Chương 19
Tác giả: R. L. Stevenson
Đối với một người tầm vóc như tôi, chiếc thuyền độc mộc của Ben-gun thật là vừa vặn. Nó vừa chắc chắn lại vừa nhẹ, có thể đi trên mặt biển được. Chỉ tội là rất khó chèo. Muốn làm thế nào thì làm, nó cũng cứ lệch đường và quay tít như chong chóng. Chính Ben-gun cũng đã nói thuyền này rất khó sử dụng nếu không biết được những cái tật của nó. Thật vậy, rõ ràng là tôi chưa biết gì về chiếc thuyền này. Nó quay tứ phía, nhưng cái phía tôi muốn đi nó lại không quay cho! Phần nhiều nó hay trôi ngang; tôi dám chắc nếu không gặp dòng nước cuốn không bao giờ tôi đi đến gần tàu được. May sao chiếc tàu nằm đúng ngay giữa dòng. Cho nên dù muốn chèo thế nào thì chèo, dòng nước vẫn cứ đưa chiếc thuyền của tôi về hướng ấy. Chiếc tàu bỗng hiện ra lù lù trước mặt như một đám đen trong đêm tối. Dần dần, tôi trông rõ thân tàu và các cột buồm. Càng đến gần, dòng nước càng chảy xiết. Chỉ thoáng cái, tôi đã đến nơi và tiện tay, tôi vớ phải cái dây neo. Dây neo căng thẳng như dây cung.
Tôi chợt nghĩ ra nên cắt phăng cái dây neo để mặc chiếc tàu của chúng trôi lênh đênh ngoài biển nước đang chảy cuồn cuộn reo vang như con suối đổ. Chỉ cần một nhát dao là con tàu trôi băng theo dòng nước. Mọi việc tưởng dễ như trở bàn tay, nhưng tôi sực nghĩ ra: một dây neo căng thẳng thế này mà thốt nhiên bị đứt thì nguy hiểm chẳng khác gì vó ngựa đá lồng. Nếu tôi cố liều lĩnh cắt phăng dây neo, chắc thế nào cũng bị hất văng xuống biển. Nghĩ thế, tôi chùn tay lại. May sao trời cũng chiều người. Ngọn gió trước kia hiu hiu thổi từ phía nam và phía đông nam lại, đến đêm lại thổi về phía đông nam. Ngọn gió đổi chiều bỗng đẩy lùi con tàu vào hẳn giữa dòng. Tôi như mở cờ trong bụng khi thấy sợi dây neo trong tay tôi bỗng chùng hẳn lại, bàn tay tôi nhúng xuống nước một hồi lâu. Thế là tôi quyết định hẳn. Tôi rút dao ra, dùng răng mở dao rồi từ từ cắt hết sợi nọ đến sợi kia. Khi dây neo chỉ còn hai sợi nữa, tôi dừng lại đợi con gió khác đến sẽ làm chùng lại. Lúc ấy tôi mới tiện phăng đi. Suốt từ lúc đến gần tàu, tôi vẫn nghe tiếng quát ầm ầm trong buồng tàu. Nhưng lúc đó tôi đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không để ý mấy. Bây giờ ngồi rỗi, tôi mới bắt đầu lắng tai chăm chú nghe. Tôi nhận được tiếng lão Han, tên lính pháo thủ đại bác của Phơ-linh. Còn tên kia chắc là tên giặc mũ đỏ. Hai đứa đều có vẻ say bí tỉ. Tuy vậy chúng vẫn chén chú chén anh. Một đứa mở cửa sổ đằng sau tàu và ném vật gì xuống biển; tôi đoán là cái chai không. Nhưng không phải chúng chỉ có