Chương XIII
Tác giả: Otto Skorzeny
Tôi không đề cập đến các bài diễn văn chào đón, các cuộc lễ gắn huy chương Đức và Huy chương Ý mà tôi được thưởng sau vụ đột kích, lời cám ơn chân thành của ông Duce và lời khen nồng nhiệt mà chính Adolf Hiler công khai bày tỏ tại Tổng hành dinh trước các nhân vật thượng đỉnh của chế độ. Sau một thời gian nghỉ phép ngắn xả hơi, tôi trở lại "căn cứ" Friedenthal để lại tiếp tục tổ chức "đơn vị đặc biệt"(1). Nhưng tôi chỉ có thể làm việc yên ổn có năm tuần lễ. Vào cuối tháng 11 năm 1943, tôi bất chợt nhận được lệnh, từ Tổng hành dinh của Fuhrer, phải lên đường đi Ba-lê lập tức, cùng với một Đại đội, và khi đến nơi, trình diện Tướng Oberg, chỉ huy trưởng SS và cảnh sát Đức tại Pháp để nhận các chỉ thị chi tiết.
Tôi không thích loại mệnh lệnh cụt ngủn và mơ hồ này; kinh nghiệm lâu ngày cho tôi biết thường thường là chúng báo trước một sứ mạng khó khăn tế nhị. Nhưng đã là quân nhân thì chỉ biết có tuân lệnh, tôi nhảy lên chuyến tàu đầu tiên, trong khi Đại đội được chỉ định sửa soạn để lên đường vào sáng hôm sau.
Trong thâm tâm, tôi rất hài lòng được trở lại Ba-lê nơi tôi đã được thăm viếng - thoáng qua thôi - vào những năm 1940 và 1942. Vẻ đẹp duyên dáng của thủ đô Pháp, đã làm cho tôi ngay từ lúc mới đến, ngạc nhiên đến nỗi tôi công khai tuyên bố là "Thành phố đẹp nhất châu Âu", thêm vào đó, theo ý tôi thành phố đẹp thứ hai là Vienne, thứ ba là Budapest. Bảng xếp hạng này luôn làm cho người Đức nổi giận, nhất là khi, trong tư cách một dân Áo chính cống, tôi xác định rằng, đối với tôi, Bá linh chỉ là một đống đồ sộ đủ thứ đá xếp chồng lên nhau. Nhiều lần tôi được dịp cười thật đã, khi thấy họ lồng lên vì sự xúc phạm vô hại này......
Sau khi tuân theo mệnh lệnh được dán đầy ở sân "gare du Nord" bảo rằng tôi phải trình diện tức khắc cơ quan Kommandantur tại công trường Opéra, tôi đến khách sạn Continental đường Rivoli. Sau một lúc tìm kiếm thật lâu trong một tổ ong vĩ đại - hàng trăm phòng ngủ được sửa đổi lại thành văn phòng cho sĩ quan tham mưu - tôi gặp được người cần tìm, đó là một Đại tá, cũng mặc quân phục sĩ quan tham mưu với hai nẹp đỏ dọc hai bên hông quần. Ông này đang chờ đợi để báo cho tôi biết rằng ông ta nhận được lệnh đặt dưới quyền chỉ huy của tôi một số binh sĩ - bao nhiêu binh sĩ và nhằm mục đích gì thì ông không biết. Ông ta gọi một cộng sự viên thân tín của vị chỉ huy "Đại Ba lê" để hỏi, nhưng ông này cũng không biết gì hơn để thông báo cho tôi. Ông ta chỉ biết rằng sự việc có liên quan đến các mối liên lạc, vốn đã rất là rắc rối, giữa chúng tôi và chính quyền Vichy. Cả hai ông bèn dấn thân vào một hội nghị thật sự để duyệt xét tình hình nước Pháp. Vì lẽ từ nhiều tuần trước, tôi không đủ thời giờ để chỉ đọc nhật báo, tôi không hiểu được gì nhiều; ngoài các tên tuổi như Thống chế Pétain, Đô đốc Darlan, các tướng lĩnh De Gaulle và Giraud, tôi tuyệt đối không biết những mưu mô ngoắt ngoéo của chính quyền Pháp quốc.
