Chương 14
Tác giả: Diana Wynne Jones
Cat thét lên. Ngọn lửa bùng lên khắp người nó. Nó lại càng thét lớn, dùng hai cánh tay đang bốc lửa tự dập vào người, rồi tiếp tục la hét. Đó là những ngọn lửa nhạt màu, lung linh, trong suốt. Chúng bốc lên qua lớp y phục, lớp giày, qua tóc, qua mặt. Chỉ trong vài giây, ngọn lửa nhợt nhạt đã phủ kín Cat từ đầu đến chân. Cat lăn ra sàn, tiếp tục la hét. Nó lăn lộn ở đó, người ngùn ngụt lửa.
Janet vẫn giữ được sự tỉnh táo. Nó túm lấy góc gần nhất của tấm thảm, giật mạnh lên rồi chùm cả tấm thảm lên người Cat. Nó nghe nói làm như vậy sẽ dập được tắt lửa. Nhưng ngọn lửa này thì không. Trước sự kinh hoàng của Janet, những ngọn lửa tái nhợt ma quái vẫn xuyên thẳng qua tấm thảm như thể không hề có tấm thảm vây. Thậm chí những ngọn lửa nhảy múa trên mặt sau tấm thảm đen hù trông còn hung tợn hơn trước. Nhưng chúng không đốt cháy tấm thảm, cũng như không đốt cháy cánh tay Janet khi nó cuống cuồng quấn Cat trong tấm thảm, rồi lại quấn thêm một lớp nữa. Nhưng bất kể Janet đã quấn bao nhiêu lớp thảm quanh Cat, ngọn lửa vẫn xuyên qua như thường, còn Cat thì tiếp tục cháy và la hét. Đầu của nó thòi một nửa ra ngoài cái bó đỏ rực mà Janet đã tạo ra bằng nó và tấm thảm, và nửa phần đầu ấy cũng là một bó lửa. Khuôn mặt la hét của Cat nằm gọn bên trong ngọn lửa.
Janet bèn làm việc duy nhất nó có thể nghĩ ra. Nó bật dậy và bản thân cũng hét thật lớn.
“Chrestomanci! Chrestomanci! Đến đây nhanh lên!”
Cánh cửa liền bật mở ngay trong lúc nó còn la hét. Janet quên khuấy là cánh cửa đã bị chốt. Nhưng chốt cửa không hề ngăn trở được Chrestomanci. Janet thấy chốt cửa bật ra khỏi mép khi ông xô cửa mở ra. Nó quên khuấy cả việc có khách khứa đang dùng bữa. Nó chỉ còn nhớ nó thấy cổ tay áo viền ren của Chrestomanci, và bộ com lê nhung đen của ông lấp loáng như một vầng hào quang với màu đá trắng, xanh dương, đỏ sẫm, vàng và xanh lam. Nhưng bộ quần áo đẹp đó cũng chẳng ngăn được Chrestomanci. Ông liếc nhanh bó lửa sáng rực đang lăn lộn trên sàn và thốt lên:
”Lạy Chúa!”
Rồi ông cúi xuống, quỳ trên hai đầu gối lịch lãm, gỡ tấm thảm ra một cách cuống quít hệt như khi Janet cuốn nó lại.
“Con ân hận quá đi. Con cứ tưởng làm như vậy là tốt,” Janet lúng búng nói.
“Phải làm như vậy thôi.”
Chrestomanci nói, tiếp tục vần Cat ra, mặc cho những ngọn lửa cuốn theo, bám dọc theo đôi tay áo bằng nhung của ông.
“Làm sao nó lại bị như vầy?”
“Nó quẹt một que diêm. Con đã bảo nó…”
“Đồ trẻ con ngu ngốc.”
Chrestomanci giận dữ đến mức Janet bật khóc sướt mướt. Ông giật nốt rìa tấm thảm và Cat lăn lông lốc ra ngoài, bốc lửa như một cành con. Nó không còn la hét nữa mà thay vào đó là phát ra những tiếng rên ư ử kéo dài khiến Janet phải bịt tai lại. Chrestomanci dấn vào giữa ngọn lửa và mò ra được tập diêm. Nó nằm ép chặt trong lòng bàn tay phải của Cat.
“Tạ ơn chúa, may mà nó không cầm bằng tay trái,” ông nói. “Vặn nước ra. Nhanh lên.”
“Con làm ngay ạ. Con làm ngay,” Janet nấc lên, lao đi.