say mà thôi, chúng còn đang cãi vã nhau kịch liệt. Tiếng chửi rủa luôn mồm; thỉnh thoảng cơn giận dữ của chúng bốc lên làm tôi tưởng chừng đến phải đấm đá nhau. Nhưng về sau tiếng cãi cọ lắng xuống. Chỉ còn nghe thầm thì to nhỏ, rồi bỗng chốc, tiếng xô xát lại bốc cao lên và cứ thế diễn đi diễn lại mãi không thôi. Trên bờ đảo, lửa đốt sáng rực qua chòm lá cây. Văng vẳng đưa lại tiếng hát của một đứa trong bọn chúng đang hát một bài hát cổ của dân biển. Giọng hát buồn, ảo não, cứ đến cuối câu lại hạ xuống một giọng trầm não nùng, rồi kéo dài lê thê như không bao giờ dứt. Giọng hát chán nản buồn nhức xương này, tôi cho rất hợp tình hợp cảnh với bọn giặc vừa bị thất bại chua cay. Gió lại bắt đầu thổi. Chiếc tàu từ từ lùi lại. Sợi dây neo cứ chùng dần, chùng dần. Tôi cố sức giáng một nhát dao cuối cùng, tiện phăng sợi dây neo làm hai đoạn. Con tàu từ từ quay hết đầu nọ đến đầu kia trên dòng nước. Chiếc thuyền của tôi nhè nhẹ xô vào đầu mũi con tàu. Tôi cố quờ quạng chung quanh vì lúc nào chiếc thuyền độc mộc của tôi cũng như sắp chìm xuống đáy biển. Tôi không thể nào giữ cho thuyền khỏi sát vào thân tàu, nên tôi cứ đẩy nó đi lùi dần về đằng lái. Cuối cùng tôi đẩy được thuyền ra xa tàu. Khi đẩy ra, tay tôi sờ phải một cái dây lòng thòng đằng sau lái.
Tôi bám lấy sợi dây. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại vớ lấy đầu dây này. Có lẽ đó cũng là vì tình cờ mà thôi. Nhưng sau tôi thấy một đầu dây cột chặt vào tàu nên tôi nảy ra một ý khác. Tính tò mò thúc giục làm tôi muốn thử ghé mắt nhòm qua cửa sổ xem trong ấy ra sao. Tôi níu tay lần sợi dây, đưa thuyền đến sát bên tàu; tôi liền đánh đu rướn thẳng người lên; như vậy tôi có thể nhìn thấy nóc tàu và một phần gian phòng. Trong khi ấy con tàu cùng chiếc thuyền độc mộc của tôi cặp kè trôi phăng phăng theo dòng nước đến tận ngang chỗ đống lửa của bọn giặc trên bờ. Sóng vỗ vào mạn tàu dào dạt. Thế mà sao bọn canh trên tàu vẫn lặng lẽ thản nhiên. Thật là một điều lạ. Nhưng khi nhòm qua cửa sổ thì tôi đã vỡ lẽ. Tôi thấy lão Han và thằng mũ đỏ đã ôm nhau đấm đá chí tử, thằng nọ đương bóp cổ thằng kia. Nhìn xong tôi ngồi thụp xuống. Nhưng trong óc tôi vẫn ghi rõ hai bộ mặt hung ác, đỏ như gấc, lửa giận bốc phừng phừng, đương hầm hè ôm vật nhau dưới ngọn đèn dầu bốc khói. Tôi nhắm mắt lại để bớt quáng và cho quen với bóng tối. Tôi đương suy nghĩ, thốt nhiên chiếc thuyền của tôi bị chao hẳn đi. Ngay lúc ấy nó trôi hẳn về phía khác như muốn đổi hướng. Bây giờ nó trôi nhanh gấp mấy lúc trước. Tôi mở choàng mắt ra...
