Chương 2
Tác giả: Harald Kidde
- Cụ Bek ạ, cụ bảo rằng đó là Noel đầu tiên cho cụ và mamzelle Camrath? – Erik Lange chìa ra cho người ốm một ly rượu đầy – Cụ có biết rằng đó cũng là Noel đầu tiên giữa Ellen và tôi không? Cụ đã cho chúng tôi hiểu được Tin tốt lành.
- Đó, cũng như thế đối với tôi là mục sư – Honorius cười với ông già – Tôi đã thuộc tất cả Kinh thánh nhưng không biết đến Tin tốt lành.
Ellen kéo mamzelle Camrath vào giữa họ. Ba người trẻ tuổi mặc lễ phục quỳ xuống quanh hai cụ già bên cạnh chiếc bàn đã bày cỗ và tháp cây tùng thắp sáng phản chiếu lại từ những cửa kính đã đen sẫm vì đêm tối ở bên ngoài. Mọi người nghĩ rằng nếu đấy là Noel đầu tiên của Clemens Bek thì đấy cũng là Noel cuối cùng của cụ. Noel có bao giờ toả sáng như hôm nay?
Hôm 25 tháng Chạp, cụ già Bek ngồi trước ánh nắng với các giấy tờ trên giường của cụ.
Màu trắng của áo sơ mi, của khăn trải giường của tuyết, của tóc bạc, bao quanh cụ bằng hào quang của họ, trong đó trộn lẫn ngọn lửa đỏ của ly rượu vang, của ánh lửa than trong lò sưởi.
Ba người khách nhìn vào cụ, vào vòng sáng của cụ. Người ta đã nghe chuông điểm chấm dứt buổi lễ. Mục sư đã đi thẳng đến đây sau khi cởi áo lễ ra. Cuộc sống và cái chết hình như là những cái rất gần gũi với trái tim run rẩy của những người thừa kế nhà mồ.
Khuôn mặt sáng sủa của ông già mỉm cười với họ như thể cụ đã đoán được ý nghĩ của họ.
- Lần trước tôi đã hứa sẽ nói với các bạn, với những người của thế hệ trẻ trên đảo, về vô vàn những ngày, những đồng nghĩa với vĩnh hằng. phải chăng tôi không đến từ hôm qua, tuổi trẻ của tôi không bắt đầu trong lúc này?
Tôi sẽ nói về ai, nếu không phải là về thời gian dùng cho Rachel, cuối cùng tôi cũng đi đến chỗ yêu Léa?
Khi nghĩ đến những người đã sống trên đảo hồi ấy, nghĩ đến những thói quen của họ, số phận của họ thì không phải như các bạn có thể tin rằng tôi bịxâm chiếm bởi nỗi đau, mà bởi sự tin chắc là tôi sẽ gặp lại tất cả họ. không có cái gì như đã sống sẽ chết đi.
Tôi nhìn thấy lại họ thật rõ ràng. Như thể là họ sắp sửa gặp gỡ tôi nay mai, khi tôi sẽ cũng như họ, khi chúng tôi cùng nhau ở trên con thuyền lớn của trời mà tôi đã mơ thấy cái đêm ấy và từ bấy đến nay đã mơ trong nhiều đêm.
Tôi thấy lại mình trong căn gác áp mái chật chội ẩm thấp bằng ván gỗ của nhà kho rất gần trời, ở đây tôi có thể tưởng tượng tôi là sinh linh duy nhất thức tỉnh dưới vòm trời bao la. Tôi thấy lại tôi tìm thanh bình tại đấy và tôi nhớ lại những giờ mất ngủ, suốt những giờ đó, trong một sự im lặng và bóng tối chết chóc tôi cảm thấy cuộc đời tôi vô dụng và vô vọng một cách mãnh liệt đến nỗi tôi chỉ muốn đêm đó là đêm cuối cùng. Và rồi một tia phản chiếu của ngọn đèn pha đã lướt qua trên mặt tôi, chiếu sáng chiếc giường của tôi, nhắc tôi rằng tôi đã không ngừng muốn quên đi: Chúng ta không phải được ban cho cuộc đời, và chúng ta không có quyền ấn định những con đường của nó…
Ánh sáng xa xôi trở về và còn trở về nữa. tia chớp này tiếp theo tia chớp khác như chính hồi quang của Chúa vào linh hồn tối đen của chúng ta.
Tôi thấy lại mình, đứng lên, mệt mỏi, chân tay nặng chình chịch, nhưng ý thức được rằng dù sao tôi cũng được Chúa gọi đến để làm cái nhiệm vụ khiêm tốn của mình, và tôi thấy lại mình đang đi để thực hiện ý nguyện của Người.
Phía dưới trong căn phòng rộng trống trải của nhà mục sư, bánh mì và sữa đã được dọn sẵn và trong khi tôi ăn, khuôn mặt rám nắng và đôi mắt long lanh của Malene cười với tôi từ ngưỡng cửa nhà bếp, hiền hoà như của một người mẹ. tôi đáp lại nụ cười của cô với lòng biết ơn. Tôi ngạc nhiên vì cái sức nóng toả ra từ một cô gái sinh ra trên đảo, ngạc nhiên vì những điều cô biết, đồng thời cả tình yêu, nhục dục và sự dịu dàng của một người mẹ. Tôi hiểu những người đàn ông, lượn đi lượn lại xung quanh người phụ nữ này và tôi hiểu Schwarzflugel cuốn hút được của cô từng tia sáng nhỏ nhất cho cái thân thể giá lạnh của mình.
Tôi bước vào chào ông mục sư. Tôi thấy lại cái đầu như quả trứng của ông, trong bóng tối của phòng ngủ mắt ông nhấp nháy đen như hạt huyền, và hai bàn tay ông động đậy. Tôi cảm thấy mùi nhựa đường và mùi bách xù của ông khi những ngón tay lạnh giá của ông siết chặt tay tôi thì sự tức giận của tôi đối với ông và Malene biến mất. Tôi hiểu cả hai người cũng như tôi hiểu Jacobus Uz, hoàng thân và chị vợ của người gác đèn Madeleine ở Provence.
Nhưng tôi cảm ơn đã là một đứa trẻ. Schwrazflugel không còn ngờ vực tôi và Malene nữa. Thực ra ông ta không còn cần đến tôi, nhưng ông ấy giữ tôi vì lòng thương hại và khỏi buộc phải xa Malene lấy một lát, trừ ngày chủ nhật khi ông phải lên giảng đài. Ngay khi bắt đầu mùa gió thuận ông sẽ sai đưa ông lên một chiếc tàu đánh cá và sẽ đến Jutland để biến Malene thành vợ ông. Cô mỉm cười với tương lai một cách tin tưởng.
Tôi đến trường, đi dọc theo hoang mạc màu hồng nhạt dưới nắng mai lẫn với bóng râm xanh lơ. Cũng có khi nó lại có màu đen đất như nấm mồ bị đổ sụp của một người khổng lồ. đường đi làm của tôi ngang qua dưới chân đồi của nhà thờ và xuyên qua làng. Tôi biết nó rất rõ và đi theo nó để đi làm công việc của tôi. Tôi nhìn bọn trẻ sinh ra trên đảo và sẽ chết trên đảo, không hề ước ao đặt chân lên một bến bờ nào khác. Lòng đầy kinh hoàng tôi cảm thấy không có một giáo viên nào lại được giao một sứ mạng tế nhị như tôi. Tôi cảm thấy tôi phải bám vào rễ đến mức nào vào cát này để có thể hút ra mọi dưỡng chất cho những đứa trẻ của tôi. Và tôi nhận thấy công việc của tôi sẽ là sự cứu độ.
