Chương 3
Tác giả: Harald Kidde
Quyển sách áp sát vào kính cửa, Bénédict ngồi trên đầu gối của Eberhard đánh vần bài học. Bên ngoài một con chim sẻ vừa nhảy vừa kêu chiêm chiếp trong ống máng. Nó chẳng hề sợ Eberhard và Bénédict. Tổ của nó ở cạnh ống xả nước và nó có con nhỏ trong tổ, nó mang mồi cho chúng ăn. Đang là mùa xuân. Bénédict quay đầu nhìn những con chim con há mỏ khi mẹ chúng mang đến cho chúng những mẩu bánh mì, nhưng bàn tay Eberhard nhẹ nhàng nắm gáy đứa bé, quay đầu nó về phía cuốn sách. Eberhard có lý, còn nhiều thứ để xem trong sách hơn ở ngoài kia trong ống máng. Chúa đòi hỏi Bénédict phải biết đọc. Ôi! Chỉ giá mà những chú sẻ con cũng không giống chiếp to thế, giá mà mặt trời cũng chẳng buồn chiếu hồng thế trên mái ngói, nơi mamzelle Liebelein già đặt những chậu hoa xuân! Gịong trầm của Eberhard vang lên và Bénédict cúi đầu dưới bàn tay mạnh mẽ, phải chăng đó chính là bàn tay Chúa?
Tuy nhiên, một hôm Eberhard đưa đứa bé ra ngoài. Bầu trời xanh thẳm! Bénédict nghả mình trên cỏ, giấu mặt trong đó để hít mùi thơm của cây cỏ và của đất, nhưng ngay sau đó nó nấp mình vào áo gilê của Eberhard và van nài đưa nó về nhà, về với những cuốn sách của nó tận phố Pistolet. Đứa bé để đầu tựa vào vai người bạn đường. Nó run sợ trước khoảng xanh bao la trên đầu họ, khoảng mênh mông quái ác vừa trống rỗng vừa đầy chim và gió. Chỉ khi nghe cửa đóng đàng sau, nó mới dám ngước mắt lên. Về đến phòng, nó chạy thẳng đến quyển sách và ném một cái nhìn cám ơn lên cái trần nhà thấp. Eberhard ngồi xuống cái hòm và hai bàn tay che mắt, anh thì thầm:
- Ừ, mày có lý, Bénédict. Chúng ta không thuộc vào thế giới bên ngoài xứ sở xa lạ này!
Ban đêm, Bénédict mơ thấy nó đang ở dưới bầu trời xanh lơ và nó chạy trên cỏ cũng nhẹ như chim bay. Nó tỉnh dậy, má đẫm lệ nhưng không dám đòi Eberhard đưa nó đi ra ngoài lần nữa.
Bao giờ nó cũng gọi người bạn đường của nó là Eberhard và Eberhard cũng chỉ gọi nó là Bénédíct.Cha là Chúa, con là Jesus! Eberhard và Bénédict là những đầy tớ của cha và con. Nhân loại, đó là những đàn bà kia, ở phía dưới, họ kêu la, náo động suốt cả tuần lễ, mãi đến tận đêm khuya. Nhiều khi, Bénédict giật mình tỉnh dậy, kêu cứu, nhưng nó luôn luôn được yên lòng dưới bàn tay Eberhard đặt nhẹ nhàng lặng lẽ lên trán nó. Ngày chủ nhật khi Eberhard đến với quyển thánh ca và Kinh Thánh, tất cả các cô gái ngồi lại xung quanh anh, úp đầu vào hai bàn tay, Eberhard và Bénédict ngồi trên cao, đầu cái bàn dài, cạnh chiếc đèn dầu. Eberhard cầm cuốn sách mở và nói tiếng Đan Mạch, tiếng nói mà Bénédict không hiểu, nhưng khi Eberhard hát, đó là tiếng Đức và những người tham dự khóc hơn bao giờ hết, vì đó là lời của Chúa.