Nó lóng ngóng một hồi với mấy cái vòi nước. Vừa khi một luồng nước lạnh rót mạnh vào cái bể tắm chìm màu xanh thì Chrestomanci cũng lao vào, mang theo Cat, mà toàn thân là một quả cầu lửa rừng rực. Ông đặt Cat xuống bể tắm và giữ nó ở đó, vần nó hết bên này sang bên kia để tẩm ướt khắp người nó.
Cat bốc hơi, kêu xèo xèo. Nước từ đầu vòi sáng rực lên. Có vẻ như vòi nước đang trống trả lại mặt trời, và bản thân nó cũng ánh vàng lên như chính mặt trời, rớt xuống như một tia sáng. Và khi bể tắm bắt đầu đầy lên, Cat như bị xoay đập trong một cái bể đầy nắng. Nó làm cho chiếc bể sôi lên, nhả ra những cụm bong bóng màu vàng. Căn phòng tràn ngập hơi nước. Từng cuộn khói bốc lên từ bể tắm, toả lên một mùi nồng nặc và ngòn ngọt. Đó chính là mùi mà Janet còn nhớ vào buổi sáng hôm đó, khi nó lần đầu tiên thấy mình ở nơi đây. Cố nhìn qua làn khói, nó nhìn thấy thân mình Cat như chuyển sang màu đen trong chiếc bể vàng. Nhưng nước vẫn thấm ướt thân. Còn Chrestomanci cũng đã ướt sũng.
“Con không hiểu gì hết sao?”
Ông nói với Janet, không quay đầu lại, trong khi đỡ Cat lên để giữ cho đầu nó dưới tia nước.
“Con không nên nói với nó những chuyện như thế cho đến khi nào Lâu đài có đủ thời gian để làm việc với nó. Nó chưa sẵn sàng để hiểu. Con đã gây cho nó một cú sốc kinh khủng nhất.”
“Con thực sự hối hận khủng khiếp,” Janet nức nở nói.
“Chúng ta phải tính sao với tình trạng này thôi,” Chrestomanci nói. “Ta sẽ có gắng giải thích cho nó. Con hãy chạy ra chỗ ống nói ở cuối hành lang, gọi người mang lên đây cho ta ít rượu brandy và một ấm trà đặc.”
Khi Janet chạy đi, Cat thấy người ướt sũng, và nước thì đang chảy òng ọc xuống người. Nó tìm cách lăn ra để tránh. Có ai đó giữ nó lại. Một giọng sang sảng vang lên bên tai nó.
“Cat. Cat, con nghe ta nói không. Con có hiểu không? Cat, giờ đây con chỉ còn có ba mạng nữa thôi.”
Cat nhận ra giọng này.
“Ông bảo con có năm mạng sống khi ông nói chuyện với con qua cô Larpins mà.”
“Phải, nhưng giờ đây con chỉ còn có ba mạng mà thôi. Con phải cẩn thận hơn mới được.” Chrestomanci nói.
Cat mở mắt ra, ngước nhìn lên. Chrestomanci bị ướt thê thảm. Mái tóc đen bóng mượt thường lệ đang xoã xuống vầng trán thành từng lọn, với những giọt nước đọng ở đầu sợi tóc.
“Phải, con đã mất một thời gian quá lâu để nhận ra được ta, đúng không?” Chrestomanci nói. “Nhưng ta cũng đâu nhận thấy con ngay khi ta nhìn thấy con lần đầu. Ta nghĩ con có thể ra khỏi bồn nước này được rồi đấy.”
Cat quá yếu để ngồi dậy được khỏi bồn nước. Nhưng Chrestomanci đã đỡ nó ra, lột bỏ bộ đồ ướt, lau khô nó rồi quấn nó trong một chiếc khăn tắm khác; tất cả diễn ra nhanh như chớp. Đôi chân Cat vẫn co quắp lại.
“Nào, ta đi lên thôi,”
Chrestomanci nói, tiếp tục ẵm nó đến chiếc giường trải nhung xanh, nhét nó vào trong chăn.
“Đã khá hơn chưa, Cat?”
Mất hết sinh lực nhưng thoải mái dễ chịu, Cat nằm duỗi ra, gật đầu.
“Cám ơn ông. Trước nay ông chưa từng gọi con là Cat.”
“Lẽ ra ta phải gọi vậy. Như thế có khi con đã hiểu,” Chrestomanci ngồi cạnh giường, trông rất nghiêm trọng.
“Giờ thì con đã hiểu chưa?”
“Tập diêm là chín mạng sống của con,” Cat nói. “Và con vừa đốt đi một mạng. Con biết việc đó là ngu xuẩn, nhưng tại lúc đó con không tin. Làm sao con có thể có đến chín mạng sống lận hả ông?”