Những giờ dài lê thê bắt đầu. cũng như bổn phận của tôi là bám rễ vào mảnh đất nhỏ bé này như là vào một nơi độc nhất có thể được, tư tưởng của tôi chỉ xoay quanh bảng chữ cái, những phép tính cộng cũng như quanh những khái niệm ý nhị về lịch sử Kinh thánh và lịch sử đại cương như là cái kiến thức khoa học duy nhất tôi đã tiếp thu được. cũng như tôi đã quên mất lâu đài của ông tôi, sự thăng tiến của Adam Colbjornson đến vinh quang và quyền thế, sự leo thang của Augustin đến sự giàu có, đến những túi đầy vàng và những tủ đồ ăn đầy ắp, tôi đã quên kiến thức của giáo sư Honorius và thơ ca của bố tôi, tôi quên những ý nghĩ tham lam và những giấc mơ kiêu ngạo. Tôi tự phát hiện ra chính tôi trong cái lớp học chật và thấp này ở nơi tận cùng trái đất, bao quanh bởi hai ba mươi tâm hồn thơ ngây mà tôi phải dạy cách sống bằng cây bút chì, cái bảng, bảng tính nhân và giáo lý Cơ Đốc, nhưng chủ yếu bằng tấm gương của bản thân tôi.
Trong khi tôi cảm thấy học sinh thở xung quanh tôi mà tôi nhận ra sức nóng của cơ thể chúng, tôi hiểu được rằng đó là điều chủ yếu và đổi lại, với những cái nhìn cảm ơn, chúng tôi tham gia vào việc vận động của vĩnh hằng.
Tôi về nhà, luôn luôn theo dọc hoang mạc, nó có lúc trắng như tuyết, có lúc chói sáng như một Sahara đầy ảo ảnh. Tôi trông thấy ở đấy những khu rừng và những cây sồi hồi tôi tuổi còn măng sữa, tôi trông thấy ở đấy giữa những cồn cát có những thị trấn của dân chài với những mái ngói đỏ. Cư dân mặc quần áo đánh cá đi lại trên những đường phố ngập trong bụi nước. Họ đi vào và đi ra qua một cái cửa mở ra cho cổng chính của nhân loại. Cánh cửa này cũng hé mở đối với tôi rồi lại đóng lại như là đối với cả thị trấn, với tất cả kiến thức của nhân loại.
Tôi trông thấy những ẩn sĩ thoát ly hết mọi nỗi lo âu của thế tục này ngồi dưới những tán lá cọ thiên đường…
Những ảo ảnh đó được ban tặng cho tôi miễn phí như những ngôi sao đêm. Chúng mở rộng chân trời của tôi nhưng không gợi nên lòng ham muốn của tôi.
Các bạn có hỏi tôi rằng tôi chỉ có thể nhận thấy những ảo ảnh trên hoang mạc mà Chúa đã ngăn cách với các vùng khác bằng những vực rộng hàng ngàn dặm, mà các khoảng cách chỉ có thể chinh phục bằng tinh thần mạo hiểm?
Tôi sẽ trả lời các bạn rằng ước mơ cũng mạnh lắm, cái giấc mơ nảy sinh giữa lòng hoang mạc ấy mà. Hơn nữa chẳng phải tôi đã có trong tay quyển sách địa lý từ hồi tôi còn bé đó sao? Quyển sách đó tôi dùng cho học trò cờn hơn là quyển sách giáo khoa tồi tàn cổ lỗ mà tôi tìm thấy ở trường.
Tôi đi về nhà dọc theo hoang mạc, cái xượng? của tạo hoá, nơi hình thành và nảy nở ra những giấc mơ của Chúa. Lối đi chỉ dài có mấy bước, nhưng với tôi, một bạn tâm tình không xứng đáng của Chúa Trời, là cả một đường vòng quanh trái đất. Tôi đi về nhà để ăn cái thức ăn mà xưa kia tôi rất ghét với một mùi dầu cá voi bám vào tất cả ngôi nhà và vào tận nhà thờ, cái mùi cổ xưa nhất của thế giới mà Chúa gửi từ những vực sâu lên bờ cho chúng ta ăn.
Malene vẫn đón chào tôi với một nụ cười thân mật, nụ cười của người lớn với trẻ con, nhưng giọng dê kêu của Schwarzflugel không ngừng gọi cô.
Tôi bước lên phòng của tôi, đốt lò sưởi bằng thạch thảo và tảo dạt, ngồi vào bàn trước cửa sổ để tự học những kiến thức trẻ con mà tôi cảm thấy tôi chỉ nắm vững khi tiếp thu nó như một đứa trẻ.
Trong khi đọc sách, tư tưởng tôi bay lên. Tôi nhìn hoang mạc, biển khơi bên kia những cồn cát thấp, và tôi thấy rõ rằng chính ở nơi đây tôi phải sống, ở đây chúng ta được nuôi dưỡng bằng bàn tay của Chúa.
Tôi thấy mình lại đi vòng quanh đảo bằng cách men dọc theo bờ biển từ chỗ bến dưới những ngôi nhà của Jacobus Uz và của nhân viên hải quan đến tận ngọn đèn pha và mãi đến tận cùng mà phong cảnh thay đổi không ngừng. khi thì nó kéo dài ra, khi thì rút ngắn lại, khi hướng sang Đông, khi vòng phía tây. Một hôm tôi tìm thấy trên cát dấu vết chân của những chim mòng biển, một bận khác tôi lọt vào giữa một đàn hải cẩu chậm chạp.
Cái nhìn của tôi rụt rè đặt xuống ngọn đèn pha lớn trắng xoá và nhà người gác sau những đụn cát. Nếu đôi khi gặp chính người gác đèn, tôi vội vàng chào anh ta và trốn mất. Nhưng nếu tôi gặp anh trên đường, trong cỗ xe tồi tàn hai bánhto tướng đi dọc theo bờ biển và nếu tôi biết chắc rằng anh không thể bất ngờ xuất hiện gần bên nơi ở của anh, chỗ những vết bánh xe đã biến đi trong cát thì tôi nấn ná lại ở chân ngọn đèn pha trên nền lát gạch. Biển không ngớt ném vào tôi những bọt nước và bóng tối, gió làm đinh tai tôi, những con chấy biển nhảy phía trên những ngọn sóng tấn công vào các cây cột chốtn sân, ánh sáng lọt qua các đám mây như những hạt cát trong chiếc đồng hồ cát…Tôi ngắm những viên gạch trắng ra qua thời gian, rải dài như một chiếc quạt đến tận những đống tảo dạt và tôi trông thấy người vợ trẻ của anh gác đêm. Malene ở Provence mặc chiếc áo ngủ trắng, chân tay vỡ vụn dưới mớ tóc đen…Bóng nghiêng dị hình của Jacobus Uz cúi xuống cô.
Rồi mắt tôi còn tìm khoảng bao la đơn điệu của sóng, nó làm ánh sáng hiện giờ đang suy yếu.
Vậy là tôi đã được cái đặc quyền tìm được ở đây cái tồi tàn nhất của một nơi trú ẩn đấy chứ!
Tôi không dừng lại gần ngôi nhà của người gác đèn được vây kín dưới mái như dưới nắp quan tài. Người gác này đã phải đập vỡ bông hoa độc nhất của đời anh khi anh thấy nó đã bị đầu độc.
