Phần III - Chương 1
Tác giả: Harald Kidde
Erik Lange dừng lại ở chỗ ngoặt của cồn cát. Biển xanh biếc. Suốt cả đêm anh đã trông người đàn bà câm, mãi đến sáng, chị ấy mới đẻ được. Rồi một giờ sau khi tất cả xong xuôi chị đã chết vì chảy máu quá nhiều. Loá mắt sau khi ngồi quá lâu trong bóng tối, choáng váng vì thở phải mùi máu và các thứ bẩn thỉu, kiệt quệ, mướt mồ hôi và thất vọng, anh bước ra khỏi cửa lảo đảo trong lúc rạng đông của một ngày tháng mười một này.
Anh đi theo con đê bằng đá và nhìn những tia mặt trời mọc đầu tiên nhuộm đỏ ngoài kia hoang mạc và cây đèn pha, cỏ đọng sương của đồi. Bỗng nhiên, biển mở ra trước mặt anh với những làn sóng thanh thiên diềm bọt trắng dưới bầu trời sáng chói. Gió nhẹ vờn trên râu Erik và tiếng rì rào vang lên trong những cây tùng trên đỉnh đồi. Dù sao Erik còn cảm thấy cái cảm giác hạnh phúc không xứng đáng và kinh ngạc như khi anh cảm thấy trong bóng tối, trong mùi hôi thối và những tiếng kêu, anh đã lôi đứa bé ra đời với ngày mới đang ló nhoà sau kính cửa. Từ đâu đến cuộc đời mới này, cái buổi sáng mới này trên đảo? bây giờ Erik biết. Nó đến từ đêm dài và từ người mẹ đã chết. Erik nằm trườn trong cỏ khô dưới gốc một cây tùng và cái nhìn của anh đặt xuống những cồn cát màu xám cắt ngang bởi những bụi cây guốc bê. Con đường dốc đứng và lởm chởm đá cuội đi xuống sau lưng người thầy thuốc, biến mất để rồi lại hiện ra ở dưới thấp hơn, gần những kho hàng ở trước cảng và biển. tất cả đã hoạt động ở dưới ấy trong ánh sáng nhợt nhạt ban mai. Đúng là tàu bưu điện đã đến. Ông bưu tá và người của ông khuân các thùng, hòm lên xe tải. Người lái buôn và các nhân viên đẩy những toa xe chất đầy những thùng dầu hoả nặng. Chiếc mũ bé nhỏ của anh thuỷ thủ căng phồng trước gió nhẹ buổi sáng. Trên boong những tàu khác các thuyền viên trong trang phục đánh cá, đi đi lại lại. Màu xanh sâu thẳm của biển dựng thẳng lên, sùi bọt đập vào các đê chắn sóng.
Erik đã sợ bị buộc phải hy sinh đứa bé rất nhiều lần, trong cả đêm anh đã cầm lên chiếc cặp thai, nhưng anh gặp cái nhìn không đổi của người mẹ. Mặc dù kêu khóc, chị ấy vừa lắc đầu vừa nghiến răng. Anh đã do dự và chờ đợi. rồi lẽ ra anh đã cứu sống cả hai mẹ con nếu không đột ngột xảy ra chảy máu.
Anh thở rất lâu. Một con người đã chết trong tay anh, một sinh mạng khác ra đời. Người mẹ dũng cảm đã trút xuống anh cái gánh nặng của cái chết và sự sống của đứa bé. Anh đã vâng lời cầu nguyện của đôi mắt mạnh hơn bất kỳ lời cầu nguyện nào của đôi môi bởi vì anh đã thành thấy tin rằng có thể làm được. Anh đâu có làm chủ được sự chảy máu. Nhưng còn đứa bé! Người cha là anh chàng say rượu duy nhất trên đảo. Căn nhà thôi thì bừa bãi lộn xộn vì người mẹ nằm liệt giường trong bao ngày! Anh đã chọn theo Lời cầu xin của người chết và theo lương tâm anh. Hậu quả của sự lựa chọn này sẽ là thế nào? Giá dụ đứa bé cũng câm như mẹ nó? Ồ, cái ý nghĩ kỳ quặc! Đêm qua đã làm anh kiệt sức. Anh chẳng có lý do để tưởng tượng ra những chuyện như thế. Không thể có ý nghĩ đó trong một buổi sáng tươi vui như thế này.
