Chương III
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
THỐNG NHẤT TRỞ LẠI (580-906)
A. NHÀ TÙY (581-618)
l. Văn đế (581-604)
Dương Kiên ép vua Bắc Chu nhường ngôi, lập nên nhà Tùy (tức Tùy Văn đế) và 7 năm sau đã thống nhất được Trung Quốc một cách dễ dàng: ở Hoa Bắc, người Hồ đã Hoa hóa nhiều rồi mà người Hoa cũng đã Hồ hóa một phần, nên có vài nơi chống đối lẻ tẻ thì chỉ trong một vài năm ông đã dẹp xong; còn Hoa Nam tuy tiến bộ về văn hóa mà suy nhược về võ bị, triều đình lại không được lòng dân và giới đại điền chủ, lại thêm dân chúng vẫn coi Dương Kiên là người Hoa, nên khi ông đem nửa triệu quân qua sông Dương Tử thì cả miền Nam qui phục.
Nhưng nhà Tùy rất ngắn ngủi, chỉ có 2 đời vua, trước sau chỉ được 37 năm, sau khi thống nhất về đất đai, chưa kịp tổ chức xong xã hội - kinh tế thì đã sụp đổ vì cái tệ xa hoa, bạo ngược như nhà Tần và Trung Hoa lại phải trải qua một thời loạn lạc sáu, bảy năm nữa; cho nên chỉ nên coi nhà Tùy là một giao thời, và công của nhà Tùy chỉ là dọn dẹp, chuẩn bị cho thời thống nhất thực sự ở đời Đường, cũng như nhà Tần đã chuẩn bị cho nhà Hán. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên sau 8 thế kỉ.
Văn đế không có tài nhưng siêng năng, dám làm. Ông đã Hồ hóa, là một quân nhân nên rất trọng võ bị, hơi độc tài, không ưa đạo Khổng, vì thấy các quan lại có Nho học thường không chịu để ông sai bảo như bọn tướng dưới quyền ông. Ông lại sống khắc khổ như người Hồ, tới mức keo kiệt nữa, cho rằng các nghi thức tế lễ của Khổng tốn tiền quá, và bắt quan lại phải sống đạm bạc.
Nhưng nhờ chính sách kinh tế của ông mà nước thịnh lên.
Cứ sau một thời loạn lạc lâu dài, các ông vua sáng nghiệp đều dùng biện pháp khuyến nông. Văn đế miễn nhiều thứ thuế cho dân nghèo, chia đất lại như thời Bắc Tề: mỗi cặp vợ chồng được phát cho hai chục mẫu để làm, già hoặc chết thì đất trở về triều đình, với 20 mẫu nữa làm của riêng. Năm nào mất mùa thì miễn thuế. Ông lại lập những nghĩa sương, kho lúa để phát chẩn cho dân nghèo. Ông bỏ đặc quyền muối.
Thương nghiệp cũng phát triển. Kinh đô Tràng An là nơi quốc tế mậu dịch. Quảng Châu là nơi hải ngoại mậu dịch.
Giới quí tộc và đại địa chủ, quan lại ở Nam bất bình. Một số bị loại ra khỏi chính quyền để tiết kiệm ngân sách, số còn lại phải giảm mức sống. Vả lại, kinh đô bây giờ ở Tràng An, rất xa; Nam Kinh mất địa vị, chỉ là một thị trấn thường, làm ăn không phát đạt bằng trước được. Giới sĩ tộc có dư lúa, phải chở lên miền Bắc bán, phí tổn nặng, ít lời. Bọn bất mãn đó đứng vào phe thứ tử của Văn đế là Quảng, cùng nhau âm mưu giết Văn đế và thái tử, để lên ngôi, tức Dạng đế.
2. Dạng đế (605-617)
Tính tình ngược hẳn với cha. Cha cần kiệm bao nhiêu thì con xa xỉ vô độ bấy nhiêu, lại rất bạo ngược.
Ông ta ghét kinh đô Tràng An, dời đô lại Lạc Dương. Bắt dân xây cất lại kinh thành, có tháng dùng đến 2 triệu người, bắt cả vạn đại thương gia cung cấp vật liệu, thực phẩm. Cung điện, vườn thượng uyển nối tiếp nhau, chu vi tới mấy trăm dặm (mỗi dặm là nửa cây số)! Ông cho gom góp về đó tất cả những cây cỏ, cầm thú lạ ở mọi nơi. Trong vườn thượng uyển có biển hồ lớn nhân tạo, nước dẫn từ sông Lạc vào, giữa biển có ba đảo tiên: Phương Trượng, Bồng Lai, Doanh Châu. Bờ biển cất 16 viện cực kì hoa lệ.