Nhưng xuống đến dưới, chỗ vịnh kho hàng, tôi nhận thấy một lần nữa cái nhà tai ách này. Những cảm nghĩ về Trái đất mà nó gợi ra thật lạ lùng đối với tôi cứ như là tôi thực tế sống ở một hành tinh khác. Tôi cô độc, vô cảm và xa lạ trên cái bờ biển vô tận này, trên đó đêm tối trải ra, như một cư dân của những vùng thiên thể. Vì tôi hiểu cái giá tôi phải trả cho sự giải thoát của tôi.
Một giờ sau, khi tôi đến chân ngọn núi Sonderbjaerg, tôi trông thấy sáng chói những cửa sổ của Jacobus Uz dưới những mỏm đá, trong bóng đêm bấy giờ đã tối mịt, tôi cảm thấy những bóng tối mà tôi bỏ lại sau, cho những dặm cát hoang sơ mà tôi vừa đi qua nơi chỉ có một mình hơi thở của tôi thổi qua một chút hơi ấm con người. Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình quá bé nhỏ, quá lạc lõng ở đây, trong đêm đen mịt mùng, bên bờ biển động dữ dội mà tôi chạy qua bằng một hành động thiếu suy nghĩ tới cái ánh sáng độc nhất này.
Thế là đã hơn ba mươi năm cây thánh giá dựng trên ngôi mộ của Jacobus Uz. Nó cùng với hai cây khác của Agnete và của hoàng thân, là những đài kỷ niệm độc nhất của chúng tôi. Tuy thế tôi thấy hình như chỉ mới hôm qua tôi đã trú ẩn bên cạnh ông ấy.
Sao mà tôi còn trông thấy ông ấy rõ thế, ông ấy ngồi cạnh cây đèn, nghển khuôn mặt tái nhợt của ông ra phía trước, cái khuôn mặt nói cho đúng ra là đang bị chôn giữa những xà ngang nặng trịch của trần nhà và những bàn ghế khổng lồ. Và tôi, ban nãy ở kia, nơi cả mưa lẫn gió không xoá nổi dấu mòn, thấy rằng mình cao hẳn hơn ông ta, tôi áp trán lên bàn tay trắng bệch ông giơ ra với tôi, thấy hoảng sợ trước sự vĩnh hằng mà tôi đã mơ ước và đang thuộc về nó, thấy mình bị trả về trên bãi biển này mà tôi luôn luôn muốn tìm cách chạy trốn.
Tiếng thì thào của đêm tối vang lên sau các cửa kính, tiếng tích tắc cô đơn của chiếc đồng hồ càng nhấn mạnh thêm sự hiện hữu của đêm và biển. Tôi ngẩng mặt lên và gặp đôi mắt của đêm và biển. Tôi ngẩng mặt lên và gặp đôi mắt của Jacobus đang cười với tôi trên ghế ngồi của ông ấy – cái hình ảnh sự mong manh của con người khiến ông ấy bị chiến thắng. Khuyết điểm của tôi cũng chẳng bé hơn của ông ấy và có lẽ cũng phải chuộc lại không kém, nhưng cũng vì nó tôi mắc nợ cuộc đời, ngoài nó ra không có sự cứu độ nào khác.
Hãy chỉ cho tôi một nơi nào của đảo mà tôi không tìm thấy lại Jacobus Uz. Chẳng phải ông là linh hồn của đảo đó ư? Ông là một con người thật nhỏ bé nhưng cũng thật là mạnh đó ư?
Tôi trông thấy ông đứng trên ngọn Sonderbjaerg, hiện lên bầu trời cái bóng dị hình của ông như một con chim ốm mong rằng cái cánh gãy nát của nó bay được tự do và đưa nó đến bên kia các biển, đến những chân trời không ngờ tới.
Tôi trông thấy ông mặc chiếc áo choàng xanh đi qua thảm cây xanh của đầm lầy. Tôi trông thấy hình ảnh của ông phản chiếu trong cái ao nhỏ rồi biến mất trong rừng cây.
Tôi trông thấy ông nặng nhọc vác những bó thực phẩm, quần áo hoặc sách cho người già và cho người nghèo. Tôi trông thấy ông hàng ngày đi đến nhà bác sĩ, mùa đông ấy, khi chiếc tàu Bengale bị đắm và người thuỷ thủ Bồ Đào Nha, kẻ sống sót duy nhất được chữa trị trong nhà của bác sĩ Oerbro. Ông đã học tiếng Bồ Đào Nha, tạo điều kiện cho người ngoại quốc bất hạnh lẽ ra không thổ lộ được đau khổ, những hối tiếc, sự hấp hối, kể lể tâm tình với một lỗ tai thương cảm giữa lúc chuyển từ cuộc sống sang cái chết rồi trút hơi thở cuối cùng.
Tôi thấy lại ông ấy suốt tất cả các ngày và các đêm có đắm tàu mà cái thân thể đau đớn của ông đã báo trước cho ông biết từ lâu. Tôi trông thấy ông chiến đấu với những ngọn sóng và bão tố, bò lê trong những bụi guốcbê trên bãi biển, chờ đợi suốt giờ này sang giờ khác chiếc tàu cứu nạn trở về và người ta chuyển những người bị nạn lên bờ, lên chiếc xe ông sai mang cho họ trên các cồn cát. Chiếc xe này chở họ hoặc là đến chiếc quan tài trong nhà thờ hoặc đến chính nhà Jacobus Uz, ở đó họ sẽ được săn sóc và che chở. Ông ở lại bên cạnh chiếc xe, đặt tay lên thùng xe và nếu những người bị nạn còn sống thì ông khuyên răn động viên họ bằng một trong bảy thứ tiếng mà ông biết.
Tôi lại thấy ông quỳ bên những nạn nhân đắm tàu để nghe người gác cảng hay nhân viên thuế quan Vendelin báo tin rằng biển đã ném vào bờ xác một người ngoại quốc. Ông thực hiện cho anh ta mọi độngtác săn sóc mà ông đã học được, hà hơi thổi ngạt vào hai lỗ mũi vào mắt anh ta và cuối cùng khi đành bỏ thì ông ôm đầu xác chết vào ngực trong lúc hai mắt ông nhìn ra biển bằng cách đặt cho thần chết câu hỏi không được trả lời của những người đang sống.
Tôi nhớ lại một đêm đông và cơn bão tuyết. một chiếc tàu đến từ Ấn Độ đã bị vỡ đâu ngoài kia gần Stensore. Chỉ một người da đen được cứu thóat. Ngay sau khi người ta đưa anh vào bờ, anh đã nằm quị xuống đất, cuộn mình trong tuyết, vùng đứng dậy rồi lại ngã xuống kêu rú lên vì rét trong cơn bão. Jacobus Uz đã giật chiếc áo khoác của mình ra quấn cho người da đen. Anh này hôn bàn tay ông rồi ôm lấy bờ biển và kêu to bằng tiếng Anh bập bẹ:
- Bờ biển kinh khủng, bờ biển trắng bệch như thần chết nhưng một người lùn có bướu đã cứu tôi, ông ấy đến thẳng từ mặt trời!
Tôi cũng thấy lại hai người đàn bà đã chia sẻ với Jacobus Uz ngôi nhà hoang vắng to tướng, cô và dì của ông ấy.
Tôi thấy lại khuôn mặt của họ như là tôi đã trông thấy họ lần đầu sau cửa sổ, mải miết nhìn ra biển, mỗi người hy vọng sự trở về của người thân yêu không bao giờ về nữa.
