xin các ngài chiếu cố cho.
Các quan cầm đũa, bấp mấy món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì...
Nhà nho thong thả nói:
- Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả.
2. Mất trộm bò
Một người vừa mới tậu được con bò. Tối đi ngủ, anh ta đã chốt chuồng bò cẩn thận rồi lại đặt cái chõng ngay giữa lối ra vào mà nằm ngủ. ấy thế mà ban đêm, kẻ trộm vẫn vào dắt mất bò của anh ta. Xót ruột, anh ta trình quan:
- Bẩm quan, chắc là chúng nó dắt bò chui qua chõng con nằm mà đi ra.
Quan nghe nói vô lý quả bật cười:
- Con bò chứ có phải con chó, con mèo đâu mà chui qua gầm chõng!
- Dạ, bẩm quan, thế thì chúng nó dắt bò của con đi lối nào? Sáng dậy cái chõng con nằm vẫn để y nguyên ở chỗ cũ chắn lối ra vào kia mà!
- Ðồ ngốc! Mày ngủ say, chúng nó khiêng chõng mày nằm ra một bên, dắt bò ra rồi lại khiêng về chỗ cũ...
Người kia như vỡ lẽ, nói:
- à, thế ra quan thông đồng với bọn trộm, nên mới tỏ tường được như thế chứ!
3. Cứ bảo tuổi sửu có được không?
Ðồn rằng có một ông quan huyện rất thanh liêm, không ăn của dút bao giờ. Bà huyện thấy tính chông như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy:
- Nhà tôi thanh liêm lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy cũng vẫn còn rầy la tôi cơ đấy! Dân làng năn nỉ mãi, bà nể tình mới bày cách:
- Quan huyện nhà tôi tuổi "tí". Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi cố nói giùm cho, họa may được chăng!
Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc đem đến.
Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc, mới hỏi ở đâu ra, bà huyện liền đem sự tình kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng:
- Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi "tí"! Cứ bảot tuổi "Sủu" có được không!
4. Quan lớn mua vàng
Theo lệ ngày xưa, ai làm quan thì mua món gì cũng chỉ phải trả nửa giá tiền, trừ mua vàng phải trả đủ.
Một ông quan nọ vừa đến nhậm chứa, bảo hiệu vàng đem hai lạng đến bán cho ngài. Chủ hiệu vàng nghe tiếng quan dữ như cọp, mói bẩm:
- Vàng mỗi lạng thực giá sáu chục đồng, song quan lớn thì trả một nửa cũng được.
Quan cầm hai lạng vàng xem, rồi ung dung bỏ một lạng vào túi. Chủ hiệu tưởng quan chỉ mua có một lạng, còn lạng kia trả lại, nên khi quan vào nhà trong, anh ta vẫn đứng đấy đợi trả tiền. Hồi lâu quan ra, thấy vậy mới hỏi:
- Mua bán xong rồi, còn đứng đấy làm gì?
Chủ hiệu vàng đáp: - Con chờ quan lớn trả tiền cho.
Quan bảo: - Tiền trả rồi, còn đòi gì nữa?
Chủ hiệu vàng đáp: - Hai lạng, quan trả lại một lạng, lấy một lạng.
Quan nổi giận:
- Nhà ngươi lạ thật! Nhà ngươi bảo ta trả một nửa cũng được. Ta mua hai lạng, nhưng chỉ lấy một, trả lại một chẳng phải là đã trả một nửa là gì!
5. Dân giần quan
Có hai anh lính hầu hạ quan lâu ngay, thấy quan đã ác lại hay ăn tiền, cứ có việc vào cửa quan là y như bị đánh đập tàn tệ, đến lúc xì tiền ra mới thôi.
Một hôm, rỗi rãi, hai anh ngồi kháo chuyện với nhau, nói xấu quan. Một anh bảo:
- ác thế thì có ngày dân nó quật lại cho mà xem!
Quan quán quạt chi quàn quan
Dân dấn dận chi dần dân
Quan là quan, quan quàn dân
Dân là dân, dân giần quan.
Chẳng ngờ quan đi qua nghe được trợn mắt hỏi: - Bay nói gì thế?