Xe chở gỗ quí từ miền xa lại để xây cất, nối tiếp nhau cả ngàn dặm. Cứ 10 người làm xâu thì chết tới 4 - 5 người.
Ngoài ra ông lại xây cất 40 li cung nữa.
Công trình kiến thiết quan trọng nhất trong đời ông là đào kinh Vận Hà. Một hôm, ông ngỏ ý muốn tuần du phương Nam, một phần vì thích cảnh thích người ở Giang Đô, một phần vì ông muốn xem dân tình nơi đó ra sao: dân có thuần không hay mưu tính phản loạn; một viên cận thần tâu: muốn đi thì phải từ Lạc Dương xuôi dòng Hoàng Hà tới biển rồi theo bờ biển xuống sông Dương Tử mà mùa đó biển động; tốt hơn cả là đào một con kinh nối Hoàng Hà với sông Dương Tử, như vậy khỏi sợ sóng gió mà lại được biết dân tình nhiều nơi, coi được nhiều cảnh đẹp.
Ông đồng ý và tức tốc ra lệnh đào kinh. Ông bắt tất cả những người đàn ông nào từ 15 tuổi trở lên còn sức lao động thì phải đi đào kinh hết, hễ trốn thì bị trừng trị nặng. Có sách chép rằng số người làm xâu lên tới 3,6 triệu; ấy là chưa kể cứ mỗi tổ 5 gia đình phải chỉ định một người già hoặc một em trai nhỏ, một người đàn bà để đem cơm nước cho phu đào kinh. Bọn này mang xẻng, cuốc, đồ dùng đi thành hàng, dài tới mấy ngàn dặm. Bọn người bổ sung tới không ngớt, nhiều như “đàn ong, đàn kiến”. Phải dùng 5.000 lính đốc thúc họ làm. Nhiều người chết vì đuối sức.
Từ thế kỉ thứ III, dân mỗi miền đã đào những khúc kinh nhỏ nối vài sông rạch để dễ giao thông từ Bắc xuống Nam. Nhưng tới đời Dạng đế thì mới thực hiện một cách đại qui mô: trong mấy năm đào gấp ba khúc kinh dài nối liền những khúc nhỏ có từ trước đó. Các đời sau tu bổ, nối dài thêm, và đến đời Nguyên mới thực hoàn thành: kinh dài trên ngàn cây số nối Thiên Tân với Hàng Châu, là công trình vĩ đại thứ nhì của Trung Hoa sau Vạn lí trường thành, lợi hơn đường xe lửa thời nay nhiều, vì thuyền lớn nhỏ qua lại suốt ngày đêm, chở hàng hóa mà không tốn kém bao nhiêu, lại dùng làm chỗ ở cho hàng triệu người được, ấy là chưa kể cái lợi về canh nông, làm cho đất đai hai bên bờ tươi tốt, làng xóm đông đúc. Chỉ đáng trách là Dạng đế làm gấp quá, bất dân hi sinh đến kiệt lực, và khi đào xong, dân hai bên bờ lại phải điêu đứng về việc tiếp rước đoàn 50 chiếc long thuyền rất lớn mà chính họ phải góp tiền nhau đóng.
Chiếc ngự thuyền của ông cao bốn tầng, dài 200 trượng (theo Lư Chấn Vũ - Tsui Chi dịch là 200 pieds, mỗi pied khoảng 3,3 tấc ngày nay), có nội điện, một cái cung nhỏ, và hai phòng rộng mênh mông, một ở bên đông, một ở bên tây, trang sức toán bằng châu ngọc. Hoàng hậu có một chiếc thuyền riêng, phía sau là thuyền cho các phi tần, vương công, công chúa, đại thần, cả nhà sư và ni cô nữa... Đoàn thuyền đó dài tới 200 dặm, chắc chỉ có đoàn thuyền của Cléopâtre trên sông Nil mới sánh nổi.
Nhưng cảnh dưới đây thì Cléopâtre cũng không tưởng tượng được! Hàng ngàn hàng vạn người đàn ông bận đồ tơ lụa kéo đoàn thuyền đó để tiếp sức các thủy thủ, và để cho đẹp mắt, cứ khoảng 10 người đàn ông lại xen một thiếu nữ diễm lệ, y phục rực rỡ, nắm hờ một sợi lụa màu cột vào dây thừng của bọn đàn ông.