Sau buổi lễ người đàn ông và đứa trẻ lại leo lên chiếc cầu thang dựng đứng của gác xép ở tận trên cao, gần những ngôi sao, để khỏi mất thời gian trước khi các cổ gái lại nô đùa ầm ĩ. Trên gác xép thật yên tĩnh. Những con cihim sẻ không kêu chiêm chiếp trong ống máng nữa, vì mùa đông đã tới, nhưng nhần là tối chủ nhật, Eberhard bắt đầu kể chuyện sau bữa ăn tối đạm bạc. Chú bé quỳ trên chiếc ghế bên cạnh, không rời mắt nhìn người bạn và chăm chú lắng tai nghe, ánh sáng hai cây nến thắp lên để chào mừng buổi tối chủ nhật soi hình trong kính bóng tối những bức tường bao phủ hai người cô đơn như bóng của một đôi cánh đen. Đôi lúc một ngôi sao sáng chói đến tận họ.
Những tiếng kêu la từ những gian phía dưới đưa lên, nhưng họ không chú ý. Họ ở xa, trong ngôi nhà của Khu Rừng Đen, hay Silvae nigrae, như Eberhard nói bằng giọng long trọng của anh. Bénédict nhìn thấy những khu rừng tùng bao la, nơi khói bốc lên từ những đống than đốt. Nó đi như Eberhard đã đi hồi còn là một chú chăn cừu bé nhỏ, ngập mình trong cỏ thạch thảo cao đến cổ, chiếc mũ nhọn chỉ cao hơn một tí. Anh đi hết giờ này đến giờ kia, trên những cao nguyên rất cao theo các đàn cừu. Trong nhiều dặm người ta không thấy lấy một bóng người. Chỉ là rừng âm u và cột khói. Gió rít, đơn điệu. Đôi khi Bénédict đi đến một trong những con đường trên đỉnh cao nguyên từ Bade đến Pforzheim hoặc đến một trong các thành phố khác, của Khu Rừng Đen mà những người bán hàng rong thường nói đến. Những cột mốc bé bằng đá giữa các thạch thảo và bách xù chỉ hướng đi. Đứa bé ngồi tận trên cao lắng nghe mãi mới nghe được tiếng lục lạc của những con bò, hoặc trèo lên một mỏm đá dựng đứng như một chiếc sừng trên đám thạch thảo và bám riết vào đỉnh, nó nhìn vào tận đáy khu rừng âm u thấy một phay xanh lục: thung lũng Gutach. Có lẽ người ta còn nhìn thấy cả chiếc kim ở cái tháp đồng hồ trắng của Niederwasser.
Ngày chủ nhật tín đồ đến nhà thờ đi theo các thung lũng nhỏ giữa những vách tường thành cây tùng thâm u dọc theo các dòng suối chảy xiết. Họ đi qua dưới những cây anh đào trổ hoa và gần cái xưởng cưa đang nghỉ việc rồi vào thung lũng chính màu lục bảo với những ngôi nhà lợp rạ trải qua thời gian đã ngả màu nâu. Tất cả những người đó đến trong trang phục dân tộc, phụ nữ mặc sơ mi có ống tay trắng, đội mũ phớt lơn' màu đen có trang trí bằng những túp len đỏ hay trắng. Váy của họ ngắn và xếp nếp trên đôi tất trắng và giày có vòng bạc. Đàn ông mặc quần áo ngày hội, mũ to vành, áo vét nhỏ bằng nhung, áo gilê chéo có vòng bạc. Cao, to, gầy, nghiêm nghị, họ cầm những cây gậy cao, đi đến nhà thờ, bước chân lặng lẽ, vững chắc. thỉnh thoảng chạy qua một chiếc xe có ghế dài bằng song mây chở từ mười lăm đến hai mươi người, được kéo bởi những con ngựa nặng nề với yên cương bọc kim loại. Mặt trời chiếu rọi trên những cánh rừng tối và các chuông réo gọi tín đồ.