Anh kia nói chữa:
- Bẩm quan, con bảo: "Quan quản dân, dân... cần quan. Không có quan thì ai cai trị dân".
6. Quan thị và quan võ xỏ nhau
Quan Võ ghét quan Thị, trông thấy quan mới đọc một vế câu đối xỏ:
Thị vào hầu, thì đứng thị trông,
Thị cũng muốn, thị không có ấy.
Bốn chữ thị ở đay có bốn nghĩa và được giả thích ngay, chứ thị đầu là hầu hạ, chữ thứ hai là trông, chữ thứ ba là muốn, chữ thứ tư là ấy.
Quan thị tữc quá đối lại:
Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ mưa,
Vũ gặp mưa, vũ ướt cả lông.
Bốn chữ vũ cũng có bốn nghĩa và được giả thích ngay như bốn chữ thị ở vế trên. Hai bên đối nhau đêu giỏi cả, thật là kẻ tám lạng người nửa cân.
7. Diệu kế
Một quan võ có tính sợ vợ. Một hôm, đang cầm cự với giặc ở biên thùy, bỗng nghe tin mật báo là phu nhân đang ở sau lưng xông tới để hỏi tội quan về việc quan đem nàng hầu đi theo, quan bèn triệu tập ban tham mưu lại vấn kế.
Kẻ đưa kế này, người bày mưu nọ, tướng quân đều thấy không ổn. Bỗng một viên quân sư, vốn dòng râu quặp, tiến lại tâu rằng:
- Trước mặt, địch quân như gió bão, sau lưng phu nhân như nước lũ. Song lọt vào tay giặc không nguy bằng lọt vào tay phu nhân. Chỉ có nước tướng quân hàng giặc, để thoát khỏi tay phu nhân là hay hơn cả.
Ông tướng vỗ đùi khen:
- Diệu kế! Tuyệt diệu kế!
8. Bố mày! Ðã chết với tao chưa?
Một anh, nhà có giỗ, vợ vừa làm cỗ xong, đặt lên bàn thờ thì một con ruồi đến đậu ngay lên đĩa thịt. Chị vợ vội kêu lên:
- Thôi chết rồi! Mâm cơm cúng ông bà mà anh không coi cẩn thận để ruồi nó đậu vào, làm uế tạp mất rồi!
Anh chồng nghe thế, giận con ruồi lắm, nghĩ bụng: Hai vợ chồng lòng thành làm được mâm cơm mà con ruồi nó làm ô uế, giờ có cúng, ông bà cũng không về hưởng nữa, liền lên huyện kêu:
- Bẩm lạy quan lớn, chúng tôi vất vả quanh năm hôm nay mới làm đuợc mâm cơm cúng ông bà, thế mà con ruồi nó sà vào, làm ô uế cả. Xin quan lớn xử tội nhờ.
Quan nghe xong bảo:
- Tao cho phép mày từ rày hễ thấy nó bất kỳ ở đâu, cứ đánh cho chết.
Quan vừa buông lời, thì một con ruồi đến đậu ngay trên má quan.
Anh kia trông thấy, mắm môi, giang tay tát bốp vào mặt quan chứi:
- Bố mày! Ðấ chết với ông chưa!
9. Có con giun đất!
Quan tuần rậm râu, ngồi ăn cơm với quan án không râu. Có hạt cơm dính vào râu quan tuần, anh lính hầu quan tuần vội bẩm:
- Bẩm cụ lớn, trong bộ râu cụ lớn có hòn ngọc minh châu. Quan tuần thủng thẳng vuổt râu để cho hạt cơm rơi xuống.
Quan án về nhà, bảo anh lính hầu mình:
- Ðấy mày xem! Lính bên quan tuần khôn ngoan thế đây! Giá mày học được như nó thì có phải tao cũng được mát mặt không?
Cách mấy hôm sau, quan tuần sang quan án ăn cơm. Có sợi bún dính ở mép quan án, anh lính hầu quan ăn trông thấy vội bẩm:
- Bẩm cụ lớn, trên mép cụ lớn có con giun đất đấy ạ!
10. Ba anh đầy tớ
Một lão nhà giàu có ba anh đầy tớ, nhưng mỗi anh một tính, anh thì rất cẩn thận, anh thì rất lo xa, còn một anh thì rất lễ phép. Lão lấy làm đắc ý lắm.