Cuối cùng hai khuôn mặt đối với tôi đã lẫn lộn vào với bộ mặt của hòn đảo. nó cũng không ngừng nhìn ra biển như nói rằng Đất liền ơi, liệu anh có về vbem nữa không, anh, người mà hôm nào em đã phải ngăn cách bằng vũ lực, anh có ôm em vào lòng hco em khỏi cô độc không?
Bà Boline d'Orchimont, cô của Jacobus Uz không theo ý nguyện của cả gia đình đã kết hôn với một thuyền trưởng nước ngoài ghé vào đảo để mua cá, và gần một năm sau ngày cưới ông đã rời bỏ vợ và biến mất sau đường chân trời, cũng đột ngột như khi ông đến. Ông còn không cho biết một dấu hiệu nhỏ nào về cuộc sống.
Tôi trông thấy bà ấy to lớn bệ vệ, bàn tay béo múp đặt lên chỗ vặn ổ khóa cửa sổ và nhìn ra ngoài, ngày này sang ngày khác, năm nọ đến năm kia.
Tôi chỉ không có mặt trên đảo một tuần lễ là người ta hỏi: Ông đến thăm bà d'Orchimont à?
Sự quan tâm mà tôi nhận được chứng tỏ cho tôi biết rằng tôi đã được hòn đảo đón tiếp bằng tất cả luật lệ.
Đôi mắt nâu nặng nề của bà d'Orchimont dưới cặp lông mày đen sẫm dừng lại một lát ở tôi trong khi cháu bà giới thiệu tôi, rồi lại quay về phía cửa sổ.
Jacobus Uz đã đẩy về phía tôi một trong những chiếc ghế tựa lưng thẳng đứng, còn ông thì ngồi trên một chiếc ghế đẩu đặt ở chân bục. Cả ba chúng tôi không ai nói gì, cùng nhìn về chân trời xám đang biến mất, tiếng động khẽ của chiếc đồng hồ phía trên tràng kỷ phá tan sự im lặng. Một mùi chua của những chiếc gối bằng lông ngựa và véc ni trôi trong không khí. Một số khăn trải bàn, tạp dề, vỏ sò, miếng hổ pháchm mũi dao và rìu đá, những lọ hoa hải đường hay hoa vân anh, những vòng thạch thảo, cúc bất tử và cây sim, quà biếu của trẻ con trên đảo, chất đống trên chiếc bàn phủ khăn màu sẫm có đặt cây đèn chùm che vải trắng giống như một khối nước đá. Ngay cả trên các giá treo, các bàn tròn, các gối thêu của lỗ cửa, nơi có một bàn tay to tướng đầy nhẫn, và vòng, lại cả trên bục, xung quanh những bàn chân đi giày vải đen cũng ngổn ngang các thứ đồ đạc ấy.
Tất cả thảo mộc nghèo nàn của đảo đều nẩy nở trong phòng, bà Boline d'Orchimont. Chỉ một đoá hồng nở ra bị gió và rách trong cát của những mảnh vườn nhỏ, mỗi bông hoa bướm xanh đứng lên giữa đá của hoang mạc, từng miếng hổ phách vàng chói mà bọn trẻ tìm thấy trogn khi chơi đùa hay là biển ném vào bờ như là thông điệp của mặt trời – tất cả những gì lọt vào tay của chúng nó đều là của bà hết.
Mỗi chiếc khăn bàn, mỗi chiếc gối mà những người phụ nữ trẻ khâu được đằng sau cửa sổ trong những giờ hoạt động vui chơi ngắn ngủi đến trang trí cho cái bàn hay chiếc ghế bành của bà d'Orchimont. Những mũi thêu sẫm tượng trưng những tiếng thở dài cảm hứng từ số phận của bà, những mũi thêu vàng biểu hiện những lời nguyện cầu cho số phận của người đang thêu.
Những người chịu lễ ban thánh thể đầu tiên, những cô dâu đến vừa run run đặt những vòng hoa dưới chân bà như trước một cuộc đời chưa biết đến, giống như biển trời bao la mở ra trước mặt bà.
Do ngồi năm này sang năm khác ở cửa sổ của mình, bà Boline d'Orchimont, mà tuổi tác và sự bất động dày dặc trong chiếc áo lụa đen, đã hầu như chuyển sang trang thái truyền thuyết, nhân cách hóa hòn đảo của quá khứ, của tương lai, bí ẩn như biển cả, bà chủ của những số phận đã đưa đến và lấy đi người khách lạ được chờ đợi triền miên.
Và như câm, như điếc, như mù, bà nhận những quà tặng những tia mặt trời của mảnh đất nghèo này, lưng quay lại những cô gái trẻ dâng tặng phẩm, run sợ ở ngưỡng cửa. Người ta yêu mến bà vì sự im lặng của bà, vì tật điếcc mù quáng của bà như là những người con của mảnh đất bị lãng quên giữa biển khơi yêu hòn đảo của họ.
Nỗi đau của bà sống trong tim mọi người. Nó ngăn lại những trò chơi trẻ con, những cuộc khiêu vũ của thanh niên. Nỗi đau của bà là nỗi đau của hòn đảo.
Chính bản thân bà đã quên đi nỗi đau ấy. Bà chỉ còn nhớ lại có một điều: sự bất công, chỉ chờ đợi có một điều, sự chờ đợi.
Quên rồi nỗi sợ hãi những ngày đêm bão tố, quên rồi sự kinh tởm bị bỏ rơi, quên rồi sự điên rồ của sinh đẻ, quên rồi những chuyến chạy ra tận đê chắn sóng ngóng trông vô ích, quên rồi những giờ trải qua để hỏi một cách vô vọng đường chân trời, quên rồi s. trả lời của các lãnh sự quán – bởi vì một thuỷ thủ từ Nam Mỹ trở về đã mang tin rằng d'Orchimont mà mọi người tưởng đã chết và bị sóng thần nhấn chìm, vẫn còn sống sờ sờ và hiện đang ở dưới nắng gắt của một bến cảng xa xôi trên một chiếc tàu, sánh vai cùng một cô gái Brasil xinh đẹp.
Bà d'Orchimont im lặng lắng nghe câu chuyện mà Jacobus Uz đã kể cho bà nghe với cách bố trí thật khéo léo, mong sao giờ đây bà loại trừ kẻ không chung thuỷ ra khỏi tim mình và thôi ngồi ngóng mãi bên cửa sổ.
Và quả thật bà đã loại bỏ d'Orchimont ra khỏi trái tim, nhưng bà vẫn ngồi ở cửa sổ. Bà ngồi đấy để chờ ông ta trở về, về đấy bởi nghèo khổ và ân hận, và đó là giờ báo thù đã điểm cho bà, một phụ nữ họ Uz bị chồng ruồng bỏ để chạy theo một cô gái ở một thành phố đáng nguyền rủa! Và bà nhận được lòng tôn kính của dảo nhỏ như nhận một tri ân cỏn con của mọi người.
Chẳng phải bà đã đau khổ cho tất cả, vì tội lỗi của đảo, vì sự ham muốn điên rồ của nó đối với mặt trời và ánh sáng đó sao?
Bà đã quên đi cuộc gặp gỡ đầu tiên ở bến cảng ngày mà ông ấy bước chân xuống đất đưa mắt ngơ ngác nhìn những núi non đen thui và những ngôi nhà tăm tối đó. Làm sao con người có thể sống được ở những nơi ấy?