Eberhard ngừng nói và nhìn phía trước bằng cặp mắt buồn bã, trong lúc đó Bénédict, áp má vào cánh tay anh, ngắm nhìn người bạn đường. Xanh xao, hơi thở ngắt quãng, nó cảm thấy choáng váng như ngày nào nó đi ra ngoài trời cùng với Eberhard. Một lúc sau, Eberhard hướng về nó một cái nhìn đẫm lệ, vuốt má nó và đi tìm trên giá những quyển sách nhỏ mà anh đọc cho chú bé nghe: những Truyện của Hauff, cuốn Rheinlandische Hausfreund của Hebel và những quyển khác. Cả đêm Bénédict mơ thấy những cây anh đào trổ hoa giống như một con đường sáng lóa dẫn tới Chúa qua vô số cánh rừng tối đen. Nó mơ đến tiếng rì rào của những cây tùng không bao giờ ngừng, không bao giờ biến mất, không bao giờ hoàn toàn tiếp cận được như Chúa. Nó mơ thấy những cuộc chạy cô đơn trên các đỉnh cát mọc đầy thạch thảo, nó mơ thấy các chuyến tuột xuống các lối mòn dốc đứng tới đêm tối của cây cối mà ngay ở tận cùng đêm tôi đó là chính trái tim của xứ sở rừng cây này: cây thánh giá đẫm máu.
Bénédict tỉnh dậy như ngây ngất trong gian nhà tối tăm, lạnh giá và nhìn về phía ngọn nến chập chờn thấy Eberhard đang tìm quần áo, chuẩn bị bữa ăn và quỳ xuống đất cầu Chúa cho anh đủ sức sống qua ngày mới này, để trụ vững trong nhà này cho đến khi anh đã dẫn đến với Jesus từng người trong số phụ nữ kia cũng như anh đã dẫn Christine đến với Người. Sau đó Eberhard lảo đảo bước xuống chiếc cầu thang dốc đứng và tối tăm. Anh qua trước cửa của các phòng, từ bên trong phát ra những tiếng thì thầm, những tiếng cười, và đi làm cho một lái buôn Đức. Chú bé ngủ lại cho đến khi bà già Gundlachsen hen suyễn song tốt bụng đến thức nó dậy, đốt lửa cho nó trong một cái lò ba chân, làm thoáng căn phòng và gấp gọn chăn màn. Eberhard đã dọn giường mình và chuẩn bị bếp lửa trước khi ra đi. Lúc đầu Bénédict không thể chuyện trò với bà Gundlachsen vì bà ăn nói sống sượng và chú bé không hiểu gì cả. Eberhard muốn giữ cho tai của nó khỏi phải nghe người ta nói trong nhà này. Nhưng bà già và chú bé nhìn những ngọn lửa tóe ra từ củi gỗ hoặc chơi đuổi bắt nhau. Họ nhìn những hình do cát tạo ra trên sàn nhà, những hình nghiêng mà sữa tạo ra trong đĩa xúp, thiên nga, xe ngựa và cây.
Bà Gundlachsen nói về tất cả những gì bà trông thấy và làm ngày xưa với chồng bà, khi họ còn trẻ, trước khi họ suy mòn vì lao động. Lúc bấy giờ quý ông chủ ngôi nhà nhỏ của họ ở nhà quê đã xếp họ ở đây để cai quản công việc này, nhưng ông Gundlachsen bị bệnh tràn dịch màng ngoài tim không cử động được và đành ngồi một chỗ trên chiếc ghế rơm làm kế toán.