“Con chỉ có ba thôi,” Chrestomanci nói. “Con đã từng có chín mạng. Bằng cách chi đó và bởi ai đó, chúng đã được đặt cả vào tập diêm này, và giờ đây ta sẽ cất nó vào một nơi bí mật, an toàn, niêm phong lại bằng một đạo bùa mạnh nhất ta từng biết. Nhưng việc này cũng chỉ ngăn người ta sử dụng nó thôi, chứ không thể ngăn con tự đánh mất mạng sống của chính mình.”
Janet hấp tấp bước vào. Nó vẫn khóc ròng, nhưng vẻ rất biết ơn vì được nhờ cậy.”
“Sắp có các thứ rồi ạ,” nó nói.
“Cám ơn con.”
Chrestomanci nói, rồi ông nhìn nó rất lâu bằng ánh mắt đăm chiêu. Janet tin chắc ông sắp tố giác nó không phải Gwendolen, nhưng điều ông nói lại là:
“Con cũng nên nghe điều này để đề phòng những tai nạn khác nữa,”
“Để con lấy khăn lau cho ông trước đã nhé?” Janet nhỏ nhẹ nói. “Ông bị ướt quá đi mất.”
“Ta sẽ chóng khô thôi, cảm ơn con,” ông nói rồi nhoẻn cười với nó.
“Bây giờ, con nghe đây, những kẻ có chín mạng sống là những nhân vật rất quan trọng và rất hiếm. Trường hợp này chỉ xảy ra khi, vì lý do này hay lý do khác, họ không có những bản sao sống ở bất kỳ thế giới nào khác. Cho nên, những mạng sống ấy, thay vì trải đều ra toàn thể một bộ các thế giới khác nhau, sẽ tập trung vào một người duy nhất. Và họ sẽ tập trung toàn bộ những tài năng có thể có của tám người kia.”
“Nhưng con có tài năng gì đâu ạ.”
Cat nói, Janet cũng đồng thời hỏi:
“Những người như vậy hiếm cỡ nào ạ?”
“Cực kỳ hiếm,” Chrestomanci nói. “Ngoài Cat ra, người duy nhất ta biết có chín mạng sống trong thế giới này chính là ta.”
“Thật sao?” Cat thấy hài lòng và thích thú. “Chín lận ạ?”
“Ta từng có chín mạng sống, nhưng giờ chỉ còn hai thôi. Ta đã từng bất cẩn thậm chí còn hơn Cat nữa.”
Chrestomanci nói. Giọng ông có vẻ nghe hơi xấu hổ.
“Giờ đây ta phải giữ một mạng nằm riêng rẽ ở một nơi an toàn nhất mà ta có thể nghĩ ra. Ta khuyên Cat cũng nên làm như thế.”
Bộ não nhanh nhậy của Janet lập tức làm việc.
“Có phải một mạng của ông đang ở đây, và mạng kia hiện đang dùng bữa tối ở dưới nhà?”
Chrestomanci phì cười.
“Nó không hoạt động theo kiểu đó đâu. Ta sẽ…”
Vừa lúc đó, Euphemia bưng khay xăng xái bước vào, ngăn Chrestomanci giải thích cách hoạt động của cái mạng trước sự thất vọng của Janet. Thầy Saunders nối gót theo Euphemia. Thầy vẫn chưa thể tìm ra nổi một bộ đồ dạ tiệc che khuất những cổ tay với cổ chân.
“Cậu ấy có sao không ạ?” Euphemia lo lắng hỏi. “Anh Will cháu đã hù cậu ấy ghê gớm, nhưng nếu đó là do anh ấy làm thì cháu sẽ không bao giờ nói chuyện với anh ấy nữa đâu. Mà tấm thảm bị sao vậy?”
Cả thầy Saunders cũng đang nhìn tấm thảm nhăn nheo, nằm một đống.
“Nó bị làm sao vậy?” thầy hỏi. “Chắc chắn tấm thảm này đã được yểm bùa để ngăn chặn mọi loại tai nạn cơ mà!”
“Ta biết,” Chrestomanci nói. “Nhưng đạo bùa này mạnh kinh hồn.”
Rồi hai người họ nhìn nhau đầy ngụ ý.
Tất cả mọi người xúm xít quanh Cat. Nó quả thực đã có những khoảnh khắc thú vị nhất. Thầy Saunders dựng nó lên, cho dựa vô gối, còn Euphemia mặc áo ngủ cho nó rồi xoa đầu nó, cứ như thể nó chưa bao giờ thú nhận đã biến chị ấy thành ếch.