Căn cứ vào lời giải thích của hai sĩ quan, tình hình nước Pháp có thể được trình bày như sau: Các cộng sự viên thân tín của Thống chế Pétain, và nói một cách tổng quát, các nhân vật trong chính phủ Vichy, tỏ ra rất giận dữ nhất là vì các cuộc thảo luận Pháp Đức không bao giờ vượt qua được giai đoạn đánh dấu bằng hiệp ước đình chiến 1940. Từ ba năm qua, người ta đã không tiến được bước nào trong việc soạn thảo một Hiệp ước Hòa bình như đã hứa hẹn đã lâu rồi, và một khi được ký kết, chắc chắn tình trạng khó khăn của chính quyền Pháp sẽ được khắc phục và củng cố mạnh hơn. Về phần thống chế Pétain, (những người đang đối thoại với tôi xem ông ta như một nhà ái quốc nồng nàn, mặc dù có phần cứng đầu), ông ta đang cố hết sức cứu vãn tình thế - ý muốn rất hợp tình hợp lý - Khốn thay, Đức quốc, bị thúc đẩy bởi sự nghi ngờ cũng rất chính đáng, vẫn còn ngần ngại không muốn nhượng bộ quá nhiều cho nhà ái quốc Pháp.
Thật vậy, gần như chắc chắn rằng Vichy và phong trào giải phóng nước Pháp vẫn duy trì các mối liên lạc chặt chẽ không ngờ. Khẳng quyết này đối với tôi có thể tin được. Hiện tại, Bắc Phi cũng như các nơi khác thuộc đế quốc Pháp đã bị Đồng minh chiếm đóng, nghĩa là ở trong tay phong trào giải phóng nước Pháp. Thêm vào đó, ảnh hưởng tinh thần tiếp theo sau các chiến thắng ban đầu của các đại cường thuộc khối Trục, bắt đầu suy giảm. Từ đầu năm 1943, các biến chuyển của tình hình đã đi vào một khúc quanh rõ ràng bất lợi cho Đức quốc - một sự đổi thay đã xẩy ra mà có lẽ chúng tôi chưa nhận thức được rõ rệt, trong khi đó phía thù nghịch lại có các chỉ dẫn thật chính xác.
Và giới lãnh đạo Đức vừa nhận được một báo cáo mật, phát xuất từ nơi mà mọi người thường gọi là "các nguồn tin chính xác đáng tin", theo đó, người ta đang chờ đợi một biến chuyển ngoạn mục: mối liên lạc vẫn có giữa Vichy và phong trào giải phóng hình như chặt chẽ đến nỗi chính quyền Pétain có ý định trốn qua bắc Phi. Các báo cáo khác, phát xuất từ các nguồn tin cũng rất chắc chắn, gán cho giới thân cận tướng De Gaulle, có ý định đảo chính cướp chính quyền của ông già Thống chế và các Tổng trưởng của ông. Bộ chỉ huy Đức tại Pháp lập tức thông báo cho Tổng hành dinh của Fuhrer hay hai giả thuyết trái ngược nhưng cũng rất khẩn trương này.
Về phần vai trò của tôi, họ chẳng biết gì ráo; chắc chắn bộ chỉ huy sẽ sớm nhận được các mệnh lệnh chính xác. Lúc này tôi chỉ phải đến trình diện gấp tướng Oberg.
Tôi cáo từ, đi bộ ngược trở lại Champs - Elysées và đến một con đường gần đại lộ Foch, nơi đạt văn phòng của ông Tướng SS. Tôi được một sĩ quan cảnh sát tiếp đón, ông này cũng không hơn gì hai ông ở khách sạn Continental, chẳng biết gì về sứ mạng mà người ta sắp giao phó cho tôi. Ông ta cũng tự cho có bổn phận thuyết trình cho tôi nghe tình hình nước Pháp, ông ta cũng làm như đang tham dự vào một hội nghị thật sự mà nội dung hoàn toàn giống với những điều mà tôi vừa mới được nghe, chỉ có một điểm khác biệt duy nhất là ít chính xác hơn, ít phong phú hơn, nhưng lại kéo dài hơn nửa giờ liền. Khi tôi khiêm tốn hỏi dò các mệnh lệnh của tướng Oberg, ông ta trả lời rằng có hy vọng sẽ nhận được các chỉ thị chi tiết trong vòng 24 giờ sắp đến. Ông ta khuyên tôi nên sẵn sàng - để làm gì, tôi tự hỏi - và nhất là phải tạt ngang qua văn phòng mỗi ngày hai lần. Về phần một Đại đội của tôi sắp đến sáng mai, đơn vị sẽ đóng tại một doanh trại gần Saint-Germain-en-Large.