Đôi khi các cô gái trắng trẻo leo lên chỗ Bénédict, ngồi xuống sàn cạnh nó và chơi với nó bằng những mảnh chai và nút chai. Họ kể rằng đó là những con bò, con dê, những chiếc tàu, tất cả những gì họ nhớ lại từ hồi còn trẻ con ở ngoài đồng và trên bờ biển. Nhưng giữa lúc đang chơi vui, cười đùa thì người ta gọi họ xuống nhà. Bộ mặt họ thay đổi trở nên giống như mặt của những người tử vì đạo trong các cuốn sách của Eberhard. Các cô rút xuống lạnh lùng và im lìm như đi từ cõi sống đến cõi chết. Bénédict buồn rầu nhìn theo họ. không bao giờ họ sờ đến nó, ngay cả trong lúc chơi. Trong những khi nô đùa vui nhất họ cũng không ngớt ngắm nhìn nó với vẻ tĩnh tâm như trong ngày chủ nhật họ ngước mắt lên nhìn nó từ trên hai bàn tay chấp lại giống như, ừ, giống như những chú chăn cừu của bức tranh nhìn lên hài đồng Jesus. Các cô chỉ dám nói chuyện với nó bằng dấu hiệu, nhưng nó vẫn dần dần học được tiếng nói của họ và Eberhanrd cũng không phản đối chuyện đó. Trên đó, họ chỉ là những đứa trẻ vui vẻ và ngôn ngữ của họ như tiếng chim hót trườn vào môi của Bénédict khá dễ dàng, dễ dàng hơn ngôn ngữ của Eberhard lủng ca lủng củng, chối cả tai. Bénédict làm việc tiếp. Nó cần mẫn tìm hiểu tất cả các chương trình giáo lý công giáo của Heildeberg, học thuộc lòng các thánh ca, các tên địa lý và làm cả các phép toán cho mãi đến khi nó nghe thấy tiếng chân bước nặng nề của Eberhard ở cầu thang, và nửa mừng nửa lo, nó chạy ra mở cửa.
Buổi chiều Eberhard bận dịch các thư tín thương mại dài dằng dặc, nó ngồi bên cạnh đọc cuốn Người xám của Stilling và những quyển sách nhỏ khác đóng bìa đen, hoặc mắt hướng về các đám mây và các ống khói, nó nghĩ đến các vì sao mờ nhạt hiện ra trên bầu trời! Những tiếng nói nghiêm khắc của Eberhard nhắc nhở nó còn nhiều việc khác phải làm và nó lại phải cầm lên những quyển sách. Nó đọc cả Kinh Thánh ở ngọn lửa yếu ớt của cây nến và suy nghĩ về ý nghĩa của các bài ngụ ngôn:
"Thật là tốt khi trái tim được thấm nhuần ơn Chúa" (Tiếng Do Thái, 13.9), "hãy vững lòng tin, hãy là những người đàn ông mạnh dạn lên" (I, tiếng Do Thái Coranh, 16,13), "Hãy cảm nhận, hãy nhìn xem Vĩnh Hằng là tốt" (Thánh Vịnh 34, 9), "Christ là đời sống của tôi và cái chết với tôi là một điều được" (Philippien, I,21).
Nhìn ở đâu nó cũng trông thấy thánh giá. Nó trông thấy thánh giá trong các giấc mơ. Ô! Khu Rừng Đen! Đứa trẻ liếc sang khuôn mặt nghiêm khắc, không râu, nhăn nheo của Eberhard và rùng m`inh. Sự dịu dàng, lòng nhân ái chỉ có trong ngày chủ nhật, chỉ có trong các cuộc dạo chơi qua Khu Rừng Đen, nhưng ở cuối khu rừng tối tăm cũng lại có cả thánh giá. Thánh gía. Bénédict giấu đầu trong hai bàn tay. Nó sợ và khóc rất khẽ cho đến khi Eberhard nâng mặt nó lên, rồi bốn mắt nhìn nhau, anh nói với nó:
- Khóc đi, chú bé, khóc đi, những gì Chúa đã làm cho chúng ta đáng để khóc lắm. Hãy nhớ rằng mỗi giọt nước mắt là một thứ thuốc thơm xoa dịu vết thương và mỗi tiếng cười là một mũi tên bắn vào trái tim con người. Người nào khóc là sung sướng hơn người cười. Bất hạnh thay cho người cười, nó chắc chắn đi đến địa ngục.
Eberhard quỳ xuống ôm Bénédict vào hai cánh tay cầu xin Chúa rất to để Người ban cho họ Thánh giá, cho anh và cho đứa bé, rồi anh thổi tắt ngọn nến và cả hai cởi quần áo trong bóng tối, lặng lẽ leo lên giường.
Eberhard luôn luôn cầu nguyện cho đứa bé mà khuôn mặt chói sáng trong nhà chứa mại dâm như khuôn mặt của một thiên thần và hướng dẫn những bước đi chuệch choạng của các cô gái lầm lạc đến với ngai của Chúa Jesus. Vì nó, Chúa trời sẽ tha thứ cho Sodome và Gomorrhe. Anh cầu Chúa xin thực hiện ý nguyện của mình qua đứa bé, người được anh lựa chọn.