Bà đã quên hàm răng trắng, ngôn ngữ sai lạc không đủ để mô tả sôi nổi về tổ quốc của ông ta và những bến bờ quyến rũ từ những chuyến đi liên miên đã đưa ông tới. Bà cũng đã quên cái mà mọi người từ cha mẹ đến anh em đều nghe ông ta tại cái phòng ẩm ướt này giữa lúc gió bấc rít trong ống khói, tiếng sóng đập vào băng át cả giọng nói, họ vẫn mải mê nghe nói về mùa hè vĩnh cửu, về những cây cọ, về những người trần trụi…
Bà đã quên tiếng thở dài thoát ra từ mọi lồng ngực khi cuối cùng ông im lặng và nhìn ánh đèn nhợt nhạt, biết rõ rằng một ngày kia ông sẽ tim thấy nơi chốn thích đáng của mình trong một xứ sở mặt trời, ruồng bỏ mảnh đất dãi dầu với mọi khắc nghiệt của thời tiết này, cái ngôi mộ bằng đá này. Bà đã quên rằng bố mẹ bà cũng như bà, và ngay cả người anh thật cứng cáp, bố của Caspar và Jacobus, đã quay mắt đi để người ta không nhìn thấy sống lại ở đấy kỷ niệm những tổ tiên xa xưa của họ đã, dưới cánh buồm trắng, ghé vào một bến bờ xanh thanh thiên, nơi con người trần trụi tắm trong nắng mặt trời.
Bà đã quên trong khi yêu ông ta, bà đã yêu chính bản thân mình, quên cuộc đấu tranh mà bà phải tiến hành một mình để thực hiện giấc mơ bị mọi người đánh mất khi bà tuyên bố muốn thành vợ ông ấy.
Trong sáu tháng trời ông ấy đã phải nhượng bộ sự quyến rũ của sắc đẹp trang nghiêm, của ý muốn và tài sản của bà. Ông ấy đã ở lại bên cạnh bà ở cái biên giới này của thế giới, trong cái hang này của những người dã man và thú dữ. rồi nhờ vào những cái vuốt ve và những nụ hôn, ông đã được bà cho phép về thăm lại tổ quốc chỉ một lần nữa thôi, ông đã thề với bà là khi quay lại sẽ không còn lưu trú ở mảnh đất nào khác hòn đảo này của họ.
Và bà đã có thai, đành phải nhìn ông ra đi một mình đến với cái mặt trời đã gửi ông ấy cho bà nhưng rồi không bao giờ đưa trả ông lại nữa. Bà ở lại với biển, bóng tối và gia đình. Vì tức giận gia đình không thể nào tha thứ cho bà vì đã đón một người lạ, một kẻ thù, ánh nắng vào trong pháo đài đã khép lại cho mọi kỷ niệm của con người bị ghét bỏ khó tiếp xúc. Bà ở lại với những nuối tiếc, những sợ hãi, với đứa con của bà.
Đứa trẻ sống được sáu tháng. Da và tóc đen, nó không ngừng kêu khóc sau những cửa kính phủ tuyết, giữa đám người luôn luôn nhìn nó bằng những cái nhìn ác cảm và ngờ vực, mẹ hờ hững. Bà ấy, lòng còn đau đớn, đã rời giường nằm để đến bên cửa sổ rình ông ấy trở về.
Bà thờ ơ lắng nghe tưởng kêu khóc của đứa bé, nghe nó yếu dần rồi nhìn thấy nó trong chiếc quan tài còn tối tăm hơn cả ngôi mộ. Đứa bé đi đến nghĩa địa góp tiếng nói bé nhỏ của nó vào những tiếng rên thì thầm không ngừng nổi lên ở hòn đảo chúng ta, tiếng thở dài của tất cả những người ngoại quô
C mà thân thể bị cầm tù trong cát này.
Bà đã nhận được tin là người bà chờ đợi vẫn sống nhưng bà cứ chờ đợi vô ích. Tuy vậy, bà vẫn ngồi tại chỗ và không bao giờ rời khỏi nữa.
Bà quên đi bổn phận chăm sóc hoạt động của giống nòi mình, bà quên rằng chính là bà phải trông nom nhà cửa, chăm sóc bố mẹ già. Quay lưng lại với tất cả mọi thứ và mọi người, bà ngắm nghía chân trời. Bà không thấy bụi rơi từ trên các xà nhà, bà không thấy tóc điểm sương trên đầu bố mẹ, thân thể uy nghi của họ còng xuống và co quắt lại trong khi họ quanh quẩn từ gian nhà này sang gian nhà khác, xa lạ ngay trong nhà mình.
Hầu như bà không nhận thấy tiếng lê bước của họ đã ngừng và tiếng chuông đã điểm cho họ, Người là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi.
Ngồi hết ngày này sang ngày khác ở nguyên một chỗ, bà cúi về phía trước khi trông thấy một cánh buồm nhỏ nổi lên trên đường chân trời, một làn khói mỏng. Bà quay lưng lại với toàn bộ thế giới.
Caspar đã bị giết, Jacobus đã đến tuổi trưởng thành, hai người vợ của anh đã biến mất cũng như họ đã đến, bản thân phải sống cuộc đời đau khổ và bứt rứt. tất cả những người cùng trang lứa trẻ con với bà Boline đều đã nằm dưới cát cho sự yên nghỉ vĩnh hằng. Nhưng bà ngồi ở cửa sổ của bà, hỏi chân trời.
Bà đợi giờ mà ông ấy bị thúc đẩy bởi sự cô quạnh, bởi tuổi già, bởi cái chết, sẽ tìm lại bờ biển âm u này. Bà chờ đợi trông thấy ông ấy thất bại quỳ dưới chân bà, thất bại vì mặt trời và hạnh phúc chỉ xin áp trán vào bóng tối, lo âu và đau khổ, vào bàn tay lạnh giá của người vợ.
Lúc bấy giờ bà sẽ thực hiện việc báo thù, bà sẽ được trả thù từ ông ấy và từ chính bà, bà sẽ biết rằng tiếng nói cuối cùng thuộc về nòi giống của bà và thuộc về bóng tối.
Bà Benedice Comminchen, dì của Jacobus Uz sống ở cánh kia của ngôi nhà.
Bà đến đảo sau khi bị bỏ, không có một xu, bởi những cha mẹ vô tâm chỉ nuôi bà để cho vui Híerominus Uz đã đưa bà về nhà vì thắng lợi đã tham gia vào sự sa sút của gia đình bà cho bà miếng ăn, chỗ ở để giữ con và nấu ăn.
Bà thưởng công cho Híeronimus Uz khi có con với một thuỷ thủ ở lại trên đảo vì bị đắm tàu và đã chết sau một năm, vì vết thương.
Đứa trẻ là con trai. Hieronimus giao nó cho người quản các kho hàng, lão Mons Abed Flade đáng sợ, và hầu như không cho nó trông thấy mẹ nó. Khi đứa bé lên mười ba tuổi, Hieronimus gửi nó đi biển trên một trong những chiếc tàu mà chỉ riêng thuyền trưởng bảo đảm là còn tồn tại sau này.
Ngày rời bến của con tàu có Ernst trên đó – Ernst là tên đứa trẻ - với thủy thủ đoàn là những người say và không có năng lực, bà Benedicte đứng ở cửa sổ. Anh rể của bà cho phép bà tiễn biệt con trai nhưng không được đi theo nó ra bãi biển.
Vậy là bà ở lại, đôi mắt sưng phồng, hai bàn tay nắm co lại trên chiếc khăn choàng mà bà buộc trước bộ ngực đã lép kẹp và chỉ động đậy khi mũi cột buồm cuối cùng đã biến mất ở chân trời xám. Rồi bà nén lại một tiếng khóc vàtp tục công việc.