Sáng hôm sau tôi lại đến, nhưng vô ích, Tổng hành dinh G.Q.G vẫn chưa có một mệnh lệnh nào cho tôi. Vào buổi chiều, tôi đến Gare du Nord để đón Đại đội binh sĩ của tôi sau khi vật lộn với không biết bao nhiêu Phòng, Sở để xin sáu chiếc cam-nhông cần thiết để chở người và vật liệu. Trước các câu hỏi tò mò của các sĩ quan thuộc đơn vị, tôi chỉ biết trả lời là phải chờ đợi mệnh lệnh.
Buổi tối, khi tôi ghé qua công sở của Tướng Oberg, tôi được yêu cầu trở lại sau nửa đêm vì lẽ lúc đó người ta mới hy vọng nhận được chỉ thị của G.Q.G. Biết rằng Fuhrer ưa làm việc ban đêm, tôi không ngạc nhiên mấy.
Thật vậy, vào lúc 2 giờ sáng, máy viễn ký chuyển cho chúng tôi các chỉ thị chờ đợi.
"Phải bao vây thành phố Vichy, một cách bí mật, bằng một vòng đai quân Đức. Các phân đội chia nhau trấn giữ các vị trí thích hợp để, ngay khi có hiệu lệnh đầu tiên, vây kín thành phố không cho một ai thoát ra ngoài bằng cách đi bộ hoặc đi xe. Ngoài ra, phải có một đơn vị chiến đấu trừ bị đủ mạnh, để có thể, ngay khi có hiệu lệnh thứ nhì, bao vây hoặc chiếm luôn trụ sở của chính phủ Pháp. Các toán quân tham dự chiến dịch này sẽ được đặt dưới quyền thiếu tá Skorzeny, Tư lệnh quân đội Đức tại Pháp và Chỉ huy trưởng Công an, Cảnh sát, trong phạm vi thẩm quyền, cung cấp mọi phương tiện mà Thiếu tá Skorzeny xét cần thiết. Ngay khi các toán quân được đặt vào vị trí, Thiếu tá Skorzeny báo cáo về Tổng hành dinh bằng máy viễn ký".
Von Foelkersam, tùy tùng của tôi, ném cho tôi một cái nhìn hùng biện. Một lần nữa, chúng tôi lại phải làm việc suốt đêm. Luôn luôn tiên liệu trước, Foelkersam đã kiếm được một bản đồ tham mưu vùng Vichy. Nhớ lại các đợt tiến quân chớp nhoáng của quân đội Đức trong cuộc viễn chinh tại Pháp và các khó khăn gặp phải lúc đó, tôi bảo một sĩ quan mang đến một bản đồ Michelin mà tôi cho là rất chính xác. Vì khu vực cần được cô lập quá rộng lớn,chúng tôi ước tính phải cần đến hai tiểu đoàn, ngoài ra lại phải có một tiểu đoàn thứ ba làm lực lượng dự bị. Vì chúng tôi phải hành động bí mật, chúng tôi quyết định sử dụng các lực lượng cảnh sát để lập vòng đai, mà sự điều động sẽ không quá rầm rộ. Ngược lại, đối với cuộc đột kích vào các cơ sở chính phủ, ngoài đại đội của tôi, lẽ tất nhiên các toán quân thiện chiến phải được đặt dưới quyền sử dụng của tôi.