“Không phải lỗi của anh Will đâu,” Cat nói. “Lỗi tại em đấy.”
Chrestomanci cho nó nhấp một ngụm brandy nóng ran rồi cho nó uống một tách trà ngọt. Janet cũng được một tách trà và nhờ thế con bé thấy khá lên nhiều. Thầy Saunders giúp Euphemia trải lại tấm thảm,rồi thầy đặt vấn đề có nên gia cố đạo bùa trên đó hay không.
“Máu rồng có thể làm chuyện ý,” thầy gợi ý.
“Nói thẳng ra nhé, tôi không nghĩ có thứ gì có thể làm được,” Chrestomanci nói. “Hãy cứ để nó vậy đi.”
Ông đứng dậy và quay tấm gương thẳng lại.
“Đêm nay con ngủ trong phòng Cat được không?” ông hỏi Janet. “Ta muốn canh chừng Cat.”
Janet hết nhìn tấm gương lại nhìn sang Chrestomanci, và khuôn mặt nó chuyển sang màu đỏ bừng.
“Ơ…” nó nói. “Con đã làm méo mặt…”
Chrestomanci bật cười. Thầy Saunders cũng buồn cười đến mức phải ngồi xuống chiếc ghế bọc nhung xanh.
“Mặt méo trông cũng độc đáo lắm đấy,” Chrestomanci nói.
Janet cũng phì cười, trông có phần hơi ngốc nghếch.
Cat nằm đó, cảm thấy thoải mái và khá phấn khích. Một hồi sau, mọi người đều đã có mặt ở đó, cố làm cho nó hoàn hồn. Và rồi có vẻ như chỉ còn lại mỗi Janet, huyên thuyên như thường lệ.
“Thấy em không sao chị mừng quá,” Janet nói. “Tại sao chị lại mở cái mồm lắm chuyện của chị ra để nói về mấy que diêm ấy không biết? Lúc em tự nhiên bốc cháy, chị bị choáng khủng khiếp, rồi khi tấm thảm không công hiệu, chị chỉ biết làm mỗi một việc duy nhất là hét gọi Chrestomanci. Mà chị đã nghĩ đúng. Ông ấy có mặt ngay trước khi tiếng gọi lọt hết khỏi miệng chị, mà lúc ấy cửa vẫn còn đang chốt nữa nhé. Lúc ông ấy mở nó vẫn còn bị chốt, thế mà ổ chốt không hề bị gẫy, chị kiểm tra thử rồi. Cho nên ông ấy nhất định phải là một thầy bùa. Rồi khi ông ấy huỷ bộ quần áo trên người em, Cat ạ, ông ấy có vẻ không nề hà gì, cho nên chị nghĩ ông ấy không giống màn sương đông giá lạnh trên đỉnh Grampians thì ông ấy thực sự rất dễ thương. Đó không phải do vụ tấm gương đâu nhé. Chị muốn nhấn mạnh điều đó. Chị cho rằng tấm gương là một phép thuật tương đương với…”
Cat dự định nói gì về màn sương giăng trên đỉnh Grampians, nhưng nó đã thiếp đi, cảm thấy ấm cúng và được chăm sóc, trong khi Janet vẫn không ngừng huyên thuyên.
Cat tỉnh dậy vào sáng Chủ nhật, hoàn toàn ngược lại: lạnh lẽo và run rẩy. Chiều hôm đó, nó biết mình sẽ bị biến thành ếch hoặc phải đối mặt với con cọp – và con cọp Will Suggins khá nặng nề và khoẻ sẽ không tha cho nó… nó nghĩ thế. Ngoài con cọp ra - nếu như còn có chữ “ngoài ra” - lại còn nỗi kinh hoàng của ngày thứ Hai học lớp Phép thuật mà nó lại không có phép thuật. Khi đó Julia và Roger có thể giúp, có điều sự giúp đỡ đó cũng chả làm được gì một khi lão Baslam đến để đòi hai mươi bảng mà Cat biết là nó không thể lấy đâu ra để trả. Có lẽ hy vọng duy nhất là đưa Janet cùng ít máu rồng đến khu rừng Cấm và tìm cách trốn thoát.
Cat leo ra khỏi giường, định đi lấy trộm ít máu rồng trong gian làm việc của thầy Saunders. Nhưng Euphemia đã bước vào cùng bữa điểm tâm đựng trên khay, nên nó buộc phải leo lại lên giường. Euphemia vẫn tốt với nó, giống như đêm hôm trước. Cat cảm thấy khó xử. Và khi nó ăn xong bữa sáng thì bà Millie tới. Bà nâng Cat lên khỏi mấy chiếc gối rồi ôm chầm lấy nó.