Hai bên bờ, Dạng đế đã cho trồng rất nhiều cây liễu để có bóng mát. Một đội kị binh cưỡi ngựa phất cờ chạy theo; dân chúng chen chúc nhau ra coi. Đoàn thuyền qua rồi mà hương còn phảng phất trong không khí trên cả chục dặm.
Ông vua độc tài mà nghệ sĩ đó rất thích xây cất cung điện. Ở kinh đô Lạc Dương, vườn Tây Uyển trong cung, chung quanh trồng toàn thông và liễu cổ thụ, mùa xuân tới, các lối đi trong vườn như phủ đầy một lớp cánh hoa đào và hoa mai; mùa thu lá rụng hết, ông bắt dân lấy lụa màu cắt thành lá và cánh hoa, treo lên cành; hễ lụa nhạt màu thì thay lụa mới.
Nệm yên ngựa đoàn kị binh đi hộ vệ ông, cánh buồm đoàn long thuyền của ông cũng bằng lụa. Đầu xuân, nhà nào ở hai bên bờ sông Dương Tử cũng lo cắt lụa để cung cấp cho triều đình. Xa xỉ tới bực đó!
Dạng đế còn một tật nữa là ham dùng binh, đánh rợ Đột Quyết, bình nước Lâm Ấp (Chiêm Thành), phá nước Thổ Cốc Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải), bắt các nước đó phải thần phục. Tai hại nhất là chiến tranh với Triều Tiên.
Phải chuẩn bị tấn công cả bằng đường bộ lẫn đường biển, rất hao tốn. Ông bắt tất cả các phú gia trong nước bỏ tiền ra mua ngựa cho đủ số 10 vạn con, sắm binh khí thật tốt; mặt khác phải đóng 300 chiến hạm, 5 vạn cỗ binh xa; ông trưng dụng mấy triệu người vừa là binh sĩ, vừa để phục dịch binh sĩ, ba lần xuất quân, hao binh tổn tướng rất nhiều mà ba lần thất bại.
Do đó mà cùng kiệt sức lực của dân, trong ngoài đều ta oán, trộm cướp nổi dậy khắp nơi. Trên một chục hào kiệt chiếm cứ mỗi người một nơi, tự xưng vương, loạn hơn hồi Tần Nhị Thế. Ai cũng thấy vận của nhà Tùy sắp hết. Triều đình đem quân đi dẹp loạn thì quân lính đào ngũ theo dân. Trong khi đó Dạng đế vẫn vui thú trong cung, không quan tâm tới việc nước, bọn cận thần không dám cho ông ta biết sự thực, sợ ông ta nổi giận. Ngay quan thượng thư bộ binh cũng báo tình hình “rất tốt đẹp, chỉ có những bọn ăn cướp, bọn giặc cỏ sẽ dẹp được”.
Đã vậy, kẻ cầm quyền lại tàn bạo. Tướng Vương Thế Sung đi dẹp loạn ở Giang Nam, hứa với loạn quân: sẽ tha hoặc giảm tội nếu chịu đầu hàng. Ba vạn người ra đầu thú, ông giết hết, không còn một mạng. Còn Dạng đế thì khi muốn dời Lạc Dương xuống kinh đô miền Nam là Dương Châu, nhiều tướng khuyên không nên đi, vì ông bỏ Lạc Dương thì miền Bắc sẽ mất, ông không nghe mà còn chém đầu người nào nói thêm nữa. Tới dân chúng thấy ông bỏ Lạc Dương cũng sợ, tụ họp nhau trên bờ khóc lóc, năn nỉ ông ở lại, ông sai lính giết họ.
Trong số mười mấy hào kiệt nổi loạn, người có tài nhất là Lí Thế Dân. Cha ông là Lí Uyên (dòng dõi Lí Quảng đời Hán), được phong là Đường quốc công, làm thái thú (thời đó gọi là lưu thú) Thái Nguyên phủ, một trọng trấn gần biên giới phía Bắc, thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay. Tính Uyên nhu nhược, đần, trong khi hào kiệt nổi lên khắp nơi thì Uyên vẫn trung thành với Dạng đế. Thế Dân là con trai thứ của Uyên, giỏi cả văn lẫn võ, 15 tuổi đã cầm quân, 16 tuổi lập được chiến công. Thời đó, có lẽ vì ảnh hưởng hay di truyền của rợ Hồ, thanh niên Hoa Bắc, trai và gái, có nhiều người rất thượng võ, 13 tuổi đã thạo cưỡi ngựa, bắn tên. Thế Dân có tài bắn tên bách phát bách trúng. Thấy tình hình trong nước loạn quá, Thế Dân khuyên cha muốn khỏi bị chết lây thì đừng theo nhà Tùy nữa mà chiếm Thái Nguyên phủ rồi Tràng An để lập căn cứ. Uyên mới đầu không nghe, lại còn dọa tố cáo con là phản loạn nữa. Nhưng Thế Dân hồi đó mới 17 tuổi, giảng lẽ hơn thiệt cho cha, riết rồi cha miễn cưỡng theo - tính ông ba phải, không tự mình quyết định được gì cả - đem quân đi chiếm Tràng An (kinh đô cũ) tôn một người cháu nội của Dạng đế mới 13 tuổi lên làm hoàng đế, còn Dạng đế thì cho làm Thái thượng hoàng. Ông ta đã muốn cướp ngôi của nhà Tùy rồi đấy, nhưng còn làm từ từ, tiến từng bước một, sợ chết rồi mang tiếng xấu trong sử.