Erik hít vào thật sâu như trước đây anh đã hít thở lần đầu tiên, rồi anh ngước mắt về phía nhà anh mái ngói đỏ đang rực lên dưới bầu trời xanh. Những cửa kính lấp lánh chiếu trên các cồn cát.
Bỗng nhiên anh thấy hình như không khí trên ấy tắm đầy bụi bặm của những quyển sách cũ rích, tắm đầy a xít của những dụng cụ hoá học, vật lý. Lần đầu tiên anh có cảm tưởng rằng tầm nhìn của anh đã nghèo nàn đi, gần như tàn tật. Những suy nghĩ của Ellen đã có thể lang thang ở đâu trong mùa đông suốt những giờ dài dằng dặc các buổi tối khi anh cúi đầu xuống bản dự án hoặc ngồi ở cửa sổ trước khoảng rộng xám xịt của biển, cái khoảng không đã tràn đầy mắt anh và trí anh. Cô đã mạnh dạn giúp anh trong việc đỡ đẻ ở căn nhà kinh khủng đó cho đến khi đứa bé lọt lòng. Sau đó những ngư dân mới đưa cô về nhà. Ôi! Đôi mắt của cô đã không rời đứa bé! Và giờ, sau một đêm bất bình thường như thế, thì chắc cô đang ngủ và không ngờ rằng cuối cùng anh đã thất bại.
Anh đứng dậy để leo lên lối đi về nhà. Anh trông thấy một ông xách chiếc vali đi trên con đường ở cảng. Một ông! Với cử chỉ và dáng đi ấy, là ai vậy? Người ngoài không đến đảo này, hoạ hoằn chỉ một lần trong mùa hè, nhưng trong mùa này của năm? Người đặc trách ở cồn cát? Không phải, anh biết ông ấy. À, mục sư, mục sư mới. Người bộ hành khuất đi sau những cồn cát trọc và Erik tiếp tục đi theo lối mòn.
Anh chẳng có chút thiện cảm nào đối với các mục sư. Chẳng phải ông trước đã tìm đủ mọi cách để chuồn khỏi đây và tìm công việc chắc chắn trên đất liền đó ư? Còn những người khác, chín ông đã ở trên đảo trong thời của Bek…Vả lại, không kể chuyện đó, thì làm sao mà một người có lương tri và chủ tâm ngay thẳng lại có thể là mục sư của một Gia Tô giáo được phép của Nhà nước và phục tùng Nhà nước? Thế mà ông mục sư này đã xin việc ở đảo và đã đến kia bởi vì ông ấy tự do và bị đồng nghiệp khinh rẻ? Con người giàu có ấy thuộc một dòng họ cũ đã rời bỏ hoạt động của mình để đến đây.
Erik nhớ đến buổi sáng mà họ đến đây bằng tàu Anne- Henriette sau một đêm dài trên biển, được một làn gió nhẹ đẩy đi, họ trông thấy thưa thớt mấy nếp nhà trên những hàng đá đồ sộ của các vách đá dựng đứng, những cột buồm của cảng, những đê chắn sóng, nơi những ngọn sóng và bão cát đập vào. Nhưng, họ thì hai người. Đàng này ông ta đi một mình.
Trong lúc đó, người lạ lai xuất hiện. Đầu cúi xuống, vali vác trên vai, ông leo lên rất vất vả. Erik còn ngần ngại, nhưng người mới đến đã ngẩng đầu đột ngột và nhìn anh. Lange bỏ mũ. Hai người chào nhau.
- Tôi nghĩ rằng ông là mục sư mới của đảo – Erik nói, vừa đi đến người kia – tôi là thầy thuốc.
- Vâng, tôi là mục sư Honorius – người lạ trả lời vừa bắt tay Erik giơ ra rất khẽ và dịu dàng.