“Cưng của ta quả là ngốc nghếch, đáng thương! Đội ơn chúa, con vẫn không việc gì cả. Ta nóng lòng muốn đến thăm con đêm qua quá chừng, nhưng phải có ai ở đó với các vị khách tội nghiệp của chúng ta chứ. Giờ thì con phải ở yên trên giường suốt hôm nay, và con có thể yêu cầu tất cả những gì con muốn. Thế con thích gì nào?”
“Con có thể xin ít máu rồng được không ạ?” Cat khấp khởi nói.
Bà Millie bật cười. “Chúa ơi, Eric! Con vừa bị xong tai nạn khủng khiếp đó, thế mà con lại xin ngay thứ nguy hiểm nhất trần đời. Không, con không được lấy máu rồng. Đó là một trong những thứ ít ỏi trong Lâu đài thực sự bị cấm.”
“Giống như khu vườn của Chrestomanci phải không ạ?” Cat hỏi.
“Không hẳn như thế,” bà Millie đáp. “Khu vườn cũng lâu đời như những ngọn đồi và nó chứa đầy ắp các loại phép thuật đủ loại. Nó nguy hiểm theo cách khác. Ở đó mọi thứ đều mạnh mẽ hơn ở đây. Con sẽ được đưa vào vườn khi con biết được khá nhiều phép thuật để hiểu nổi nó. Nhưng máu rồng thì lại rất có hại, đến ngay cả thầy Micheal sử dụng nó ta cũng không hài lòng. Con không thể nào rớ vào nó được đâu.”
Sau đó Julia và Roger bước vào, y phục chỉnh tề để đi lễ, khệ nệ ôm tới hàng đống sách và đồ chơi cùng rất nhiều câu hỏi ân cần. Chúng tỏ ra tốt với Cat đến mức Cat rất không vui khi Janet đến để chuẩn bị cuộc chạy trốn. Nó không muốn rời Lâu đài. Nó cảm thấy nó đã thực sư hội nhập với nơi này.
“Cục bột nhão ấy vẫn dính chặt vào tấm thảm phòng em,”
Janet rầu rĩ nói, và điều này lại làm cho Cat cảm thấy muốn chạy trốn.
“Chị vừa gặp Chrestomanci, và thật là oan cho chị khi bị trừng phạt bởi tội lỗi của kẻ khác,” Janet nói tiếp. “dù vậy chị cũng đã được thấy chiếc áo choàng màu xanh da trời có hình những con sư tử vàng.”
“Em chưa thấy chiếc áo đó,” Cat nói.
“Chị nghĩ mỗi ngày trong tuần ông ấy đều có một chiếc áo khác nhau,” Janet nói. “Ông ấy chỉ thiếu có một thanh kiếm lửa nữa thôi. Ông ấy cấm chị đi lễ. Ông cha xứ không cho chị đến vì những gì Gwendolen đã làm hôm Chủ nhật trước. Và chị rất bực bội vì bị trách cứ chuyện đó đến mức chị đã há mồm suýt nói chị không phải là Gwendolen, may sao chị nhớ ra rằng nếu chị đi lễ thì chị phải đội cái nón trắng ngu ngốc có những lỗ thủng nho nhỏ…Ông ấy có thể nghe qua tấm gương không nhỉ? Em nghĩ sao?”
“Không,” Cat đáp. “Cứ để xem. Hoặc là ông ấy đã biết tất cả về chị. Chị không phải đi lễ thế này em mừng lắm. Tụi mình có thể đi lấy máu rồng khi họ đi lễ.”
Janet canh trong gương khi nào Gia đình đi lễ. Sau khoảng nửa giờ nó nói:
“Rồi, họ đang kéo nhau cả đám xuống dưới đường rồi kìa. Tất cả cánh nam giới đều đội nón chóp cao, nhưng Chrestomanci thì cứ như vừa bước ra từ cửa hiệu thời trang vậy. Tất cả những người này là ai vậy, Cat? Mấy bà mệnh phụ già đeo găng hở màu tía, mấy tay trẻ tuổi mặc đồ xanh, cả cái ông nhỏ thó lúc nào cũng luôn miệng nói ấy?”
“Em có biết gì đâu,” Cat nói. Nó bò ra khỏi giường rồi chạy gấp về phòng mình lấy quần áo. Nó cảm thấy hoàn toàn khỏe khoắn – nói đúng ra là khoẻ một cách lạ thường. Nó nhảy múa loanh quanh phòng trong khi xỏ chiếc áo. Nó ca hát trong khi xỏ chiếc quần.