Năm 617, một viên tướng của Dạng đế cầm đầu một bọn phản loạn, nửa đêm đột nhập vào cung (ở Giang Đô), sáng sớm bắt được Dạng đế với đứa con nhỏ nhất, chém ngay đầu đứa bé đó. Khi quân lính sắp sửa giết luôn cả Dạng đế thì ông ta bảo: “đừng chém ta. Để ta chết với tư cách một thiên tử. Đưa thuốc độc cho ta uống!”. Muốn cho mau xong, quân lính thắt cổ ông ngay trên ngai vàng. Nhà Tùy chấm dứt.
Hay tin đó, Lí Uyên mới bắt vị hoàng đế 13 tuổi ở Tràng An thoái vị và nhường ngôi cho mình. Ông lên ngôi, hiệu là Đường Cao Tổ, phong cho con trưởng Kiến Thành, làm thái tử; cho Thế Dân làm Tần vương, và một người em của Thế Dân, Nguyên Cát làm Tề vương. Trong ba người đó, Thế Dân có tài hơn cả, Nguyên Cát cũng khá, kém nhất là Kiến Thành. Còn một người con gái giỏi võ nghệ nữa, sau giúp cha và anh được vài việc.
B. NHÀ ĐUỜNG (618-906)
1. Thời thịnh trị: Thái tôn
Dẹp hết loạn
Lí Uyên xưng đế thì các hào kiệt khác cũng xưng vương, nếu không xưng đế. “Xã hội thời đó là một xã hội mạo hiểm, đầy những chiến đấu gan dạ và những cuộc chinh phạt phiêu lưu... Người ta coi vận mạng như cuộc đỏ đen trong một canh bạc lớn mà đấu mưu đấu trí với nhau.” (Lâm Ngữ đường).
Thế Dân là một trang hào kiệt như vậy. Khi đã thúc cha nổi loạn, xưng đế mà cha bất lực, thì thanh niên đó phải chiến thắng các hào kiệt khác mà thống nhất Trung Quốc, đem giang san về cho họ Lí, và chàng thành công, đã cứu văn minh Trung Hoa khỏi sụp đổ mà còn rực rỡ hơn nữa. Sử gia nào cũng nhận ra 3 điểm cao nhất của văn minh Trung Hoa là đời Chu, đời Hán và đời Đường. Danh từ “người Đường” cũng thông dụng như danh từ “người Hán” để chỉ người Trung Hoa. Chính người Trung Hoa thời gần đây còn thừa nhận là “thoòng dần” (Đường nhân).
Chàng cưỡi ngựa, bắn cung rất giỏi, có tài cầm quân, biết lợi dụng thiên thời, địa lợi, mà lại rất can đảm, luôn luôn tính những việc nguy hiểm nhất, khi tấn công thì như vũ bão, nhất là biết lựa người và dùng người, không ngại dùng kẻ thù cũ đã đầu hàng mình. Có lần cha tính giết Lí Tĩnh vì một mối hận riêng nào đó Lí Tĩnh la lên: “Ông muốn đem thái bình cho quốc gia và cứu nhân dân mà việc đầu tiên của ông là giết một người vô tội để trả một mối thù riêng!”, Thế Dân thấy vậy, xin cha tha cho Lí Tĩnh, và sau Lí Tĩnh thành một tướng danh tiếng của nhà Đường. Vì vậy mà các tướng sĩ đều phục chàng, và mới 18 tuổi, chàng đã nắm hết binh quyền trong tay, thu phục được nhiều tướng tài, tận tâm với chàng như Lí Tĩnh, Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo, Lưu Văn Tĩnh...