Nhưng một lát sau bà lại đến bên cửa sổ và khi Hieronimus từ phòng làm việc về, bữa ăn chưa dọn ra trong phòng ăn, Caspar và Jacobus đang chết đói. Bà Benedice đứng trước cửa nhìn bất động và bà siết chặt hai bàn tay lên khăn choàng đến nỗi đôi tay trắng bệch ra.
Giọng trầm và như búa bổ của ông chủ đuổi bà ra khỏi đài quan sát của bà, bà dọn bàn ăn. Nhưng bà lại biến mất khi đưa các món ăn đến. Hieronimus đi tìm và thấy bà ở trước cửa sổ.
Quay ngoắt lại phía ông ấy, bà nhìn ông ta bằng đôi mắt lớn, rồi lại chằm chằm nhìn ra biển, hơi nhón chân lên như để không bỏ sót một vật gì bên kia đường chân trời.
Lúc bấy giờ, như cái buổi sáng ông tìm thấy xác bà vợ trên mặt biển, Hieronimus ngập ngừng một lát rồi quay đi.
Ít lâu sau một bà quản gia mới của đất liền đến săn sóc ông và các con trai của ông.
Bà Benedicte ngồi ở cửa sổ cũng kiên nhẫn như bà Boline ở cửa sổ đằng kia.
Hieronimus đi đi lại lại trong ngôi nhà rộng lớn giữa hai cửa, nhưng khi đến cửa này hay cửa kia ông đều đứng sững và quay lại.
Jacobus và Caspar bị để mặc.
Chẳng khác gì bố, hai đứa không dám liều mở những cánh cửa đóng. Khi chúng thoáng nhìn thấy khuôn mặt của cô và dì chúng đều giấu mặt đi .
Khi lớn hơn chúng cùng đi với những đứa khác đến đứng trước cửa bà Boline, và cuối cùng run run đi vào, được đón tiếp bằng cái nhìn chằm chằm của đôi mắt đen. Theo tuc lệ của đảo, chúng mang đến những lễ vật nho nhỏ cho số phận, cho kẻ không quen, cho biển cả để tranh thủ ân huệ. Nhưng cũng như các bạn, chúng không đến thăm dì Benedicte của chúng.
Đối với chúng, bà chỉ là một người đàn bà mất trí, và đã có một đứa con bất hợp pháp. Với lại bà không phải là thành viên của họ Uz, cũng phải của đảo. Nỗi đau của người mẹ ở nơi khách không mời mà đến này có liên quan gì đến chúng? Bà đã có hơn được bà cụ Maerged Duun, theo như người ta nhớ vậy, ngày nào cũng lê nạng lên tận đỉnh Sonderbjaerg, và ở trên đó cúi về phía chân trời, nhìn quanh để tìm đứa con trai? Anh này đã rời khỏi bà năm mươi năm trước để đi tìm kiếm của cải ở những đất nước xa xôi. Anh ta đã không tìm thấy, hay đã quên mẹ rồi, anh muốn đưa vàng bạc về cho ai?
Hơn nữa, người ta thấy trên mỗi bờ biển bị sóng quét có một người mẹ tìm con trai. Nhưng ở đâu có một người đàn bà như bà Boline, ngồi chờ mong người chồng mà biển đưa đến rồi lạc đi khi ông ta vẫn còn sống?
Một ngày kia biển sẽ trả lại những người chết vào chân những người chờ đợi trên các bờ cát. Nhưng bao giờ nó sẽ bỏ lại những người chết còn sống, những người tự nguyện lao vào trong các ngọn sóng, phó mặc cho biển cả mênh mông như chính bản thân họ là một trong những ngọn sóng?
Bà Benedicte chỉ chờ đợi vì mục đích riêng bé nhỏ của mình. Bà Boline chờ đợi cho toàn đảo mà mặt trời không ai đến gần được, sau khi đốt sáng các đảo xa xôi, cuối cùng đến đây trước đảo của chúng ta ,cầu xin hòn đảo cho phép nó dập tắt ngọn lửa của nó trong lòng lạnh giá của đảo. Bà Boline là nỗi nhớ quê hương và là sự trả thù của hòn đảo.
Tuy nhiên, một buổi chiều, sau khi cung kính chào hỏi bà Boline quấn khăn san, quay lưng lại phía chúng tôi, đang bị thu hút bởi một vài điểm đen nào ở tận chân trời, chúng tôi đi qua tất cả các gian trong nhà, tiếng bước chân chúng tôi vang lên trong yên lặng, để vào chỗ bà Benedicte Comminchen.
Căn phòng lạnh lẽo không trang hoàng gì cả có kê vài thứ đồ đạc tồi tàn bằng gỗ tùng và một cái giường sắt gỉ. Bà Bennedicte ném đến chúng tôi một cái nhìn sợ hãi không tỏ ra chờ đợi những quà tặng hay lòng cung kính.
Jacobus Uz và tôi áp môi vào bàn tay lạnh giá và gầy guộc của bà. Khi chúng tôi nhận thấy cái gáy tóc hoa râm, cái lưng xương xẩu của bà dưới cái áo màu lục nhạt, khăn choàng chéo trước bộ ngực lõm, chiếc khăn mà gió lùa ở cửa sổ thổi phập phồng, chúng tôi mới tin chắc rằng sự chờ đợi của bà là vô tận, dài hơn của bà ở cánh bên kia ngôi nhà.
Trong lỗ cửa, một ngọn đèn có chõm bị nứt toác và mờ đi vì cát, đã được thắp lên để chiếu sáng lên sóng suốt cả đêm. Nhờ có nó, đứa con trai đi vắng có thể tìm thấy đường khi đôi mắt của bà mẹ không còn khả năng canh chừng. Ngọn đèn đốt cháy ở cửa sổ cũng như đốt cháy trái tim cô Benedicte.
Những người của đảo biết rất rõ ánh sáng này. Trong những buổi đánh cá đêm, khi ngước mắt lên trên vực sâu tối đen họ thấy ngọn đèn cười với họ giống như tiếng gọi c bếp lửa vô hình của nhà họ. Và họ cười đáp lại.
Anh sáng cũng được những người đi biển biết đến, ngay cả những người đến từ các cảng xa xôi, cách nhiều năm mới đi qua lại, cách đảo từ ngoài khơi xa, và nhận thấy ánh chiếu của nó không thay đổi.
Người ta kể chuyện một người con trai bất hiếu, một người con vong ân, tất cả đều trg số những người chết còn sống của biển, một hôm, khi gặp nguồn ánh sáng chiếu không mệt lên bóng đen, đã nhớ lại những năm tháng trôi qua. Anh ta bỗng thấy một cái cửa sổ, một ngọn đèn, một khuôn mặt và một thành phố xa xôi...
Người ta thì thào rằng bó hoa rụng xuống thành bụi ở chỗ bà Benedicte, bó hoa độc nhất mà bà từng nhận được, đã được một bà mẹ vô danh gửi đến như một bằng chứng của lòng biết ơn.
Nhưng bà Cominchen, đứng lên, bỏ cái chỏm đèn đi và chúng tôi lặng lẽ chuồn ra ngoài.
Ở chỗ bà Boline, cửa sổ vẫn tối và đóng lại như chính trái tim bà.