Ngay cả cục bột nhão trên thảm cũng không làm nó mất vui. Nó huýt sáo trong khi cột dây giày.
Janet bước vào phòng Cat trong khi nó đang vung chân đá, khoác vào chiếc áo véc, trông rạng rỡ và tràn đầy sinh lực.
“Thế mà chị không biết đấy,” Janet nói khi Cat vọt ngang qua nó để xông ra cầu thang. “Bộ em thích chết lắm sao vậy?”
“Nhanh lên!” Cat gọi dưới cầu thang. “Phòng làm việc bên kia Lâu đài lận đó. Bà Millie nói máu rồng là thứ nguy hiểm, cho nên chị đừng chạm đến nó. Em có thể phí một mạng sống vì nó, chứ chị thì không nên.”
Janet muốn nhắc nhở Cat không nên phí một mạng sống nào một cách quá dễ dàng nhưng nó không sao bắt kịp Cat. Cat chạy lòng vòng qua những hành lang màu xanh rồi xông lên chiếc cầu thang xoắn dẫn đến phòng làm việc của thầy Saunders. Janet chỉ có thể bắt kịp Cat khi nó đã lọt vào đó. Và rồi, có quá nhiều thứ ly kì khác đã thu hút mất sự chú ý của con bé.
Căn phòng nồng nặc mùi phép thuật đã hết công hiệu. Mặc dù trông nó chẳng khác mấy so với lần trước Cat ghé qua, song thầy Saunders đã dọn dẹp chút đỉnh để đón sáng Chủ nhật. Ngọn đèn dầu không còn đấy nữa. Mấy ống nghiệm cổ dài, cổ cong và chai lọ khác đều sạch sẽ. Những cuốn sách và cuộn giấy đều chất lên thành đống trên chiếc ghế băng thứ hai. Ngôi sao năm cánh vẫn còn đó, khắc sâu trên nền nhà, nhưng lại có một bộ ký hiệu mới viết bằng phấn trên chiếc ghế băng thứ ba, và xác ướp một con vật đang nằm ngay ngắn ở một bên đầu ghế.
Janet bị căn phòng cuốn hút.
“Trông cứ như một phòng thí nghiệm vậy,” nó nói, “có điều đây không phải phòng thí nghiệm. Những vật này trông quái lạ thật đấy. Ồ, chị thấy món máu rồng rồi. Thầy ấy liệu có cần đến cả một vại lớn như thế này không? Nhiều như thế này lấy bớt đi một ít chắc thầy không biết đâu!”
Có tiếng rì rào ở cuối ghế băng thứ ba. Janet quay ngoắt đầu về phía đó. Cái con vật ướp xác đang vặn vẹo và sải rộng những chiếc cánh có màng.
“Hồi trước nó cũng làm vậy,” Cat nói. “Em nghĩ chả sao đâu.”
Tuy vậy, nó không dám chắc lắm khi con vật vươn mình, đứng dậy trên những chiếc cẳng như cẳng chó và ngáp dài. Cú ngáp giúp cho hai đứa thấy hàng chục chiếc răng nhọn bé tí, từ đó tuôn ra một đám mây khói màu xanh xanh. Con vật chạy thoăn thoắt trên ghế băng, hướng về phía hai đứa nhỏ. Cặp cánh nhỏ trên lưng con vật phát ra tiếng lào xào khi nó chạy tới, và cụm khói tuôn ngược ra phía sau từ lỗ mũi. Nó dừng lại ở mép ghế băng, tò mò nhìn lên hai đứa bằng những tia mắt vàng lóng lánh như tan chảy. Cat và Janet lo lắng lùi ra xa.
“Nó còn sống!” Janet thốt lên. “Chị nghĩ đó là một con rồng con”
“Dĩ nhiên rồi,” Con rồng lên tiếng, khiến hai đứa giật bắn người. Đáng sợ hơn nữa, những ngọn lửa nhỏ cứ thụt thoát ra khỏi miệng nó khi nó nói, và từ nơi đang đứng, hai đứa có thể cảm nhận hơi nóng của ngọn lửa.
“Tôi không ngờ bạn lại biết nói,” Cat sửng sốt.
“Tôi nói tiếng Anh rất giỏi,” con rồng vừa nói vừa nhả ra một cụm lửa. “Tại sao các bạn muốn lấy máu của tôi?”
Cat và Janet bẽn lẽn nhìn chiếc vại lớn chứa bột máu rồng ở trên kệ.
“Toàn bộ chỗ máu này là của bạn sao?” Cat hỏi.