Chung quanh tôi biển cả ầm ĩ, trập trùng muôn ngàn lượn sóng lấp lánh lân tinh. Cách chỗ tôi vài sải, con tàu cũng đương có vẻ ngần ngừ, chao đảo. Nhìn kỹ lại, tôi thấy chiếc tàu cũng trôi về phía nam. Ngoảnh lại đằng sau, trống ngực tôi đánh thình thịch. Chính sau tôi là đống lửa của bọn giặc trên bờ. Dòng nước chảy theo hình thước thợ, kéo con tàu lẫn chiếc thuyền con của tôi lềnh bềnh ào ạt đi ra biển cả. Thốt nhiên, chiếc tàu trước mặt tôi chao nghiêng hẳn đi rồi quật sang hướng khác. Lúc ấy tôi mới nghe thấy tiếng kêu ầm ĩ trên tàu. Nghe thấy tiếng giày nện thình thịch trên chiếc thang đằng lái, tôi đoán hai thằng giặc đã thôi đánh nhau vì chúng đã nhận thấy sự nguy hiểm. Tôi nằm rạp xuống lòng thuyền, phó thác tấm thân cho sự rủi may. Tôi chắc rằng chỉ đi xa một chút nữa, những lượn sóng cả bạc đầu sẽ nuốt trửng lấy chiếc thuyền con và chôn vùi tôi xuống đáy biển. Nghĩ đến chết, tôi không sợ lắm, nhưng sao trong người tôi cứ xao xuyến. Tôi nằm như vậy lâu lắm, mặc thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Sương mù và nước biển làm áo quần tôi ướt đầm. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến chết; tôi chỉ đợi một đợt sóng sắp đến đưa tôi về gặp cha tôi. Dần dần tôi mệt lả người. Sự lo sợ làm tâm hồn tôi mê mẩn. Về sau tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tôi mơ tưởng đến quê nhà, đến những người thân, đến cái quán cơm hẻo lánh trên cửa biển. Tôi thấy bác sĩ Ly, ông Chi đương nhìn tôi vui vẻ. Tôi thấy tiền bạc để đầy nhà và từng đoàn người nghèo khổ đang kéo đến. Họ đông, đông vô kể. Đầu họ nhấp nhô, trập trùng, cuồn cuộn như sóng.
Đối với một người tầm vóc như tôi, chiếc thuyền độc mộc của Ben-gun thật là vừa vặn. Nó vừa chắc chắn lại vừa nhẹ, có thể đi trên mặt biển được. Chỉ tội là rất khó chèo. Muốn làm thế nào thì làm, nó cũng cứ lệch đường và quay tít như chong chóng. Chính Ben-gun cũng đã nói thuyền này rất khó sử dụng nếu không biết được những cái tật của nó. Thật vậy, rõ ràng là tôi chưa biết gì về chiếc thuyền này. Nó quay tứ phía, nhưng cái phía tôi muốn đi nó lại không quay cho! Phần nhiều nó hay trôi ngang; tôi dám chắc nếu không gặp dòng nước cuốn không bao giờ tôi đi đến gần tàu được. May sao chiếc tàu nằm đúng ngay giữa dòng. Cho nên dù muốn chèo thế nào thì chèo, dòng nước vẫn cứ đưa chiếc thuyền của tôi về hướng ấy. Chiếc tàu bỗng hiện ra lù lù trước mặt như một đám đen trong đêm tối. Dần dần, tôi trông rõ thân tàu và các cột buồm. Càng đến gần, dòng nước càng chảy xiết. Chỉ thoáng cái, tôi đã đến nơi và tiện tay, tôi vớ phải cái dây neo. Dây neo căng thẳng như dây cung.