Tham mưu trưởng của tướng Oberg chứng tỏ rất cừ vì đã chuyển đến Vichy hai Tiểu đoàn cảnh sát trong vòng 48 giờ đồng hồ. Tôi tuyên bố rất hài lòng, thế nhưng sáng hôm sau, tôi được biết hai Tiểu đoàn ấy lại do một Tướng lãnh cảnh sát chỉ huy! Theo các huấn thị rất rõ rệt của G.Q.G, vị tướng lãnh này sẽ phải đặt dưới quyền chỉ huy của tôi - một Thiếu tá trừ bị tầm thường! - Tôi thấy trước là sẽ gặp rắc rối vô cùng; may thay, mối lo ngại của tôi không còn đúng nữa. Ngay từ lúc đến Vichy, ông Tướng đã đến ở tại một quán trọ trong vùng phụ cận, và bị cám dỗ bởi phẩm chất đặc biệt ngon lành của các món ăn Pháp, ông ta không còn nghĩ gì đến binh sĩ thuộc quyền nữa, một lần nữa, sự thỏa mãn khẩu vị đã chiến thắng các ưu tư quân sự.
Tuy nhiên đấy mới chỉ là một sự dự liệu. Trong thực tế, chúng tôi chưa thấy sự dự liệu đó được thể hiện - chúng tôi còn dự liệu một cách quá đáng không ngờ là đằng khác. Ngay hôm sau, tôi cố gắng xin vị chỉ huy trưởng Lục quân (Wehrmacht) sẵn sàng cho một toán quân ưu tú. Và chuyện đã không xẩy ra đơn giản. Những địa phương quân già nua không làm tôi ưng ý, một Tiểu đoàn được đề nghị thay thế cũng không giúp được gì hơn cho công việc của tôi. Bởi vì như vậy tôi sẽ bị bắt buộc phóng ra cuộc tấn công sau một thời gian vội vã và với các toán quân mà tôi chưa quen thuộc. Tôi muốn có thể trông cậy vào tinh thần chiến đấu và kinh nghiệm của binh sĩ thuộc quyền. Sau nhiều cuộc thương thảo nhọc nhằn với nhiều sĩ quan Tham mưu, tôi đạt được kết quả như thế này: thay vào chỗ một Tiểu đoàn được yêu cầu, tôi chỉ được cung cấp hai Đại đội, nhưng đó là các đơn vị Thiết kỵ của sư đoàn tân lập Waffen SS Hohenstaufen. Tình cờ, ngay hôm đó, tôi làm quen được với vị tư lệnh Sư đoàn. Tôi thuyết phục được ông ta về tính cách quan trọng đặc biệt của sứ mạng được giao cho tôi, ông ta hứa sẽ gửi cho tôi các quân nhân chọn lọc và luôn cả hai Đại úy xuất sắc nhất của Sư đoàn. Tôi phải nói rằng, ông ta đã giữ lời hứa. Chỉ một vài ngày sau khi các toán quân này đến một phi trường nhỏ phía Bắc Vichy, nơi tôi chỉ định làm chỗ đóng quân cho lực lượng trù bị, tôi mới tin tưởng rằng với các quân nhân cỡ đó, tôi sẽ có thể yên tâm chu toàn sứ mạng.
Sau khi giải quyết một vài chi tiết liên quan đến việc chuyên chở binh sĩ, ngày hôm sau, tôi cùng Von Foelkersam đi Vichy. Nhờ cẩn thận mặc thường phục, hai chúng tôi có thể ở trong thành phố mà không bị để ý, để ẩn thân tìm hiểu địa hình của nơi này.
Hôm sau nữa chúng tôi "thăm viếng" thành phố cùng với một ông khách, một sĩ quan cảnh sát cũng bận thường phục. Lẽ tất nhiên chúng tôi chú trọng đặc biệt đến các con đường, các công ốc của khu vực làm việc của chính phủ. Các công sở chính phủ được đặt tại trung tâm thành phố, tại một trong các khách sạn được nối liền với một số kiến trúc khác bằng một lối đi có mái cao ngang tầng lầu thứ nhất. Hành lang này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch của tôi. Một trong các mặt tiền của toàn bộ các cơ sở này hướng ra một công viên, mặt kia, hướng ra một công trường lớn.