- Xin Đức Chúa Trời ban ơn nhìn xuống con cừu non này. Người sẽ được hài lòng. Người hãy làm nhục trái tim nó, hãy gập đầu nó xuống, hãy bẻ xương nó, hãy lập cho nó một chiếc ngai đẫm máu, lạy Đức Chúa Trời, con sẽ không buông. Người ra chừng nào Người chưa hứa sè làm co nó thành kẻ chứng kiến thực tế của Người. Á thánh của Người. Thưa Đức Chúa Trời, không phải là con, con có là gì đâu, mà chính là nó đã được Người chỉ định từ khi sinh ra, nó đã được Người cho sinh ra trong nhà này, trong thế giới bằng thịt này để rồi một ngày kia nó sẽ phá bỏ mái nhà và đưa đàn cừu bị thương đến tận chân Người bịđóng đinh.
Bénédict lắng nghe, run lên, mắt nhìn chằm chằm vào bóng vạch chéo mà ánh trăng chiếu cây thánh giá vào trong phòng.
Một hôm, một mục sư xuất hiện trên chót cầu thang. Một người quyền thế có bộ mặt độc đoán mặc áo có cổ cồn nhọn. Ông đeo cà vạt đen, tay áo măng sét gập, cầm chiếc gậy có đầu vàng. Eberhard vừa trông thấy ông ta, anh đã đứng lên, dựa nắm tay lên bàn. Bénédict sợ hãi nhìn anh. không khí trong căn phòng thấp trở nên nặng nề và chứa đầy doạ nạt. Hai người xung đột gay gắt khiến chú bé để rơi cuốn sách và co rúm người lại trong góc của nó, run rẩy, miệng há ra.
Ông mục sư tên là Gotthardsen, nói tiếng Đức, nhưng rất khó khăn, dùng những lời ngạo mạn, mắng mỏ. Eberhard đã ở trong nhà này, đã làm lễ tại đây cho bọn gái mãi dâm, lại cả gan dám tổ chức nghiên cứu Kinh Thánh và các buổi họp sáng cho đám bình dân xung quanh, toàn là bọn cư dân của những ngõ cụt đê tiện này.
- Anh có biết là – ông mục sư thét, mặt đỏ gay dưới bộ râu xanh – những cuộc tụ họp như vậy đều bị cấm theo sắc lệnh về các cuộc mưu phản ngày 13 tháng giêng năm 1741? Người ta chỉ được tụ họp nhóm nhỏ và bao giờ cũng phải có mặt mục sư của giáo xứ. Tôi là mục sư giáo xứ của anh, đã bao giờ anh xin phép tôi chưa? Chưa. Cả đến việc anh bước vào nhà của Chúa cũng không xin phép. Nhưng hãy nghe đây. Người tiền nhiệm của tôi, ngài mục sư Stenerson, trong lúc già yếu, đã hành động khoan dung. Còn bây giờ là tôi, và tôi biết anh và những người khác thuộc phái theo thuyết kiên tín của Herrenhut, của Marienborn, của Halle, các anh là những kẻ dèm pha cứng đầu đối với quyền lực chính trị và giáo hội, các anh là "ecclesiola extra ecclesiam et societatem" mà các anh khoác lác là các anh chế giễu Chúa và mọi người. Tôi sẽ đập tan các anh, các anh và tinh thần chống đối của các anh. Các anh đánh giá nhóm các anh là "Cruciata" và các anh bảo rằng chính các anh là quần chúng thực hiện sự tuẫn đạo của Jesus. Nào, các anh hãy đi mà chịu tử vì đạo ở Cột Thánh Giá. Chúa đã lập nên Giáo hội trên đất nước này rồi và mọi thứ "ecclesiola in ecclesia" đối với Người đều là sự ghê tởm. Chỉ một người là vua mà thôi! bây giờ anh đã biết, tôi đã cảnh cáo anh rồi đấy. Khốn cho anh nếu tôi bắt được anh đang làm sai lệnh tôi. Còn đối với đứa bé kia (đã nửa người quay ra cửa ông còn giơ cây gậy có đầu quả táo chỉ vào Bénédict đang hoảng sợ) anh không xấu hổ để cho sinh linh ngây thơ này sống dưới mái nhà này với bọn gái điếm và bọn truỵ lạc, để cho nó thở cái không khí sặc mùi này, để cho nó tham gia vào…
Nhưng giữa lúc đó, Eberhard đẩy lùi cái bàn và tiến thẳng đến ông mục sư, dận mạnh bước chân. Anh đến sát khiến ông kia lùi lại, mặt tái đi dưới chòm râu.