Một hôm, cậu con cả lão ngã xuống ao, anh cẩn thận trông thấy, chạy về thưa với chủ:
- Thưa ông, cậy cả nhà ngã xuống ao, xin ông cho phép con đi vớt cậu lên ạ!
Vớt lên được, thì cậu cả đã chết ngoẻo rồi. Lão liền vác gậy đuổi, anh cẩn thận chạy biến. Lão sai anh lo xa đi mua áo quan về liệm. Ðược một lúc, anh này mang về hai cái. Thấy thế ông chủ trừng mắt:
- Tại sao mua những hai cái, thằng kia?
Anh này trả lời:
- ấy, con mua phòng xa, nhỡ cậu hai có chết đuối thì có cái dùng ngay.
Lão lại vác gậy đuổi đi.
Chỉ còn anh lễ phép vẫn được lòng chủ. Một hôm, anh ta cùng một người nữa cáng chủ nhà đi chơi. Ðến chỗ lội bùn ngập đến lưng ống chân mà anh ta vẫn vui vẻ không một lời phàn nàn. Thấy thế ông chủ khen:
- Anh khá lắm, biết chịu khó. Cứ cố đi rồi đến tết ta sẽ may cho bộ cánh.
Vừa nói đến đấy thì anh đầy tớ dặt cáng xuống giữa đống bùn khoanh tay lễ phép nói:
- Con xin đa tạ ông!
11. Bốn cẳng, sáu cẳng
Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (1); bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:
- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?
Anh lính lệ trả lời:
- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!
(1) trát: cũng như ngày nay ta nói công văn
12. Ghen bóng ghen gió
Một anh học trò có tính hay ghen muốn thử lòng vợ. Tối đến anh ta ngôi núp một xó, đợi vợ di qua thì chạy ra ôm chầm lấy. Vợ giật mình kêu lên. Anh ta mừng lắm, nói:
- Rõ thật phúc nhà mình. Ðược người vợ trinh tiết.
Một hôm, xem sử đến chỗ Tần Cối giết Nhạc Phi anh ta giận lắm, tay đang cầm cái chén, quăng xuống đất vỡ tan. Vợ thấy thế, nói:
- Cả nhà có mười cái chén, đập mất chín rồi, còn cái này lại đập nốt, lấy gì mà uống nước?
Anh ta nghe nói, trợn mắt quát to lên:
- À à! Mình bênh thằng Tần Cối à! Hay là mình đã thông dâm với nó?
13. Sao đã vội chết
Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:
- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?
Ông lang quả quyết đáp:
- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.
Ông lão cau mặt nói:
- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết?
Ông lang xua tay nói:
- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?
14. Con thanh tịnh
Ông quan nọ muốn ăn thịt ếch, sai lính đi bắt, nhưng lại không muốn dùng tiếng "ếch", nghe không sang, bảo là đi bắt con thanh tịnh, ý nói trong sạch, không ăn bẩn.
Lính nghĩ nát óc mà không hiểu "con thanh tịnh" là con gì, gặp ai cũng hỏi. Hỏi nhà sư, nhà sư nói:
- ở trên đời này, chỉ có nhà tu hành là thanh tịnh thôi!
Lính mừng quá bắt sư trói lại, lôi về để dưới nhà giam, vội vàng lên công đường thưa:
- Bẩm con đã bắt được con thanh tịnh về đây rồi ạ.
Quan truyền: - Thế thì chặt đâu lột da cho ta!
Sư nghe, sợ mất vía, lạy lục.
- Nhờ anh lên bẩm quan, hôm qua tôi có ăn mấy miếng thịt cầy, chẳng được thanh tịnh nữa, xin quan xét cho!
15. Sát sinh tội nặng lắm!
Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:
- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Ðể nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không?
Người đánh cá hỏi: - Sám hối thì phải thế nào?
Sư bảo: - Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.
Người đánh cá nói:
- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền, chứ kém không được.
Sư nói:
- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.