Tôi chợt nghĩ ra nên cắt phăng cái dây neo để mặc chiếc tàu của chúng trôi lênh đênh ngoài biển nước đang chảy cuồn cuộn reo vang như con suối đổ. Chỉ cần một nhát dao là con tàu trôi băng theo dòng nước. Mọi việc tưởng dễ như trở bàn tay, nhưng tôi sực nghĩ ra: một dây neo căng thẳng thế này mà thốt nhiên bị đứt thì nguy hiểm chẳng khác gì vó ngựa đá lồng. Nếu tôi cố liều lĩnh cắt phăng dây neo, chắc thế nào cũng bị hất văng xuống biển. Nghĩ thế, tôi chùn tay lại. May sao trời cũng chiều người. Ngọn gió trước kia hiu hiu thổi từ phía nam và phía đông nam lại, đến đêm lại thổi về phía đông nam. Ngọn gió đổi chiều bỗng đẩy lùi con tàu vào hẳn giữa dòng. Tôi như mở cờ trong bụng khi thấy sợi dây neo trong tay tôi bỗng chùng hẳn lại, bàn tay tôi nhúng xuống nước một hồi lâu. Thế là tôi quyết định hẳn. Tôi rút dao ra, dùng răng mở dao rồi từ từ cắt hết sợi nọ đến sợi kia. Khi dây neo chỉ còn hai sợi nữa, tôi dừng lại đợi con gió khác đến sẽ làm chùng lại. Lúc ấy tôi mới tiện phăng đi. Suốt từ lúc đến gần tàu, tôi vẫn nghe tiếng quát ầm ầm trong buồng tàu. Nhưng lúc đó tôi đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không để ý mấy. Bây giờ ngồi rỗi, tôi mới bắt đầu lắng tai chăm chú nghe. Tôi nhận được tiếng lão Han, tên lính pháo thủ đại bác của Phơ-linh. Còn tên kia chắc là tên giặc mũ đỏ. Hai đứa đều có vẻ say bí tỉ. Tuy vậy chúng vẫn chén chú chén anh. Một đứa mở cửa sổ đằng sau tàu và ném vật gì xuống biển; tôi đoán là cái chai không. Nhưng không phải chúng chỉ có say mà thôi, chúng còn đang cãi vã nhau kịch liệt. Tiếng chửi rủa luôn mồm; thỉnh thoảng cơn giận dữ của chúng bốc lên làm tôi tưởng chừng đến phải đấm đá nhau. Nhưng về sau tiếng cãi cọ lắng xuống. Chỉ còn nghe thầm thì to nhỏ, rồi bỗng chốc, tiếng xô xát lại bốc cao lên và cứ thế diễn đi diễn lại mãi không thôi. Trên bờ đảo, lửa đốt sáng rực qua chòm lá cây. Văng vẳng đưa lại tiếng hát của một đứa trong bọn chúng đang hát một bài hát cổ của dân biển. Giọng hát buồn, ảo não, cứ đến cuối câu lại hạ xuống một giọng trầm não nùng, rồi kéo dài lê thê như không bao giờ dứt. Giọng hát chán nản buồn nhức xương này, tôi cho rất hợp tình hợp cảnh với bọn giặc vừa bị thất bại chua cay. Gió lại bắt đầu thổi. Chiếc tàu từ từ lùi lại. Sợi dây neo cứ chùng dần, chùng dần. Tôi cố sức giáng một nhát dao cuối cùng, tiện phăng sợi dây neo làm hai đoạn. Con tàu từ từ quay hết đầu nọ đến đầu kia trên dòng nước. Chiếc thuyền của tôi nhè nhẹ xô vào đầu mũi con tàu. Tôi cố quờ quạng chung quanh vì lúc nào chiếc thuyền độc mộc của tôi cũng như sắp chìm xuống đáy biển. Tôi không thể nào giữ cho thuyền khỏi sát vào thân tàu, nên tôi cứ đẩy nó đi lùi dần về đằng lái. Cuối cùng tôi đẩy được thuyền ra xa tàu. Khi đẩy ra, tay tôi sờ phải một cái dây lòng thòng đằng sau lái.