- Cút đi! – Eberhard thét, vừa giơ bàn tay nặng nề với cử chỉ doạ nạt – Ra khỏi nhà này, nhà thờ Chúa Trời, đầy tớ của Baal và của Belial! Khốn thay cho ông, đầy tớ rởm và phản đạo của Giáo hội. Sự trừng phạt đối với ông sẽ lớn đấy. Tôi biết ông, ông không phải là kẻ tôi tớ đã đánh Đức Chúa Trời, cũng không phải là người giả đạo đức phán xét Người, ông là Judas, là Iscariote đã bán rẻ Người lấy ba mươi đồng tiền. Khốn khổ cho ông là ông ôm lấy người mà ông phản bội. Sự trừng trị đối với ông sẽ lớn đấy. Chú bé này, ông bảo sao? Hãy cúi mắt xuống trước cái nhìn của nó. Ông nói đến các cô gái phạm tội trong nhà này, nhưng ông đã đến quá muộn rồi. Chỉ còn có bảy người. Những người khác, tất cả những người khác đã được chú bé kia dẫn đến chân Chúa. Ông nghe không? Nhờ có chú bé kia ngôi nhà này và người ở trong nhà sẽ được vinh dự trong ngày phán xử, trong khi đó thì ông ở bên tay phải của Chúa Trời, ông sẽ bị tụt xuống cái đêm nước mắt vĩnh viễn và cái đêm nghiến răng kèn kẹt. Mỗi một phụ nữ đó sẽ chói sáng như một mặt trời trước Chúa trong khi cái xác thối rữa bên trong của ông sẽ phơi bày ra giữa ban ngày và ông sẽ sặc mùi hôi thối như một đống phân. Ông ra khỏi đây, giờ của ông đã đến gần hơn là ông tưởng.
Một tuần lễ chưa trôi qua thì đã có lệnh cho Eberhard phải rời khỏi ngôi nhà ở phố Pistolet. Mục sư đã báo động cho giáo xứ về vấn đề các cuộc họp cầu kinh diễn ra trong nhà chứa, và về đứa bé cư ngụ trong gác xép của kẻ phân lập ngoại quốc.
Ngày ra đi, Eberhard, mặt mày rạng rỡ, bước vào chỗ Bénédict. Chú bé đỏ gay và sợ hãi nhìn mấy chiếc đồ gỗ xếp đống lại, cái tráp đi đường, cái hòm, cái túi và những quyển sách. Tất cả như đảo lộn, dọn nhà khỏi mảnh đất mà nó biết và ở đấy nó có thể sống! Eberhard cầm tay nó:
- Lại đây – anh nói – lại đây, Chúa Trời ở cạnh chúng ta. Thời gian bị cầm tù của chúng ta đã qua. Bà Gundlachsen ở lại một mi1nh với chúng ta và Chúa. Chúa Trời đã phóng thích tất cả những người khác, cho họ một cuộc sống mới hoặc đã gọi họ về với Người. Bảy cô gái đã đi khỏi đây từ một tuần lễ, từng người một, và trong mười ba năm tôi ở trong nhà này, bốn mươi ba phụ nữ đã đi khỏi đây, trong số đó chỉ có sáu người rơi lại vào tội lỗi và đã thất bại trong các nơi khác tệ hơn ở đây. Bảy người trong một tuần! Chúa thật vĩ đại. Tời hạn của chúng ta hết rồi. Chúa Trời ban cho chúng ta tự do. Chúng ta sắp đưa về với Người bà chị cuối cùng của chúng ta và nhà này sẽ giải tán.