- Tôi chắc ông đã có một chuyến đi biển rất tốt – Erik nhìn biển xanh đang lặng lẽ gợn sóng – Nhưng có lẽ ông chưa quen đi biển nên chuyến đi vẫn còn làm cho ông bị mệt phải không?
- Vâng, tôi không quen đi xa. Hầu như luôn luôn ở trong phòng để học tập – Ông mục sư nói, vừa bỏ mũ phớt và vuốt tay lên mái tóc vàng hoe – Nhưng đêm qua thì tôi chỉ nghĩ đến hòn đảo này mà tôi sắp đặt chân lên, cuộc sống mới mà tôi sắp bắt đầu. Từ bốn giờ sáng tôi đã leo lên boong để xem có nhìn thấy đất không. Không có gió nhưng chúng tôi đã đi ngược sóng chỉ cốt cho đến nơi. Chỉ mới bảy giờ kém. Ông luôn dậy sớm thế à bác sĩ?
- Tôi đã thực hiện một cuộc đỡ đẻ, - Erik nói – Ông đã không ngủ cả đêm, chắc là ông mệt lắm đấy.
- Tôi không chối điều đó, sức khoẻ tôi kém lắm – Mục sư đáp như thể xin lỗi – Tôi nghe nói rằng ở chỗ người lái buôn chỉ có chỗ trú cho thuỷ thủ. Tôi phải vào làng và đến quán trọ.
Erik nhìn ông một lát. Cao to, lưng còng, ông có bộ ngực lép và đôi vai trễ. Má ông nhợt nhạt và chấm đỏ. Ông có cái nhìn ướt át sau cặp kính và cái miệng giống như của phụ nữ.
- Hừ, ông Honorius ạ, còn đến một phần tư dặm nữa mới tới làng, lại phải đi qua những dốc dựng đứng đầy cát. Nếu ông không chê xin ông đi theo về nhà tôi ở trên cồn kia kìa, để nghỉ ngơi đã, sau đó chúng ta sẽ cùng đi vào làng. Dù sao đi nữa, tôi cũng phải đi xem đứa bé.
- Mẹ nó chết rồi à? – Honorius hỏi.
- Vâng, nhưng sao ông đóan biết?
Honorius không trả lời. Hình như ông đang đeo đuổi ý nghĩ riêng. Erik hỏi lại:
- Ông có đi không?
- Có chứ, và thành thật cám ơn.
Với bàn tay dài ông ấn sâu cái mũ xuống.
- Nhưng đến sớm thế này, chẳng giữ kẽ gì cả, có làm phiền ông quá nhiều?
- Không đâu, tôi thì đã dậy rồi như ông đã thấy, còn vợ tôi chắc là còn ngủ. phải nói với ông là cô ấy đã giúp tôi tối hôm qua.
Họ cùng đi theo lối mòn đến tận nhà Erik. Anh tự hào về Ellen? Anh muốn khoe vợ mình trước con người độc thân này ư? Đến trước ngôi nhà gạch nhỏ có những cửa sổ lấp lánh được trang trí bằng những chậu hoa, họ nhìn ra biển từ một cái nền đắp phủ đá cuội phía trên những bậc thang gỗ. Những con người cựa quậy ở cảng. Nơi khác người ta không thấy dấu hiệu nào của sự sống. Chim và người đều bé tí trên bầu trời và trên bờ biển!
- Đây là đảo – Mục sư nói, vừa cúi người ra phía trước. Ông đã đặt vali xuống sỏi – Chuyến đi mất sáu giờ.
- Chuyến đi có thể lâu hơn, cũng có thể nhanh hơn. Tàu Anne-Henriette phải mất mười, mười hai tiếng mới đến nơi khi bị ngược gió. Nhưng đó là hồi xưa khi chưa phát minh ra động cơ. Người ta đi khi trời sương mù, lặng gió thì mất bảy mươi lăm giờ, còn lâu hơn nữa khi tàu xuất phát từ Copenhague hoặc Cilleleje. Nhưng bấy giờ chỉ hoạ hoằn đến đây một năm vài lần thôi.
Honorius lắng nghe:
- Thế mà hồi đó cũng có những mục sư.