“Nếu thầy Saunder bắt nó cho máu liên tục thì chị nghĩ quả là độc ác,” Janet nói.
“Ồ!” con rồng thốt lên. “Đó là bột máu của các con rồng lớn hơn tôi. Người ta lấy rồi đem bán. Các bạn không thể lấy được chút nào đâu.”
“Tại sao không?” Cat hỏi.
“Bởi vì tôi không muốn các bạn lấy.”
Con rồng đáp và cứ mỗi câu lại một cụm lửa đều đặn phả ra từ miệng nó, khiến hai đứa cứ một câu lại lùi thêm một chút.
“Nếu tôi lấy máu người và dùng nó để chơi đùa thì các bạn có thích không?”
Cat thì cảm thấy con rồng nói có lý, nhưng Janet lại không thấy thế.
Tôi không sợ chuyện đó,” nó nói. “Ở chỗ tôi, người ta vẫn thường truyền máu và có cả ngân hàng máu. Ba tôi đã có lần cho tôi xem máu của tôi dưới kính hiển vi.”
“Tôi thì lại sợ,” con rồng nói, phả ra 1 cụm lửa nữa. “Mẹ tôi bị giết bởi một tay trộm máu bất hợp pháp.”
Nó bò tới tận cuối mép chiếc ghế băng rồi ngước nhìn Janet. Những tia lấp lánh trong cặp mắt vàng tan ra rồi biến đổi, rồi lại tan ra lần nữa. Cứ như thể hai chiếc kính vạn hoa nhỏ bằng vàng đang nhìn thẳng vào Cat và Janet.
“Tôi còn quá bé để cho được nhiều máu,” cặp mắt nó lóng lánh nhìn Janet. “Vì vậy họ tha cho tôi. Lẽ ra tôi đã chết nếu như Chrestomanci không tìm thấy tôi. Cho nên , các bạn hiểu tại sao điều đó làm tôi sợ rồi chứ?”
“Chúng tôi hiểu,” Janet nói. “Rồng con thì nuôi bằng gì nhỉ? Sữa à?”
“Ông Michael đã thử cho tôi dùng sữa, nhưng tôi không thích món đó,” con rồng nói. “Giờ thì tôi dùng thịt băm, và tôi đang lớn lên ngon lành. Khi nào tôi đủ lớn, ông ấy sẽ đưa tôi trở về, nhưng trong khi chờ đợi, tôi đang giúp ông ấy làm phép thuật. Tôi rất đắc lực cho ông ấy.”
“Thật sao?” Janet hỏi. “Thế bạn làm gì vậy?”
“Tôi tìm những đồ vật cũ mà ông ấy không thể tự tìm thấy.” Con rồng rơi vào một trạng thái ngâm nga ư ử. “Tôi tìm cho ông ấy những con vật từ vực thẳm: những sinh vật bằng vàng, những vật có cánh, những quái vật mắt ngọc trai từ biển sâu, và những thực vật thì thầm từ xa xưa.
Nó ngừng lại, nhìn Janet với cái đầu ngoẹo sang bên.
“Những việc này cũng dễ thôi,” nó nhận xét với Cat. “Tôi vẫn thích làm chuyện đó, nhưng trước đây chẳng ai cho tôi làm.”
Nó thở dài, tuôn ra một cụm khói xanh dài ngoằng.
“Tôi mong được chóng lớn. Tôi có thể ăn thịt chị ấy ngay bây giờ.”
Cat hoảng hốt nhìn Janet và nhận thấy con bé đang trân mắt nhìn như một kẻ mộng du, với một nụ cười ngốc nghếch trên khuôn mặt.
“Làm vậy thì ác quá!” Cat nói.
“Tôi nghĩ đó chỉ mới là nhấm nháp thôi đấy,” con rồng nói.
Cat chợt hiểu ra con rồng đang nói đùa.
“Tôi sẽ vặn cổ bạn nếu bạn làm vậy,” Cat nói. “Bộ bạn hết chuyện để giỡn rồi sao?”
“Bạn nói y hệt ông Michael,” con rồng hờn dỗi nói, lại nhả thêm một cụm khói. “Tôi chán giỡn với chuột lắm rồi.”
“Thì nói thầy đưa bạn đi dạo!”
Cat nắm tay Janet và lay con bé. Janet khẽ giật mình, hoàn hồn lại, ngơ ngác không biết chuyện gì mới xảy ra.
“Mà tôi không thể chiều theo cảm xúc của bạn được đâu.” Cat nói với con rồng. “Tôi cần một ít máu rồng.”