Hai khuôn mặt đã biến mất từng cái sau cửa sổ, cách nhau một tháng và chuông vang lên như thế hai tiếng nói của chúng đưa ra lần cuối cùng tiếng gọi biển không trả lại cái nó đã lấy đi. Chỉ bấy giờ tôi mới quay mắt khỏi chân trời, từ bỏ không mơ về những xứ sở mặt trời và thôi tiếc những gì tôi đã để lại bên kia ngọn sóng và không bao giờ tôi tìm lại chúng nữa. Chỉ lúc bấy giờ tôi mới cảm thấy ở trên đảo là nhà mình. Sự nhớ nhung của hai cái nhìn đó đã tan biến vĩnh viễn.
Và tôi tin rằng những người khác cũng như tôi. Không phải tất cả mọi người khác, không phải các cư dân trong cái hang tối của bọn cướp, ở dưới ngôi nhà họ Uz, và dưới cá đồi tối tăm, không phải nhân viên hải quan, vợ ở ta và các con ông ta.
Tôi luôn luôn gặp nhân viên hải quan Vendelin trong các cuộc viễn du đơn độc dọc theo bờ biển.
Tôi trông thấy ở ấy mùa hè cũng như mùa đông, giống như buổi chiều đầu tiên, chạy nhanh trên bờ biển, gậy cầm ở tay, áo dài đồng phục cài suốt đến cổ, mũ cát két có đính lon đội thụp xuống trán.
Mỗi một lần gặp, ông ấy đều đưa tôi vào một nỗi hoảng sợ. Ông ấy nhìn lướt qua tôi và thoáng hiện thoát khuất giữa các núi cát. Tôi muốn nhảy vào trong các bụi guốc bê để tránh khỏi nhìn ông ấy, thế mà tôi vẫn buộc phải nhìn theo cái bóng đen bé nhỏ của ông cho đến khi nó mất hút ở nơi xa, tưởng chừng như biển đã nhấn chìm ông.
Giữa lúc ấy tôi thở và tiếp tục cuộc dạo chơi. Nhưng tôi thấy hình như tất cả đang chạy trốn, đang tan biến, bờ biển phủ cát hay đá cuội, những ngọn sóng sủi bọt, dải cồn cát, cây đèn pha, những quả đồi. Và bỗng thình lình bản thân tôi cũng chạy như Vendelin để trốn – chẳng biết là trốn đi đâu và trốn cái gì !
Tôi nhớ lại cái ngày mà tôi gặp ông ấy trước nhà ông ấy, xanh nhợt như một xác chết, lảo đảo, hơi thở rít. Ông đã kết thúc cuộc chạy hôm đó và đang chuẩn bị cho ngày hôm sau.
Còn tôi đã đi ra ngoài để mở rộng mảnh đất, để kéo dài khoảng cách hàng giờ giữa cồn nọ đến cồn kia trong lúc dịu dàng làm quen với từng hòn đá với từng nhánh cỏ, tôi ngả mình xuống cát và nấp đi để khỏi thấy mình ở đâu.
Chỉ đến khi tôi hiểu rằng rằng cái ước muốn không thể nào thoả mãn được của con người đã luôn luôn chạy quanh thế giới như Vendelin, chạy quanh hòn đảo để trở về kiệt sức sẵn sàng ngã quỵ ở điểm xuất phát, tôi mới dám ngước mắt về phía những rang giới phân định cho tôi. Với một tiếng thở dài an ủi tôi tiếp tục những tìm tòi của tôi trên những hòn đá và ngọn cỏ.
Ở chỗ Vendelin, dưới bóng đen của cái mái bốn trăm năm, bà vợ nhân viên hải quan và các con đang thực hiện trg gian nhà âm u lạnh giá cuộc chạy giống như ông ta.
Một hôm, tôi vào trong căn phòng này cùng với Jacobus Uz. Vốn đã quen với cái nghèo, tôi đứng đóng dinh ở ngưỡng cửa căn nhà âm u tang tóc.
Nhưng bà Éleonore đến gần với dáng đi tựa có cánh bay. Chiếc khăn san màu đỏ lửa bao bọc thân hình mảnh dẻ của bà. Trên mớ tóc đen xanh bà đã cắm một bông cẩm chướng giả và đôi mắt bà mở to.
- Chào những người mới đến – bà nói với chúng tôi bằng giọng như hát và bắt tay tôi – Thật là vui khi được gặp một người có học trên đảo chúng tôi. Nên luôn đến chỗ chúng tôi vàn s với chúng tôi về đời sống ở thủ đô, về những vở hát mới, về các diễn viên và về những cuốn sách – về xã hội thượng lưu ở đấy.
Bà ngừng lại, vừa siết hai bàn tya tho dài hơi bẩn lên ngực vừa nhìn đắm đuối vào mắt tôi có vẻ như muốn hút hết vào bà tất cả những gì tôi biết.
Khi tôi ấp úng trả lời rằng tôi không biết gì về nhà hát và đời sống văn học ở Copenhague, bà thở dài, hai bàn tay tuột dọc chiếc khăn san, người ta có thể nói rằng tôi vừa mới làm tan vỡ hy vọng giải thóat ở một người bị buộc tội phải chết đói. Khuôn mặt bà loé sáng lên trong khung tóc đen như khuôn mặt một người chết. Trong đôi mắt bà phản chiếu bóng mái nhà bằng tảo dạt. Hình như chỉ lúc đó tôi mới hiểu nỗi buồn ở đảo.
Nhưng bất thình lình tôi thấy một cái dầu nâu bên chiếc váy đen của bà Éleonore, hai bàntay bám vào đó và đôi mắt long lanh tìm mắt mẹ.
- Mẹ ơi, chúng ta sẽ không diễn hết Age và Else.
- Có, có – bà Éleonore giật nảy mình, có vẻ bà về với cuộc sống. Bà cười với chúng cứ như cười vì hạnh phúc – có, có chứ, các con – và bà dang hai cánh tay ra tựa như đôi cánh dưới dải khăn san.
Tất cả các đứa trẻ, tóc đen, mắt sắc, ngón tay thon, đi ra khỏi bóng tối, bám chặt vào bà Éleonore như một mõm đá.
Phía sau những đứa khác, ánh lên đôi mắt của Agnete. Khuôn mặt tái nhợt của nó lộ ra dưới cái cổ thon gầy.
- Xin lỗi các ông – bà Éleonore cúi xuống – Nhưng ngày thì âm u quá mà chúng tôi lại diễn ba lê Age và Else. Có thể mời các ông ngồi lại xem chúng tôi diễn nốt không ạ.
- Vâng, thưa bà – Jacobus nói, vừa kéo tay tôi. Như người quen trong nhà, ông bảo tôi ngồi xuống một chiếc ghế, nó kêu rít lên.
Trời khá lạnh khiến hơi thở của chúng tôi tạo thành một làn sương mù trong bóng tối của gian nhà, nhưng bà Éleonore và những đứa trẻ để cổ và cánh tay trần, hầu như chỉ hơi che qua những quần áo đã sờn và các dải băng chéo. Chúng nó đi tất thủng để múa.
- Nào đến đây Steffen – bà Éleonore ra lệnh. Nói xong bà kéo ra giữa nhà một chiếc ghế có lưng tựa cao bọc vải bạc màu.
- Ừ như thế, - bà nói tiếp và ngả đầu đứa con trai mười ba tuổi ra phía sau – « Con vừa ra khỏi nhà mồ của con bởi vì Else, vị hôn thê của con, đau đớn rơi lệ - Con đã lảo đảo vào khuê phòng trinh nữ của nó và con đã ngã xuống chiếc ghế của nó ».