- Thật ra thì có đấy, trước khi có thầy thuốc – Lange nhượng bộ vừa ném một cái nhìn sắc vào người bạn – Ông có tin rằng ông có thể yên tâm ở trên đảo không? – anh hỏi, vừa mở cửa hành lang.
- Dù thế nào thì tôi cũng thấy ở đây là tốt – Honorius trả lời bằng giọng trầm buồn vừa nhìn xung quanh bằng đôi mắt cận thị.
- Chỉ có ở đây? – Lange nói với vẻ chất vấn.
- Vâng, làm mục sư.
Lange cúi đầu:
- Tôi hiểu ông, tôi cũng thấy tốt hơn ở nơi khác…
Vào đến phòng khách, anh ngạc nhiên thấy Ellen ngồi ở cửa sổ, hai bàn tay để trên đầu gối, mắt nhìn ra biển. Cô vẫn mặc nguyên chiếc áo màu xanh nước biển với cái cổ cồn trắng như chiều hôm qua. Mớ tóc dày của cô lượn sóng xung quanh trán.
- Ellen, cô bé của tôi, em không ngủ à?
Cô vội ngước mắt lên và đưa bàn tay qua lông mày, mỉm cười như vừa trải qua một giấc mơ đẹp.
- Ồ, Erik, em nghĩ, em không thôi nghĩ về đứa bé mà chúng ta, mà anh…
Nhưng khi nhìn thấy có mặt người lạ, cô đỏ mặt như vừa nói ra một bí mật mà cô lấy làm xấu hổ. Cô sửa lại nếp áo, vội vàng đứng lên. Erik giới thiệu:
- Đây là vợ tôi, và đây là ông mục sư mới Honorius – Ellen chìa tay.
- Xin chào ông.
Erik nhìn cô. Cô đứng đấy, trước cửa sổ, cao lớn mạnh mẽ, trong chiếc áo màu xanh như đang lẫn vào cảnh hoa và biển xanh mà anh thấy hình như đó là biểu hiện sinh động của buổi sáng tươi mát này. Cô đã trải qua nhiều giờ cười với nụ cười đẹp đẽ đầy lòng tin biết ơn mà anh đã từng làm mờ tối. Ông mục sư cúi mình.
- Từ những cửa sổ của tôi nhìn ra có thấy được quang cảnh như thế này không?
- Không, phong cảnh cũng sẽ bao la, nhưng luôn luôn xám xịt và âm u. Các cửa sổ của ông mở ra hoang mạc.
- Cái đó có lẽ sẽ phù hợp với hoàn cảnh của tôi hơn – Ông nói.
Erik nhìn họ, ông mục sư và người đàn bà cao lớn tóc vàng hoe, vợ anh. Anh cảm thấy bỗng nhiên bị xâm chiếm bởi một nỗi buồn vô tận và đồng thời bởi một niềm vui êm ả lạ lùng. Con người không chỉ được định vào những số phận lớn, như cụ Bek đã nói tối hôm qua. Cho đến hiện giờ, Erik đã tin rằng mình thuộc số người phải hoàn thành những chuyện lớn. Nhưng cụ Bek và mamzelle Camrath đã đến đảo để tìm ở đây một mục đích khác cho cuộc đời của họ, một mục đích mà Erik và ông mục sư không biết, nhưng người đàn bà câm thì đã đạt tới đêm hôm qua.
- Ellen – anh nói, vừa đặt bàn tay lên bàn tay vợ - Sau khi em ra về vài giờ thì chị ấy chết vì chảy máu.
- Chết! – Ellen lùi lại một bước như bị đập vào tim.
Erik mỉm cười buồn bã.
- Mọi năm không có ca tử vong nào trên đảo, ông Honorius ạ, thế mà ông lại sắp phải làm ngay nhiệm vụ riêng của ông rồi đấy.
Ông mục sư gật đầu đồng ý, vẻ đăm chiêu. Ellen vẫn áp bàn tay vào ngực như thể cô muốn làm ngừng chảy máu cho sản phụ. Đôi mắt cô tìm trong đôi mắt của Erik lời đáp cho một câu hỏi nghiêm trọng.