Chương 18
Tác giả: R. L. Stevenson
Từ phút ấy không thấy bóng một tên giặc nào lai vãng và cũng không thấy một phát đạn nào trong rừng bắn ra. Khu lô-cốt bây giờ thuộc về chúng tôi, chúng tôi yên trí săn sóc những người bị thương và nấu cơm sáng. Hun-tơ sau đấy đã tắt thở. Còn vết thương của thuyền trưởng tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Phát súng của tên An-đe-sơn làm gãy xương ngực nhưng không chạm đến phổi. Phát thứ hai chỉ xé thịt ở bắp chân. Theo lời bác sĩ thì ông thuyền trưởng sẽ khỏi, nhưng cần phải tĩnh dưỡng và tránh cử động trong dăm tuần lễ. Còn vết thương của tôi chỉ như muỗi đốt. Bác sĩ chỉ dán vào đấy một lá thuốc cao rồi béo tai tôi một cái. Cơm sáng xong xuôi, ông Chi và bác sĩ ngồi bên cạnh thuyền trưởng bàn bạc. Các ông thảo luận xong thì đã quá trưa. Bác sĩ Ly đội mũ, cầm súng, giắt dao, bỏ bức bản đồ vào túi rồi rảo bước đi ra khỏi đồn. Grây đang hút thuốc, thốt nhiên bỏ tẩu xuống, sững sờ nhìn theo bác sĩ. Hắn nói:
-Lạ kia! Bác sĩ điên rồi chắc? Tôi đáp:
-Điên à? Đời nào. Bác sĩ là người còn bình tĩnh và sáng suốt nhất trong bọn ta. Grây lại nói:
-Nếu ông ấy không điên, thì chính tôi điên mất. Tôi bảo:
-Tôi chắc bác sĩ có ý định gì đây. Chưa chừng bác sĩ đến gặp Ben-gun đấy.
Về sau này, tôi mới biết dự đoán của tôi là đúng. Lúc này trong lô-cốt nóng như thiêu như đốt... Bãi cát trên đồi bị nóng bỏng hắt hơi nồng vào mặt mọi người. Tôi lo quét dọn trong ngoài rồi đi rửa bát đĩa. Mồ hôi ướt đẫm, người như chín dừ. Nhìn thi thể của Hun-tơ và Do-sơ nằm ở góc nhà, tôi thấy bụng nóng ran lên. Tôi muốn làm một việc gì dù nguy hiểm đến đâu cũng không từ nan để giết hết bọn giặc và gỡ cho bọn tôi ra khỏi cảnh này. Khốn nỗi, tôi chỉ là đứa bé, đánh nhau cũng chẳng hơn ai. Tôi tự xét ở đây cũng không giúp ích được gì lắm. Một ý định táo tợn bỗng thoáng qua đầu, tôi hăm hở đứng lên. Dự định của tôi là sẽ xuống dưới bãi cát ở mé đông, tìm tảng đá trắng mà Ben-gun đã nói để xem hắn có giấu chiếc thuyền của hắn ở đó không. Có thuyền rồi, tôi sẽ làm cho bọn giặc một mẻ kinh hồn. Lừa lúc không ai để ý, nhân tiện lại đứng gần bị bánh quy, tôi liền thò tay vào bị, lấy bánh quy nhét đầy túi áo. Nếu gặp trở ngại gì, tôi sẽ không phải lo chết đói. Số bánh này có thể ăn hai hôm cũng chưa hết. Tôi mang theo hai khẩu súng lục; trong lưng tôi đã có bao thuốc súng và đạn rồi, như vậy là đủ khí giới để tự vệ. Nhưng làm sao để ra đi? Tôi chắc, nếu nói ra thì chẳng một ai cho tôi đi cả. Tôi đành phải dùng lối "đánh lén", thừa lúc mọi người vô ý tôi sẽ chuồn đi một mạch. Cái lối chuồn ấy thật là vô kỷ luật. Nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ, hễ thích là làm, chẳng cần phải suy tính thiệt hơn gì cho lắm. Thế là thừa cơ hội lúc ông Chi và Grây đương lúi húi thay băng cho thuyền trưởng, tôi nhảy phóc ra ngoài. Tôi chạy một mạch thẳng vào lùm cây. Lúc này, ông Chi có biết cũng không gọi kịp. Tôi đi thẳng đến bờ biển phía đông. Tôi định men theo bãi cát ven biển để bọn chúng ở trên tàu khỏi trông thấy.