Khu vực rộng rãi này chắc chắn sẽ làm cho việc điều động mau lẹ lực lượng của tôi được dễ dàng hơn. Trong khi đó, chúng tôi lưu ý đến các kiến trúc nhỏ mới được xây cất trên công trường, mà người ta bảo rằng do các đội phòng vệ Pháp chiếm giữ và đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của chính phủ. Các quân nhân Pháp mà chúng tôi thấy xuất hiện đây đó, có vẻ có kỷ luật, được trang bị đầy đủ và nhất là được huấn luyện chu đáo. Chúng tôi phải chờ đợi một sức đề kháng mạnh mẽ từ phía này - ngoại trừ trường hợp hoàn toàn bị bất ngờ đến nỗi các sĩ quan của họ không kịp ban một mệnh lệnh nào.
Khi chúng tôi thong thả trở về chỗ trọ, bỗng nhiên tôi trở nên lầm lì và cáu kỉnh. Thật vậy, tôi vừa có một nhận xét xấu hổ: Tôi đã hết sức ngu xuẩn - ngu xuẩn không chê vào đâu được. Bởi vì sáng nay chúng tôi đã có tư thế của những tên ngu ngốc chứ không phải là các sĩ quan tình báo Đức, vả lại càng không phải là Chỉ huy trưởng cảm tử đang hành động trên đất địch. Làm sao chúng tôi lại có thể đi theo viên sĩ quan cảnh sát kia, người mà dân chúng chắc đã biết nhẵn mặt? Đó là chưa kể đến trường hợp sau khi giải thoát Mussolini, báo chí địa phương có in một tấm hình quen thuộc của tôi! Tóm lại, tôi không có gì hãnh diện về mình cả, và một lần nữa, tôi thấy còn cần phải học hỏi nhiều.
Vào buổi chiều, tôi tiếp xúc với nhiều viên chức và sĩ quan tại các cơ sở Đức ở Vichy để thử tìm hiểu, ít ra là khái quát, về tình hình. Trước hết một tùy viên trẻ của sứ quán – lúc đó chính Abetz thì lại không có mặt – trình bày với tôi hai giả thuyết đối chọi nhau ngay trong giới ngoại giao. Theo một số người thì người Pháp sẽ chẳng làm gì cả, do đó chúng tôi không có lý do gì để can thiệp. Đối với một số khác, chúng ta phải di chuyển trụ sở chính phủ Pháp bằng cách để họ tự ý hay bằng sức mạnh bó buộc, về vùng Ba-lê. Làm như thế, ông già Thống chế trước hết sẽ tránh khỏi hành động của nhóm thân De Gaulle, sau đó, chịu ảnh hưởng của Đức nhiều hơn, nhờ đó, tương quan Pháp Đức sẽ được cải thiện. Nhóm thứ hai này hình như lại còn sửa soạn sẵn một lâu đài phía Bắc Ba-lê để đưa ông Thống chế về đó.
Người thứ hai tôi được tiếp chuyện là một sĩ quan tình báo của quân đội – vậy là một thuộc viên của Đô đốc Canaris – ông ta muốn trình bày với tôi tất cả các tin tức mà ông ta có được. Đó là một bộ sưu tập thật kỳ dị các chuyện vẩn vơ, mách lẻo, những báo cáo khách quan, phần lớn phát xuất từ các nhân viên ở Bắc phi, và các giả thuyết tưởng tượng, tin này thì được một cô thư ký làm việc trong một Bộ nào đó của Chính phủ Pháp vô tình cung cấp, nhân một cuộc tán dóc trong quán rượu, tin kia thì được cung cấp bởi một cô bạn của một sĩ quan hải quân thân cận với Đô đốc Darlan – một cô sẵn sàng chấp nhận ban ân huệ cho bất cứ chàng trai trẻ nào miễn là có uy tín được choàng bộ đồng phục hải quân có sọc ngang. Tất cả tạo thành một hình ảnh rối mù mà tôi tự hỏi không biết Đô đốc Canaris làm sao có thể rút ra các suy đoán rõ rệt.