Tôi bám lấy sợi dây. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại vớ lấy đầu dây này. Có lẽ đó cũng là vì tình cờ mà thôi. Nhưng sau tôi thấy một đầu dây cột chặt vào tàu nên tôi nảy ra một ý khác. Tính tò mò thúc giục làm tôi muốn thử ghé mắt nhòm qua cửa sổ xem trong ấy ra sao. Tôi níu tay lần sợi dây, đưa thuyền đến sát bên tàu; tôi liền đánh đu rướn thẳng người lên; như vậy tôi có thể nhìn thấy nóc tàu và một phần gian phòng. Trong khi ấy con tàu cùng chiếc thuyền độc mộc của tôi cặp kè trôi phăng phăng theo dòng nước đến tận ngang chỗ đống lửa của bọn giặc trên bờ. Sóng vỗ vào mạn tàu dào dạt. Thế mà sao bọn canh trên tàu vẫn lặng lẽ thản nhiên. Thật là một điều lạ. Nhưng khi nhòm qua cửa sổ thì tôi đã vỡ lẽ. Tôi thấy lão Han và thằng mũ đỏ đã ôm nhau đấm đá chí tử, thằng nọ đương bóp cổ thằng kia. Nhìn xong tôi ngồi thụp xuống. Nhưng trong óc tôi vẫn ghi rõ hai bộ mặt hung ác, đỏ như gấc, lửa giận bốc phừng phừng, đương hầm hè ôm vật nhau dưới ngọn đèn dầu bốc khói. Tôi nhắm mắt lại để bớt quáng và cho quen với bóng tối. Tôi đương suy nghĩ, thốt nhiên chiếc thuyền của tôi bị chao hẳn đi. Ngay lúc ấy nó trôi hẳn về phía khác như muốn đổi hướng. Bây giờ nó trôi nhanh gấp mấy lúc trước. Tôi mở choàng mắt ra...
Chung quanh tôi biển cả ầm ĩ, trập trùng muôn ngàn lượn sóng lấp lánh lân tinh. Cách chỗ tôi vài sải, con tàu cũng đương có vẻ ngần ngừ, chao đảo. Nhìn kỹ lại, tôi thấy chiếc tàu cũng trôi về phía nam. Ngoảnh lại đằng sau, trống ngực tôi đánh thình thịch. Chính sau tôi là đống lửa của bọn giặc trên bờ. Dòng nước chảy theo hình thước thợ, kéo con tàu lẫn chiếc thuyền con của tôi lềnh bềnh ào ạt đi ra biển cả. Thốt nhiên, chiếc tàu trước mặt tôi chao nghiêng hẳn đi rồi quật sang hướng khác. Lúc ấy tôi mới nghe thấy tiếng kêu ầm ĩ trên tàu. Nghe thấy tiếng giày nện thình thịch trên chiếc thang đằng lái, tôi đoán hai thằng giặc đã thôi đánh nhau vì chúng đã nhận thấy sự nguy hiểm. Tôi nằm rạp xuống lòng thuyền, phó thác tấm thân cho sự rủi may. Tôi chắc rằng chỉ đi xa một chút nữa, những lượn sóng cả bạc đầu sẽ nuốt trửng lấy chiếc thuyền con và chôn vùi tôi xuống đáy biển. Nghĩ đến chết, tôi không sợ lắm, nhưng sao trong người tôi cứ xao xuyến. Tôi nằm như vậy lâu lắm, mặc thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Sương mù và nước biển làm áo quần tôi ướt đầm. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến chết; tôi chỉ đợi một đợt sóng sắp đến đưa tôi về gặp cha tôi. Dần dần tôi mệt lả người. Sự lo sợ làm tâm hồn tôi mê mẩn. Về sau tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tôi mơ tưởng đến quê nhà, đến những người thân, đến cái quán cơm hẻo lánh trên cửa biển. Tôi thấy bác sĩ Ly, ông Chi đương nhìn tôi vui vẻ. Tôi thấy tiền bạc để đầy nhà và từng đoàn người nghèo khổ đang kéo đến. Họ đông, đông vô kể. Đầu họ nhấp nhô, trập trùng, cuồn cuộn như sóng.