16. Hết khoe chữ
Có một nhà sư hay khoe chữ, thích đối đáp. Một hôm, học trò vào vui cảnh chùa, nhà sư ra câu đối, thách đối:
- Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ
Thấy câu đối có ý châm chọc mình, anh học trò liền trả miếng:
- Trên sư dưới sãi, ngảng lưng trở lại, trên vãi dưới sư
Từ đó, nhà sư chỉ lo đọc kinh kệ, không dám khoe chữ nữa.
17. Cha cố và sư ông thi tài
Một ông cha thấy sư đang đăng đàn làm lễ, muốn xỏ ông sư, đọc luông một vế câu đối:
Sư ông đăng đàn, vãi ra kia, tiểu ra đấy.
Vãi vừa có ý và vãi, vừa có ý đại tiện, tiểu vừa có ý chú tiểu, vừa có ý tiểu tiện.
Nhà sư cũng không vừa, chờ hôm chủ nhật thất cho đang rửa tội mớivào nhà thờ đối lại:
Cố cha rửa tội, tra đằng trước, sờ đằng sau.
Câu đối lại cũng tài tình! Cha có hai nghĩa: ông cha, và "tra" vào; sờ cũng có hai ý: bà sờ (souer) và sờ mó.
18. Xin tiền tiên
Có hai anh hay nói láo. Một hôm, cùng đi tắm với nhau, anh nọ muốn lòe anh kia, nên mang theo năm tiền của mình rồi lặn cuống nước, lúc ngoi lên chìa năm tiền ra, nói:
- Tao lặn xuống gặp hai ông tiên đang đánh cờ. Tao vào xem thì hai ông ấy cho tao năm tiền bảo đi chỗ khác. Tao mừng quá bơi lên đây.
Anh kia biết anh này nói láo, định xỏ lại. Anh ta giả bộ tin là thật, hỏi:
- Thết à! Thết thì để tao lặn xuống xem, may ra xin được mấy tiền nữa thì hay.
Nói rồi liền lặn xuống. Một lát bơi lên:
- Tao lại gặp hai ông tiên đánh cờ. Tao mon men đến định xin tiền, thì hai ông ấy mắng, bảo: "Thằng trước xuống đây, đã cho năm tiền bảo về chia nhau. Vậy còn xuống quấy rầy gì nữa!"
Biết là bị xỏ, nhưng anh nọ cũng đành phải chia cho anh kia hai tiền rưỡi.
19. Nhất bên trọng, nhất bên khinh
Một anh thờ mộc hay chữ vào làm cho nhà một ông quan hưu trí. Ông quan thấy anh ta lanh lợi, nói năng hoạt bát, mới hỏi:
- Trước kia anh có học hành được chữ gì không?
Anh ta trả lời: - Bẩm có ạ!
Ông quan liền chỉ con ngựa bạch quí của mình đang đứng ăn ở góc sân, bảo:
- Anh thử làm bài thơ vịnh con ngựa xem, hay thì ta sẽ thưởng.
Anh thợ mộc ứng khẩu đọc:
Bạch mã mao như tuyết (Ngựa trắng lông như tuyết)
Tứ túc cương như thiết (Bốn chân cứng như sắt)
Tướng công kỵ bạch mã (Ngài cưỡi ngựa trắng)
Bạch mã tẩu như phi (Ngựa trắng chạy như bay)
Quan gật gù khen hay, rồi thưởng cho một thúng thóc, một quan tiền.
Anh thợ ra về, gánh bên thúng thóc, bên đồ lề, thất bên nặng bên nhẹ, liền nói chữ: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền cho thêm một thúng thóc nữa để gánh cho cân.
Anh ta về nhà kể lại câu chuyện cho mọi người nghe. Có anh hàng xóm, dốt đặc cán mai, nhưng thấy được lắm tiền, lắm thóc như thế, nổi tính tham, liền bảo anh thợ mộc dạy cho bài thơ và câu nói chữ nọ. Học thuộc rồi, anh ta cũng sắp một đôi quang gánh và một ít dụng cụ vào dinh quan xin việc.
Quan cũng hỏi như lần trước và anh này hí hửng đáp mình là học trò. Quan nhìn ra sân, thất bà cụ quét sân bèn bảo anh ta làm thơ vịnh bà cụ. Anh này đã hơi lúng túng, vì chỉ thuộc mỗi bài thơ vịnh con ngựa, bây giờ biết vịnh bà ụ thế nào? Nhưng đã trót thì phải trét cũng ứng khẩu đọc:
Bà cụ mao như tuyết...