Chỉ huy trưởng cảnh sát của chúng tôi cũng không biết được gì nhiều hơn. Ông ta chỉ có thể nói với tôi là tình hình không mấy sáng sủa – điểm này chẳng giúp tôi hiểu thêm được gì mới lạ cả. Ông ta cũng cho tôi xem một số lượng đáng kể các báo cáo trái ngược nhau. Trong mọi trường hợp, ông ta không tin ở cung từ của các nhân viên thân De Gaulle bị bắt, đã hai lần ông được báo cho biết là sẽ có các hoạt động của nhóm thân De Gaulle chống lại chính phủ Vichy – và rồi chẳng có gì xảy ra cả. Ông ta đòi hỏi phải di chuyển mau lẹ Chính phủ Pháp về một khu vực bị chiếm đóng. Lúc đó tôi biết rằng trong tâm trí ông ta, giải pháp này có lợi điểm là chấm dứt các xúc động và lo lắng vẫn gây phiền liên tục ở đây. Tóm lại ông này chỉ có một ham muốn: ông muốn người ta để ông yên.
Sau cùng tôi còn đến gặp một Đại Tá không quân, thành phần của ủy ban đình chiến phía chúng tôi. Viên sĩ quan này tuyên bố ngay là ông ta không biết gì cả, và từ chối không tin vào bất cứ tin đồn nào hiện đang đầu độc không khí của thành phố.
- Tốt hơn hết là ta nên ký kết ngay hiệp định hòa bình với Pháp và nếu có thể, với Anh quốc luôn thể. Đó là cách hay nhất để giải quyết một lúc tất cả mọi vấn đề, - ông ta khẳng quyết như vậy và tỏ vẻ hài lòng rõ rệt là đã tìm được một giải pháp đơn giản và căn bản như thế.
Tiếc thay, đề nghị nầy không ích lợi gì cho tôi cả. Trên đường về, tôi không thể ngăn cản được cơn phiền muộn sâu xa khi nghĩ đến sự tồi tệ khó tin do các báo cáo của những đại diện nước Đức ở khắp nơi tạo lập, trong văn khố thuộc Tổng Hành Dinh G.Q.G. Làm thế nào để Fuhrer và các cố vấn của ông có thể đạt đến các kết luận chính xác hay ít ra là sự lượng định tình hình đúng mức? Vậy mà, chính vì đã dựa vào các báo cáo nầy – nếu không nói là các tin đồn nầy – Tổng Hành dinh đã ra lệnh cho tôi phát động một chiến dịch đã được hoạch định: và nếu vạn nhất quyết định nầy đã dựa trên các tin tức sai lầm hay cố ý giả mạo, hậu quả thê thảm sẽ là sự rắc rối kinh khủng trong những mối bang giao hiện tại và tương lai giữa Pháp và Đức.
Nhưng tôi tự an ủi bằng cách nhủ thầm rằng chuyến đi này dù rất chán nản nhưng không phải là hoàn toàn vô ích: nhân khi đi lang thang trong thành phố, tôi nghiệm ra rằng ở đây người ta vẫn giữ thói quen kéo dài giấc ngủ trưa của dân vùng Địa Trung Hải! Thật vậy! đã 2 giờ chiều rồi mà đường phố còn vắng ngắt. Do đó, nếu các mệnh lệnh còn để cho tôi khả năng chọn lựa, tôi sẽ chọn lúc này, thời gian đặc biệt yên tĩnh trong ngày để làm giờ H. Làm như vậy tôi sẽ có may mắn cùng với tiểu đoàn xung kích của tôi lọt vào được trung tâm thành phố mà không gây sự chú ý nào. Từ phi trường cho đến khu vực đặt chính phủ, khoảng cách đó chừng 5 cây số tương ứng với 7 phút di chuyển bằng thiết vận xa. Lẽ tất nhiên trong kế hoạch, tôi phải lưu ý đến các thám sát viên của chính phủ Vichy và có lẽ của phe giải phóng nữa, những người đang rình xem chuyện gì xảy ra trong các doanh trại dùng làm nơi đồn trú của binh sĩ tôi. Để chống lại sự rình rập này, chỉ có hai cách: đánh đổi vai trò với địch quân bằng các cuộc thao diễn khéo léo, và khi cơ hội đến, hành động mau lẹ như sấm sét.