Trời đã về chiều. Nhưng mặt trời còn nóng gay gắt. Tôi đi len lỏi trong rừng; xa xa nghe tiếng sóng vỗ bờ, tiếng lá cây xao động và tiếng cành cây răng rắc. Những tiếng ấy cho tôi biết gió biển hôm nay thổi mạnh hơn mọi ngày. Chốc sau, những luồng gió lạnh thổi tới. Đi dăm bước nữa, tôi đã đến ven rừng. Trước mặt tôi là chân trời vời vợi, một dải biển xanh mênh mông, lấp lánh dưới nắng trời. ở ven bờ, sóng đánh sủi bọt trắng xóa. Tôi đi dọc theo bờ biển, lòng thấy vui vui. Tôi vui chân đi quá về phía nam, núp vào các bụi rậm, rồi bò thật cẩn thận đến dải đất cát. Trước mặt tôi là nơi tàu đỗ, sau lưng tôi là biển. Gió biển đã lắng xuống. Một làn gió nhẹ tiếp theo từ phía nam và phía đông nam thổi lại mang theo những dải sương mù. Chỗ tàu đậu, nhờ có hòn đảo Hình Người che kín, vẫn yên lặng và âm thầm như hôm chúng tôi mới đến. Mặt biển như tấm gương trong; chiếc tàu in bóng rõ rệt từ lườn tàu đến đầu cột buồm, có mang lá cờ đen của giặc. Trên một chiếc thuyền đỗ gần tàu, tôi nhận ra ngay Xin-ve ngồi ở phía sau, đang trò chuyện với hai tên khác lưng tựa vào mép tàu. Một tên là thằng đội mũ đỏ, cách đây vài giờ đã ngồi chân trong chân ngoài trên bờ rào lô-cốt. Hình như chúng đương nói cười hỉ hả. Thốt nhiên có mấy tiếng kêu khác thường và ghê rợn. Nhưng tôi đã nhận ra ngay là tiếng con vẹt Phơ-linh của Xin-ve. Nhờ có bộ lông bóng lộn của nó, tôi thấy nó đang đậu trên cổ tay chủ nó. Một lát sau chiếc thuyền kia đi thẳng vào bờ. Tên giặc mũ đỏ cùng tên bạn nó ở trên tàu cũng đã chui vào đằng lái. Mặt trời đã lặn sau gò Vọng Viễn. Sương mù chả mấy chốc đã dày đặc, bóng tối phủ dần. Tôi biết nếu muốn tìm được chiếc thuyền của Ben-gun thì không thể trì hoãn một phút. Tảng đá trắng lồ lộ sau bụi cây còn cách tôi đến hai trăm mét. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới bò được đến đấy. Khi tay tôi sờ được vào mép đá gồ ghề thì trời đã tối mịt. Ngay phía trước, có một cái hồ nhỏ, cỏ phủ đầy chung quanh, đất mấp mô và những lùm cây rậm che kín. Giữa hồ có dựng một cái lều con bằng da dê như lều của những kẻ giang hồ. Tôi nhảy xuống hồ, vén lều lên, thấy ngay chiếc thuyền của Ben-gun. Thuyền là khúc gỗ đục nham nhở, trông rất thô kệch; trên thuyền trải một tấm da dê. Thuyền bé quá, ngay đối với tôi mà nó cũng còn bé, huống chi đối với thân hình một người lớn. Trong lòng thuyền, có kê một cái ghế dài rất thấp, ở đằng mũi có hai mái chèo. Đây là một chiếc thuyền rất thô sơ, nhưng được cái rất nhẹ, mang đi đâu cũng tiện. Bây giờ có thuyền rồi, tôi mới nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi định nhân đêm tối, bơi thuyền ra tàu để dò xét. Tôi chắc rằng, sau trận thua liểng xiểng hôm nay, bọn giặc sẽ rút xuống tàu, giong ra biển. Tôi ngồi đợi cho trời tối hẳn. Tôi thọc tay vào túi, lấy bánh ăn ngon lành. Đêm tối như thế này, rất lợi cho tôi hành sự. Sương mù che kín bầu trời. Những tia sáng cuối cùng của ban ngày còn sót lại đã tắt hẳn. Cả hòn đảo chìm trong bóng tối mịt mù. Khi tôi vác thuyền lên vai, mò mẫm bước ra ngoài, tôi thấy ở nơi tàu đỗ chỉ còn hai chấm ánh sáng. Một chấm là đống lửa cạnh đầm ở trên bờ, nơi bọn giặc đương vây quanh chè chén. Chấm kia là nơi tàu đậu. Lúc này, theo chiều nước thủy triều, tàu đã quay lại, mũi tàu ngoảnh về phía tôi. Trên tàu, chỉ trong phòng là có ánh sáng. Cái điểm sáng tôi thấy chỉ là do ánh sáng lọt qua chiếc cửa sổ đằng lái, lờ mờ lên lớp sương mù đặc. Nước thủy triều đã xuống từ lâu. Trước khi tới bờ biển, tôi phải lội qua một dải cát dài ướt nhão nhớt, chân thụt đến mắt cá. Phải vất vả và khéo léo lắm, tôi mới đặt được thuyền lên mặt nước.