Steffen để treo hai cánh tay, hé mở miệng và nhắm mắt lại. Thân thể gầy guộc của cj bé trong những quần áo quá ngắn quỵ xuống. Xương nó hình như rời khớp và khi một trong những đứa em gái c cnó mang một tấm khăn lớn đến phủ lên nó thì nó hòan tòan có vẻ như một xác chết trong lúc khuôn mặt trẻ con của nó đờ ra bất động.
- Đến lượt con, Agnete, lại đây – bà Éleonore cũng như các con của bà, hình như đã quên chúng tôi và quên cả gian nhà mà bà đang ở đấy, chỉ chú ý đến cái bóng bất động lật ngược trên ghế.
Agnete đến gần. Mớ tóc đen của nó phủ lên người nó như tấm khăn tang. Nó quỳ bên ghế, giăng cánh tay. Bộ ngực của nó một nửa để trần nghẹn ngào ép ra những tiếng thở dài nặng nề. Nó thong thả giơ hai bàn tay về phía anh nó và thì thào :
« Nghe này hiệp sĩ, ngài Age,
Người yêu của thiếp,
Chàng hãy nói những gì xảy ra dưới đất đen
Trong mộ của chàng »
Và Steffen ngẩng đầu lên rồi hát với giọng vỡ.
« Dưới đất đen,
Trong mộ của ta
Tất cả như ở thiên đường
Vậy nàng hãy vui lên ! »
Agete hơi lùi lại, hai bàn tayđặt lên tim và cúi nhanh về phía Steffen nó thì thào như đang trong cơn sốt :
« Nghe này, hiệp sĩ, ngài Age
Người yêu của thiếp
Thiếp có thể đi theo chàng dưới đất đen
Trong mộ của chàng »
Steffen nghển dậy hơn nữa, vải liệm động đậy, hình như nó giơ hai bàn tay lên và hát to hơn nữa với ngữ điệu đe doạ :
« Dưới đất đen
Trong mộ của ta
Người ta nghĩ là trong địa ngục tối nhất
Haỹ làm dấu thánh gía !
Bởi vì mỗi lần nàng khóc
(tiếng nói đổi giọng, trở thành một lời thỉnh cầu)
Khi nàng buồn
Mộ ta đầy máu
Ở đầu giường của ta
Cỏ mọc xanh ngắt
Nhưng ở chân ta
Rắn cuộn tròn
Nhưng mỗi lần nàng hát...
(Giọng nói lầm rầm hát lên êm êm, trong khi cái đầu mềm lả tựa vào lưng ghế như trên một chiếc gối)
« Nàng vui
Thì những lá hồng
Kết tràng trên mộ ta »
Agnete quỳ thụp xuống lắng nghe, cổ dài ra, hai tay vòng trước ngực. Nét mặt của Steffen sáng lên, một nụ cười thanh bình. Những đứa trẻ khác tụ họp quanh các diễn viên thình lình hát lên, giọng thật trong trẻo :
« Nàng cầm cái lược vàng
Và chải tóc cho chàng
Ở mỗi cuộn tóc nàng gỡ ra
Nàng rót vào một tiếng khóc »
Agnete nửa đứng lên tựa vào chiếc ghế, vừa cẩn thận vuốt những sợi tóc đen dài ccanh nó với một mẩu lược cũ. Những cử động của người nó, nghiêng về phía trước, của những mí mắt dày cộm, của những ngón tay cầm lược được tái hiện trg tiếng hát của các anh chị em nó. Chẳng mấy chốc tiếng hát đó tắt đi như một ngọn đèn trong đêm.
Steffen ngẩng đầu lên. Hai mắt nhắm có vẻ như lắng nghe, nó hát :
« Con gà trống đen gáy
Trong góc tối
Các cửa đã mở
Ta phải đi thôi »
Hai mắt vẫn nhắm, nó đứng lên lảo đảo :
« Con gà trống trắng gáy
Trong phòng cao
Tất cả người chết trở về trong đất
Ta phải đi thôi
Con gà trống đỏ gáy
Ở nơi nóng cháy
Tất cả người chết phải trở về trong đất
Ta phải theo họ »
Những giọng hát run run của cả đám hoà vào tiếng hát của Steffen đang quỳ xuống và đặt lên vai một mảnh gỗ dạt. Agnete cũng quỳ thụp xuống.
« Ngài hiệp sĩ Age đứng lên
Ngài vác quan tài của ngài trên vai
Ngài cúi mình về phía nghĩa trang
Nỗi buồn của ngài thật mênh mang »
Bọn trẻ chắp hai tay quay vòng vừa hát xung quanh Steffen, nó cúi đầu đi qua gian phòng, từng bước chân nghiêng ngả.
Agnete đi theo nó. Giữa mớ tóc để xoã đôi mắt con bé long lanh cầu xin. Nó co các ngón tay nâng đầu cúi của tấm ván để anh nó đỡ nặng.
« Cái này làm ngán lòng cô bé Else kiêu hãnh
Nàng đi theo vị hôn phu
Qua khu rừng âm u »
Những đứa trẻ khác đi theo hai đứa, run rẩy vì thất vọng. Như những người sống đi theo những người chết.
« Khi họ ra khỏi rừng
Đến chỗ nghĩa trang
Ngài hiệp sĩ Age
Trông thấy mớ tóc vàng mất màu
"Khi từ nghĩa trang
họ vào nhà thờ
ngài hiệp sĩ Age
mất đi màu hồng của đôi má"
Hai đứa trẻ hình như tiến bước rất khó khăn đến trước một chiếc bàn viết xuất hiện trong bóng tối như một bàn thờ khổng lồ của đạo đa thần. Bà Éléonore đã nâng cánh cửa của nó, Steffen quỳ một đầu gối xuống, quay mặt về phía em gái. Đôi mắt nhắm lại, nó chỉ thở rất khẽ.
"Nghe này nàng Else bé bỏng kiêu hãnh
Người yêu của ta
Đừng bao giờ nàng khóc
Vị hôn phu của nàng nữa
"Nàng sẽ nhìn bầu trời
(Nó ngẩng cái đầu mệt mỏi của nó lên dường như nó muốn nâng cả trái đất)
Nhìn những vì sao bé nhỏ
Và nàng sẽ sung sướng nhìn thấy
Đêm đi qua"
Agnete, vẻ ngạc nhiên thong thả quay lại, miễn cưỡng đặt một cây liễu quay về mặt trời đang chiếu trong đêm sao. Giọng than thở của những đứa khác hát:
"Nàng nhìn bầu trời
nhìn những vì sao bé nhỏ
và trong đất mất đi người chết
Chẳng bao giờ nàng nhìn thấy người đó nữa"
Steffen ngà sụp một phát xuống đất nhưng nhẹ nhàng khác thường và không một tiếng động. Nó nằm đó bất động dưới tấm vải phủ trắng. Bọn trẻ hát cùng với Agnete đang đi lảo đảo vẻ như đang ngủ và bàn tay giăng ra
"Người chết nhanh quá
Trong đất
Nàng Else nhỏ bé kiêu hãnh bước đi đau buồn
Về khuê phòng trinh nữ
Nàng Else nhỏ bé kiêu hãnh
Đã khóc thật nhiều"
Ban đồng ca đi theo Agnete. Thổn thức nàng đến ngồi trên ghế của mình
"Nàng đã nguyện với Chúa
lấy lại cuộc đời
Bấy giờ nàng Els nhỏ bé kiêu hãnh
(ép vào xung quanh chiếc ghế, vừa lắc lắc bàn tay những đứa khác cùng hát)
"Đã ngả ốm
Chưa qua một tháng
Nàng đã nằm trong mộ của nàng"