Được Von Foelkersam phụ lực, tôi cẩn thận và tỉ mỉ hoạch định tất cả các chi tiết của phương cách báo động nhất là đối với đơn vị xung kích của tôi. Chúng tôi dự liệu một hệ thống báo động gồm hai giai đoạn và ra lệnh cho binh sĩ thực tập hằng ngày – thao diễn cơ bản ngày và đêm, đi bộ đều bước hoặc đi bằng thiết vận xa. Tuy nhiên tôi giữ không cho tổ chức các cuộc thực tập vào buổi trưa để khỏi làm rộn giấc ngủ của các thám sát viên địch. Dầu sao, chúng tôi cũng biết rằng vào giờ đó, họ đều đã tập trung chung quanh chỗ ngủ, và lúc nào họ cũng bị tôi bắt gặp như vậy.
Về phần các Bộ chỉ huy của hai Tiểu đoàn Cảnh sát, một Bộ chỉ huy đồn trú tại Cognat, phía tây Vichy, và Bộ chỉ huy kia đóng tại Bost, phía Đông thành phố. Tôi chạy lui tới gần như suốt ngày trong vùng để kiểm soát các cuộc tuần tiễu. Cô lập một thành phố không phải là một chuyện dễ. Từ trung tâm Vichy, không có dưới 15 con đường tỏa ra các hướng. Các con đường này xe cộ đông đúc, lại được nối với nhau bằng cả hệ thống dày đặc và rất khó kiểm soát các con đường phụ. Vậy mà chúng tôi bắt buộc phải tiên liệu việc kiểm soát di chuyển trên cả các loại hương lộ.
Trong tám Đại đội của hai Tiểu đoàn Cảnh sát, hai Đại đội vẫn tiếp tục đóng vai trò trừ bị. Nhiệm vụ của chúng là khi giờ hành động đến, phải chiếm lập tức các ngõ ra vào chính yếu ở ven thành phố. Các Đại đội khác phải kết thành một vòng đai chặt chẽ quanh Vichy và tiến tới cho đến khi cách trung tâm thành phố chừng sáu cây số. Như vậy, nhờ hai vòng đai bao vây, chúng tôi mới có thể cấm tất cả mọi sinh vật không cánh ra khỏi Vichy hay tiến vào đấy.
Kế hoạch hành động của tôi để thực hiện đích (?) chiến dịch có thể được mô tả như sau: ngay khi Tổng Hành Dinh ra hiệu lệnh thích nghi cho tôi – hiệu lệnh được ngụy trang rất lạ bắt chước tiếng chó sủa – Tiểu đoàn xung kích sẽ được báo động trước tiên. Nhờ các cuộc thao dượt liên tiếp, chắc mọi người mất không đến 10 phút là có thể sẵn sàng, được trang bị đầy đủ và lên xe. Tôi hy vọng thời cơ sẽ cho phép tôi ra lệnh khởi hành lúc 13 giờ 45. Tôi không dự liệu sẽ gặp một cản trở nào, càng không có các cuộc chống cự bằng quân đội, trên suốt lộ trình cho đến các cơ quan chính phủ trong khoảng thời gian từ 8 đến 10 phút. Như thế, phân đội tiền phong, Đại đội đầu tiên thuộc Tiểu đoàn khinh binh Friedenthal của tôi sẽ có mặt tại khu vực hành quân vài phút trước 14 giờ. Một Tiểu đội sẽ tách khỏi đơn vị, tiến chiếm một chiếc cầu nhỏ nằm trên nhánh sông Allier và đảm bảo bằng mọi giá đường rút lui của chúng tôi về phi trường. Hai tiểu đoàn thiết kỵ sẽ chiếm công trường trước tòa nhà chính phủ, công viên và các con đường kế cận, trấn thủ các nơi đó chống lại các cuộc phản công có thể xảy ra và che chở cho đại đội khinh binh do chính tôi chỉ huy, tấn công vào hai tòa nhà. Nhớ lại sự thành công nhờ tấn công bất ngờ không làm đổ máu nhiều, nhân khi giải thoát Mussolini, tôi ra lệnh bằng mọi giá, để cho đối phương khai hỏa trước. Huấn lệnh "bắn tự do" sẽ chỉ có thể do tôi ban ra, hoặc do Đại úy Foelkersam, hoặc sĩ quan Đại đội trưởng thâm niên cấp bậc cao nhất thuộc tiểu đoàn thiết kỵ.