Từ phút ấy không thấy bóng một tên giặc nào lai vãng và cũng không thấy một phát đạn nào trong rừng bắn ra. Khu lô-cốt bây giờ thuộc về chúng tôi, chúng tôi yên trí săn sóc những người bị thương và nấu cơm sáng. Hun-tơ sau đấy đã tắt thở. Còn vết thương của thuyền trưởng tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Phát súng của tên An-đe-sơn làm gãy xương ngực nhưng không chạm đến phổi. Phát thứ hai chỉ xé thịt ở bắp chân. Theo lời bác sĩ thì ông thuyền trưởng sẽ khỏi, nhưng cần phải tĩnh dưỡng và tránh cử động trong dăm tuần lễ. Còn vết thương của tôi chỉ như muỗi đốt. Bác sĩ chỉ dán vào đấy một lá thuốc cao rồi béo tai tôi một cái. Cơm sáng xong xuôi, ông Chi và bác sĩ ngồi bên cạnh thuyền trưởng bàn bạc. Các ông thảo luận xong thì đã quá trưa. Bác sĩ Ly đội mũ, cầm súng, giắt dao, bỏ bức bản đồ vào túi rồi rảo bước đi ra khỏi đồn. Grây đang hút thuốc, thốt nhiên bỏ tẩu xuống, sững sờ nhìn theo bác sĩ. Hắn nói:
-Lạ kia! Bác sĩ điên rồi chắc? Tôi đáp:
-Điên à? Đời nào. Bác sĩ là người còn bình tĩnh và sáng suốt nhất trong bọn ta. Grây lại nói:
-Nếu ông ấy không điên, thì chính tôi điên mất. Tôi bảo:
-Tôi chắc bác sĩ có ý định gì đây. Chưa chừng bác sĩ đến gặp Ben-gun đấy.
Về sau này, tôi mới biết dự đoán của tôi là đúng. Lúc này trong lô-cốt nóng như thiêu như đốt... Bãi cát trên đồi bị nóng bỏng hắt hơi nồng vào mặt mọi người. Tôi lo quét dọn trong ngoài rồi đi rửa bát đĩa. Mồ hôi ướt đẫm, người như chín dừ. Nhìn thi thể của Hun-tơ và Do-sơ nằm ở góc nhà, tôi thấy bụng nóng ran lên. Tôi muốn làm một việc gì dù nguy hiểm đến đâu cũng không từ nan để giết hết bọn giặc và gỡ cho bọn tôi ra khỏi cảnh này. Khốn nỗi, tôi chỉ là đứa bé, đánh nhau cũng chẳng hơn ai. Tôi tự xét ở đây cũng không giúp ích được gì lắm. Một ý định táo tợn bỗng thoáng qua đầu, tôi hăm hở đứng lên. Dự định của tôi là sẽ xuống dưới bãi cát ở mé đông, tìm tảng đá trắng mà Ben-gun đã nói để xem hắn có giấu chiếc thuyền của hắn ở đó không. Có thuyền rồi, tôi sẽ làm cho bọn giặc một mẻ kinh hồn. Lừa lúc không ai để ý, nhân tiện lại đứng gần bị bánh quy, tôi liền thò tay vào bị, lấy bánh quy nhét đầy túi áo. Nếu gặp trở ngại gì, tôi sẽ không phải lo chết đói. Số bánh này có thể ăn hai hôm cũng chưa hết. Tôi mang theo hai khẩu súng lục; trong lưng tôi đã có bao thuốc súng và đạn rồi, như vậy là đủ khí giới để tự vệ. Nhưng làm sao để ra đi? Tôi chắc, nếu nói ra thì chẳng một ai cho tôi đi cả. Tôi đành phải dùng lối "đánh lén", thừa lúc mọi người vô ý tôi sẽ chuồn đi một mạch. Cái lối chuồn ấy thật là vô kỷ luật. Nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ, hễ thích là làm, chẳng cần phải suy tính thiệt hơn gì cho lắm. Thế là thừa cơ hội lúc ông Chi và Grây đương lúi húi thay băng cho thuyền trưởng, tôi nhảy phóc ra ngoài. Tôi chạy một mạch thẳng vào lùm cây. Lúc này, ông Chi có biết cũng không gọi kịp. Tôi đi thẳng đến bờ biển phía đông. Tôi định men theo bãi cát ven biển để bọn chúng ở trên tàu khỏi trông thấy.