Quan gật đầu: - ừ, được đấy!
Nghe quan khen, anh ta vững bụng đọc tiếp:
Tứ túc cương như thiết.
Quan cau mày: - ý hơi ép, nhưng cũng tạm được, ngâm tiếp đi!
Mừng quá, anh này đọc một mạch:
Tướng công kỵ bà cụ,
Bà cụ tẩu như phi.
Quan nghe xong giận quá, quát người nhà nọc ra đánh cho ba mươi roi vào mông. Ðứng dậy anh ta vừa xoa vừa nói: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền bảo đánh thêm ba mươi roi nữa và lưng cho cân.
20. Cô dâu thử tài chú dể
Tối hôm động phòng, cô dâu đóng cửa buồng không cho chú rể vào, ra một vế câu đối, bảo đối được mới mở cửa. Cô dâu đọc:
Hang Thiên Thai, then khóa động đào, đóng chặt lại kẻo chàng Lưu quen lối cũ
Cô dâu đã dùng điển "Lưu thần nhập Thiên Thai" để ra câu đối. Nhưng cú rể không phải tay vừa, dùng luông điển "Bái Công nhà Hán dẫn quân vào cửa Hàm Cốc", đôi lại:
Cửa Hàm Cốc, lỏng khuôn tạo hóa, mở toang ra cho ông Bái dân quân vào.
Cô dâu chịu là đối giỏi và mở toang ngay cửa ra để đón chú rể vào.
21. Làm theo bố vợ
Có anh chàng kia, tính rất khù khờ. Biết thế nên trước khi anh ta đi làm rể, mẹ anh ta đã đinh ninh dặn dò:
- Thất bố vợ làm gì thì con phải làm theo, chớ đừng hếch mắt lên mà nhìn, người ta cười cho, nghe không?
Nhớ lời mẹ dặn, một hôm bố vợ đang cuốc đất, anh ta chạy lại đỡ lấy cuốc nói:
- Thầy để con làm cho.
Ông bố vợ vui vẻ trao cuốc cho, rồi đi trồng chuối. Thấy thế, anh ta lại chạy theo và bảo để đó anh làm cho.
Lần này ông bố vợ không nói gì cả, bỏ đi đốn tre. Anh ta lại chạy theo giật lấy dao . Bực mình vì anh con rể giành mất việc mà chẳng làm xong việc gì, ông ta bỏ về nhà. Dọc đường cái khăn bịt đầu vướng phải cành tre, ông ta cũng không buồn nhặt, cứ thế đi. Anh con rể không có khăn cũng vộ cởi ngay áo treo lên cành tre, rồi tất tả chạy theo bố vợ về.
Về đến nhà, ông ta hầm hầm chạy vào buồng vợ sinh sự với vợ:
- Ðồ ngu! Chọn thế nào mà lại vớ phải một thằng rể điên. Sáng nay chẳng làm được việc gì với nó cả!
Hai vợ chồng cãi nhau, rồi ông ta đạp cho vợ một đạp.
Anh rể vừa hộc tốc chạy về, thấy thế cũng co cẳng đạp cho mẹ vợ thêm một đạp nữa ngã lăn kềnh.
21. Nguyện vọng của anh lười
Có một anh suốt ngày đêm chỉ nằm một chỗ, có hai bữa cơm cũng không muốn há miệng ăn. Thế là chết đói. Xuống âm phủ, Diêm Vương bắt đầu làm kiếp mèo. Anh ta bèn tâu:
- Muôn tâu Ðại Vương, Ðại Vương bắt hóa kiếp mèo, thì xin cho được một bộ lông đen tuyền, chỉ có cái mũi là lông trắng mà thôi.
Diêm Vương không hiểu ý ra làm sao, hỏi lại:
- Ðể làm gì?
Anh ta tâu:
- Ðể khi con nằm trong xó tối chuột không trông thấy, chỉ thấy cái đốm trắng, uưởng là cục mỡ, chạy lại gặm, thế là con cứ việc há mồm ra ăn thịt, không mất công rình bắt nữa.