Hai toán chiến lược đầu thuộc Đại đội do tôi chỉ huy tìm cách chiếm các lối chính đi vào tòa nhà mà không cần sử dụng đến vũ khí, và trấn giữ các cầu thang và đầu các hành lang cho đến tầng thứ nhất. Phần tối, chỉ huy toán thứ ba, tôi sẽ cố xuyên qua tòa nhà kế cận theo lối đi có mái lợp và chiếm giữ hành lang trước các văn phòng chính phủ.
Phần còn lại của kế hoạch thì tôi đành phải chờ các mệnh lệnh chính xác của G.Q.G. Tôi chưa biết liệu có nên trù tính cho phong trào giải phóng một vố chăng, bằng cách loại các Tổng Trưởng bị nghi ngờ thân De Gaulle, hay là đưa toàn vẹn chính phủ Pháp về khu vực chiếm đóng.
Ngày lại ngày trôi qua mà không mang lại cho chúng tôi điều gì khác hơn là các mệnh lệnh “báo động lớn” để rồi bị hủy bỏ đều đều vài giờ sau đó. Vào giữa tháng 12, người ta đánh thức tôi vào lúc nửa đêm và triệu dụng tôi về Ba-lê gấp. Tại Bộ Chỉ huy Lục quân ở đường Rivoli, một viên chức cơ quan tình báo quân đội chờ tôi và liên lạc cho tôi nói điện thoại với Tổng Hành Dinh của Fuhrer. Tôi đoán rằng người ta sẽ ra lệnh hành động. Sai lầm trầm trọng: một tùy viên của Fuhrer nói với tôi, bằng giọng khô khan rằng chưa có quyết định gì cả, nhưng nội trong ngày sẽ có tin. Đến 4 giờ chiều tôi gọi về G.Q.G. vẫn không có tin tức gì.
May thay, từ lâu tôi đã học cách thực hiện một đức tính căn bản của quân nhân: kiên nhẫn. Vậy thì tôi đợi cho đến lúc quý ông trong G.Q.G. thỏa hiệp được với nhau. Đến 10 giờ đêm, “Hang sói” (Tổng Hành Dinh) cho gọi tôi. Tôi nhảy bổ đến điện thoại, tin chắc sẽ nhận được lệnh dứt khoát sau cùng. Thế mà, thay vì quyết định được chờ đợi, người ta chỉ chuyển cho tôi chỉ thị sau đây:
“Thiếu tá Skorzeny quay trở lại Vichy lập tức. Phải duy trì tình trạng báo động đối với các đơn vị thuộc quyền cho đến khi có lệnh mới”.
Và tôi lại lên đường trở về thủ đô tạm thời của Pháp. Trong khi lái xe qua các vùng quê trong đêm tối, tôi cố tìm lý do làm cho G.Q.G ngần ngại. Linh cảm báo cho tôi biết rằng rồi ra Fuhrer phải đi tới quyết định hủy bỏ chiến dịch.
Trong khoảng thời gian vài ngày sau đó, chúng tôi nhiều lần được các chỉ thị, khi thì ra lệnh chấm dứt báo động, khi thì tái lập tình trạng báo động. Chúng tôi bắt đầu quá quen thuộc với các mệnh lệnh này. Khi tôi tuyên bố với các sĩ quan của Tiểu đoàn xung kích là theo ý tôi, chiến dịch sẽ không có, mối thất vọng sâu xa xuất hiện trên mọi nét mặt, rõ ràng là các quân nhân này mơ ước một chiến tích tương tự như vụ Gran Sasso.
Và thật thế, vào ngày 20 tháng 12 năm 1943, tôi nhận được lệnh bỏ cuộc và cho binh sĩ trở về. Lẽ dĩ nhiên, tất cả chúng tôi cùng có một ý nghĩ: nếu làm nhanh, thật nhanh, chúng tôi có thể còn thì giờ kiếm một giấy nghỉ phép Giáng sinh ngắn. 24 tiếng đồng hồ sau, tôi cùng với Đại đội về đến Paris và vừa đúng lúc đáp được chuyến tốc hành đi Bá-linh.
1- Xem "Những trận đánh lịch sử của Hitler", sách đã phát hành.