Trời đã về chiều. Nhưng mặt trời còn nóng gay gắt. Tôi đi len lỏi trong rừng; xa xa nghe tiếng sóng vỗ bờ, tiếng lá cây xao động và tiếng cành cây răng rắc. Những tiếng ấy cho tôi biết gió biển hôm nay thổi mạnh hơn mọi ngày. Chốc sau, những luồng gió lạnh thổi tới. Đi dăm bước nữa, tôi đã đến ven rừng. Trước mặt tôi là chân trời vời vợi, một dải biển xanh mênh mông, lấp lánh dưới nắng trời. ở ven bờ, sóng đánh sủi bọt trắng xóa. Tôi đi dọc theo bờ biển, lòng thấy vui vui. Tôi vui chân đi quá về phía nam, núp vào các bụi rậm, rồi bò thật cẩn thận đến dải đất cát. Trước mặt tôi là nơi tàu đỗ, sau lưng tôi là biển. Gió biển đã lắng xuống. Một làn gió nhẹ tiếp theo từ phía nam và phía đông nam thổi lại mang theo những dải sương mù. Chỗ tàu đậu, nhờ có hòn đảo Hình Người che kín, vẫn yên lặng và âm thầm như hôm chúng tôi mới đến. Mặt biển như tấm gương trong; chiếc tàu in bóng rõ rệt từ lườn tàu đến đầu cột buồm, có mang lá cờ đen của giặc. Trên một chiếc thuyền đỗ gần tàu, tôi nhận ra ngay Xin-ve ngồi ở phía sau, đang trò chuyện với hai tên khác lưng tựa vào mép tàu. Một tên là thằng đội mũ đỏ, cách đây vài giờ đã ngồi chân trong chân ngoài trên bờ rào lô-cốt. Hình như chúng đương nói cười hỉ hả. Thốt nhiên có mấy tiếng kêu khác thường và ghê rợn. Nhưng tôi đã nhận ra ngay là tiếng con vẹt Phơ-linh của Xin-ve. Nhờ có bộ lông bóng lộn của nó, tôi thấy nó đang đậu trên cổ tay chủ nó. Một lát sau chiếc thuyền kia đi thẳng vào bờ. Tên giặc mũ đỏ cùng tên bạn nó ở trên tàu cũng đã chui vào đằng lái. Mặt trời đã lặn sau gò Vọng Viễn. Sương mù chả mấy chốc đã dày đặc, bóng tối phủ dần. Tôi biết nếu muốn tìm được chiếc thuyền của Ben-gun thì không thể trì hoãn một phút. Tảng đá trắng lồ lộ sau bụi cây còn cách tôi đến hai trăm mét. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới bò được đến đấy. Khi tay tôi sờ được vào mép đá gồ ghề thì trời đã tối mịt. Ngay phía trước, có một cái hồ nhỏ, cỏ phủ đầy chung quanh, đất mấp mô và những lùm cây rậm che kín. Giữa hồ có dựng một cái lều con bằng da dê như lều của những kẻ giang hồ. Tôi nhảy xuống hồ, vén lều lên, thấy ngay chiếc thuyền của Ben-gun. Thuyền là khúc gỗ đục nham nhở, trông rất thô kệch; trên thuyền trải một tấm da dê. Thuyền bé quá, ngay đối với tôi mà nó cũng còn bé, huống chi đối với thân hình một người lớn. Trong lòng thuyền, có kê một cái ghế dài rất thấp, ở đằng mũi có hai mái chèo. Đây là một chiếc thuyền rất thô sơ, nhưng được cái rất nhẹ, mang đi đâu cũng tiện. Bây giờ có thuyền rồi, tôi mới nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi định nhân đêm tối, bơi thuyền ra tàu để dò xét. Tôi chắc rằng, sau trận thua liểng xiểng hôm nay, bọn giặc sẽ rút xuống tàu, giong ra biển. Tôi ngồi đợi cho trời tối hẳn. Tôi thọc tay vào túi, lấy bánh ăn ngon lành. Đêm tối như thế này, rất lợi cho tôi hành sự. Sương mù che kín bầu trời. Những tia sáng cuối cùng của ban ngày còn sót lại đã tắt hẳn. Cả hòn đảo chìm trong bóng tối mịt mù. Khi tôi vác thuyền lên vai, mò mẫm bước ra ngoài, tôi thấy ở nơi tàu đỗ chỉ còn hai chấm ánh sáng. Một chấm là đống lửa cạnh đầm ở trên bờ, nơi bọn giặc đương vây quanh chè chén. Chấm kia là nơi tàu đậu. Lúc này, theo chiều nước thủy triều, tàu đã quay lại, mũi tàu ngoảnh về phía tôi. Trên tàu, chỉ trong phòng là có ánh sáng. Cái điểm sáng tôi thấy chỉ là do ánh sáng lọt qua chiếc cửa sổ đằng lái, lờ mờ lên lớp sương mù đặc. Nước thủy triều đã xuống từ lâu. Trước khi tới bờ biển, tôi phải lội qua một dải cát dài ướt nhão nhớt, chân thụt đến mắt cá. Phải vất vả và khéo léo lắm, tôi mới đặt được thuyền lên mặt nước.