Bénédict rùng mình. Nó biết những cái giường người sắp chết mà trước giường nó phải quỳ hàng giờ, trong khi Eberhard hát và đọc Kinh Thánh không mệt, giọng anh to và mạnh át cả hơi thở yếu ớt của người hấp hối. Bénédict vỡ cả đầu gối vì gập lại quá lâu. Ừ, nó biết những khuôn mặt kinh khủng đó, co quắp và xanh tái vì hấp hối, và đây đến lượt bà Gundlachsen. Bà đã trông nom nó như là một người mẹ và đã dạy nó biết cười, biết chơi. Bà Gundlachsen sắp chết, và họ sẽ rời khỏi nhà này.
Eberhard đưa nó xuống dưới cầu thang, các bậc rên lên thật to. Ngôi nhà trước kia đông đúc và ồn ào thế, nay trống vắng và im lìm. Người chủ, một tư sản nông thôn và là cố vấn Nhà nước đã bán đấu giá nó để phá đi. Các cửa được đóng, khoá lại. Bénédict và Eberhard ở lại một mình với bà Gundlachsen. Chồng bà đã chết vì bệnh phù thũng hồi mùa thu. Trong lúc Bénédict quỳ, tay chân run cầm cập thì Eberhard, với bàn tay mạnh mẽ đỡ bà chủ nhà chứa già nua, người đàn bà suy sụp nhưng không ác độc, trên chiếc thang cao chót vót lấp lánh bắc lên người Bạn của mọi kẻ phạm tội. Eberhard cầu nguyện "Bà đã trung thành với công việc của bà nhưng bà không phải chịu trách nhiệm về nó. Lỗi thuộc về kẻ đã giao việc cho bà, người đã tìm bà từ những trang trại trồng trọt, nơi mà bà không còn có thể tích cóp đủ tiền cho hắn đem đi mua chuộc ân huệ của Nhà nước và của nhiều người. Kẻ đã xếp bà ở đây là hình ảnh trung thực của thế giới hắn đã ở, hắn là người được, và bà là người thua. Bà ân cần và nhanh nhẹn, đáng thương và dịu dàng, bà đã là một người mẹ đối với đứa bé, đối với các chị khốn khổ của nó. Xin Chúa Trời nhận bà vào tổ quốc Thiên đường!"
- Và bây giờ, Bénédict – anh nói khi đứng lên, mặt sáng ra như anh không cảm thấy tí mệt mỏi nào – Chúa đã giải thoát chúng ta. Ngày mai chúng ta sẽ trở về ngôi nhà nhỏ ở Gutach gần Niederwasser, ngôi nhà đang đợi chúng ta. Kiếp tôi đòi của chúng ta đã hết, người ta cho chúng ta về nhà chúng ta. Ôi, Bénédict, mày không biết ý nghĩa của mấy tiếng: ở nhà chúng ta!
Hai bàn tay đang chắp lại của cụ Bek mở ra và cụ quay mặt sang phía Erik và Ellen với một nụ cười gượng gạo. Mồ hôi lốm đốm trên trán. Cụ run run giơ bàn tay lau.
Các bạn ơi, tha lỗi cho tôi vì không thể tiếp tục chuyện kể của tôi hôm nay. Không, không phải lỗi tại tình trạng thể lực của tôi mà vì cơn bão và những biến cố mà tôi vừa kể. Tha lỗi cho tôi nếu tôi nói về những điều ít bình thường, những điều mà theo ý kiến nhiều người thì không nên nói ra. Đứa bé ở trong nhà đó là tôi và Eberhard là bố nuôi của tôi. Cuộc đời tôi đã bắt đầu ở phố Pistolet. Từ ngôi nhà nhỏ trong Khu Rừng Đen và sự nghèo nàn của cuộc đời tôi. Nhưng tôi thấy ông bà mỉm cười với tôi và tôi sẽ dám tiếp tục kể đoạn đời tiếp theo. Đừng chảy nước mắt, bà Ellen, đừng khóc cho chúng ta, hãy nhìn sợi vàng những ngày của tôi chói sánng phía trên những sợi đen