Cat đẩy Janet sang một bên cho an toàn, rồi nhặt chiếc hũ nhỏ bằng sứ ở băng ghế kế bên.
Con rồng khum xuống vẻ kích động. Nó gãi gãi dưới cằm như một con chó, khiến cho mấy cái cánh của nó kêu soạt soạt.
Ông Michael nói máu rồng luôn luôn gây hại ở đâu đó,” nó nói. “Cho dù là người lớn sử dụng. Nếu bạn không cẩn thận thì bạn sẽ bị mất mạng đấy.”
Cat và Janet nhìn nhau qua làn khói phun ra từ câu nói của con rồng.
“Được thôi, tôi có thể bỏ một mạng,” Cat nói.
Nó nhấc chiếc nắp thuỷ tinh của chiếc vại lớn rồi dùng chiếc hũ xúc lên một ít bột màu nâu. Thứ bột này có mùi hôi kỳ lạ.
Tôi nghĩ còn hai mạng sống Chrestomanci vẫn xoay sở tốt,” Janet căng thẳng nói.
“Nhưng ông ấy là người đặc biệt,” con rồng nói.
Nó đang đứng ở ngay sát mép chiếc băng ghế, sột soạt đôi cánh với vẻ lo lắng. Cặp mắt vàng của nó dõi theo đôi bàn tay của Cat khi Cat gói chiếc hũ vào khăn tay rồi nhét cẩn thận vào túi. Con rồng có vẻ bồn chồn đến mức Cat quyết định tiến lại gần nó, rồi, hơi lo lo, Cat gãi gãi con rồng, vào phía dưới cằm nơi mà lúc nãy con rồng vừa gãi. Con rồng vươn cổ ra, nép vào những ngón tay của Cat. Khói phả ra từ lỗ mũi con rồng theo tiếng rên ư ử.
“Đừng lo,” Cat nói. “Tôi có đến ba mạng sống lận, bạn biết đấy.”
“Thế nên tôi khoái bạn,” con rồng nói, suýt nữa rơi khỏi băng ghế do cố ngả theo mấy ngón tay của Cat. “Đừng đi vội.”
“Chúng tôi phải đi.” Cat đẩy con rồng trở lại băng ghế rồi vỗ vỗ lên đầu nó. Khi đã quen, Cat cảm thấy không hề sợ sệt chút nào khi chạm vào làn da ấm thô ráp của con rồng.
“Tạm biệt.”
“Tạm biệt,” con rồng đáp lại.
Cat và Janet bỏ lại con rồng đang dõi mắt nhìn theo chúng như con chó mà người chủ bỏ lại khi ra ngoài đi dạo.
“Em nghĩ chuyện đó gớm quá,” Cat nói sau khi khép cửa lại.
“Thật xấu hổ! Nó chỉ là một con rồng con,” Janet nói.
Rồi nó dừng lại ở vòng xoắn đầu tiên của cầu thang.
“Mình trở lại đưa nó đi dạo đi. Nó cũng dễ thương đấy chứ!”
Cat tin chắc nếu Janet mà làm việc đó thì thể nào cũng đưa đẩy tới việc chị ấy bị con rồng gặm chân.
“Nó không dễ thương đến thế đâu,” Cat nói. Với lại tụi mình phải ra thẳng khu vườn ngay bây giờ. Con rồng mà gặp thầy Saunders là nó méc ngay với thầy ấy tụi mình mới lấy đi ít máu.”
“Ừ há, chị nghĩ nó biết nói thì cũng phải coi chừng. Vậy thì tụi mình đi lẹ đi.”
Cat bước rất thận trọng qua Lâu đài, xuống nhà rồi ra khỏi cửa. Tay nó giữ nguyên trong túi để phòng trường hợp rắc rối. Nó sợ rằng nó chỉ ra được tới khu vườn cấm với một mạng duy nhất còn lại. Có vẻ như hồi trước nó đã đánh mất ba mạng sống một cách quá dễ dàng.
Điều này tiếp tục làm cho nó bối rối. Cứ nhìn theo cách cháy của các que diêm đó, thì việc mất mạng sống thứ năm lẽ ra phải gay go chẳng kém gì lúc nó mất mạng thứ sáu vào tối hôm qua. Vậy mà nó hoàn toàn chẳng hay biết gì việc mất mạng thứ năm này. Nó không thể nào hiểu nổi. Mấy mạng sống của nó có vẻ không gắn chặt với nó như mạng sống của người bình thường. Nhưng chí ít nó cũng biết rằng, một khi nó đã rời khỏi thế giới này thì cũng không có một Cat Chant nào khác bị lôi vào những vụ rắc rối.