- Trong những năm 618-620, Thế Dân bình phục được hết miền Tây Bắc Trung Hoa, thắng một trận lớn ở Sơn Tây.
- Hai năm 620-622, Thế Dân chuyển quân qua phía Đông, đánh Trịnh Vương là Vương Thế Sung ở Lạc Dương (Đông Kinh), để tiến tới Sơn Đông. Vương Thế Sung bị vây trong thành mấy tháng, quân dân đều đói, sai người cầu cứu với Hạ vương là Đậu Kiến Đức. Khi hay tin, Đậu đem 30 vạn quân tới cứu Lạc Dương, các tướng của Thế Dân ngại không chống nổi cả hai mặt, muốn rút quân vây Lạc Dương về, Thế Dân cương quyết không nghe, chỉ rút một phần nhỏ (3.500) thôi, còn phần lớn vẫn để lại bao vây Lạc Dương; và dùng 3.500 quân đó với 1 vạn quân trong đồn Tị Thủy ở gần Lạc Dương để chống với 30 vạn quân của Đậu Kiến Đức và nhờ chiến thuật táo bạo, thần tốc, đánh phá những đoàn tiếp tế lương thực của Đậu, tỉa lần địch, lợi dụng lúc địch mỏi mệt, mà bất thần tấn công, đại phá được quân của Đậu, bắt sống được Đậu, trói Đậu, đưa về thành Lạc Dương cho Vương Thế Sung thấy. Vương và Đậu nhìn nhau khóc ròng. Vương phải đầu hàng. Quân Thế Dân vào chiếm thành, không giết một người dân. Vậy là chỉ trong một trận mà Thế Dân thắng được hai nước Trịnh và Hạ, làm chủ được trọn Hoa Bắc. Pitzgerald trong cuốn Li Cho-min, uniricateur de la Chine (Payot - 1935) cho rằng trận Tị Thủy đó (Tị Thủy là một chi nhánh nhỏ của Hoàng Hà, gần Lạc Dương) đáng kể là một trong những trận quyết định trong lịch sử thế giới, vì nhờ trận đó mà nhà Đường mới vững, thống nhất được Trung Quốc, và văn minh Trung Quốc mới phát triển được rực rỡ.
- Vậy là Thế Dân đã bình định xong Hoa Bắc. Chỉ còn Hoa Nam. Hoa Nam có hai tiểu vương, một làm chủ phía Tây, một làm chủ phía Đông ở Nam Kinh.
Nhà Đường đã chiếm được Tứ Xuyên ở thượng lưu sông Dương Tử. Thế Dân sai Lí Tĩnh dùng thuyền chở quân, từ Tứ Xuyên đổ xuống một cách bất ngờ, vua nước Lương ở phía Tây phải đầu hàng. Rồi thừa thế, quân Lí Tĩnh xuôi dòng chiếm nốt Nam Kinh (622).
Sau đó chỉ còn phải dẹp những bọn phản loạn nhỏ, và từ năm 625, Trung Quốc lại được hưởng một cảnh thanh bình, thống nhất dài khoảng 130 năm để phát triển văn minh và nghệ thuật.
Mở mang bờ cõi.
Suốt 3.000 năm, từ đời Chu cho tới đời Thanh, các dân tộc du mục ở phía Bắc và phía Tây thời nào cũng là cái họa mà dân tộc Trung Quác phải đề phòng. Hễ Trung Quốc mạnh thì họ thuần phục và để yên, không quấy phá; lúc nào Trung Quốc yếu thì họ lại vượt Trường thành mà xâm nhập. Chỉ tới thời cận đại, họ tiến bộ, theo văn minh nông nghiệp, Hán hóa rồi, không còn là du mục nữa thì Trung Quốc mới được yên.
Vì vậy nhà Đường tuy đã làm chủ hết Hoa Bắc, vẫn phải đối phó với các rợ Đột Quyết (Thổ Nhĩ Kì ). Thời đó có Đông Đột Quyết, từ sa mạc Qua Bích (Gobi) tới cuối biên giới phía đông của Trung Hoa, và Tây Đột Quyết ở Trung Á, phía bắc Thiên San. Ngoài ra còn rợ Thổ Cốc Hồn ở miền Thanh Hải, đông bắc Tây Tạng.
Thế Dân phải đối phó với Đông Đột Quyết trước hết. Ông cũng dùng chính sách của Hán Võ đế, vừa tấn công vừa dùng mưu để chia rẽ các bộ lạc lớn ở biên giới, thu phục một số làm phên dậu che chở Trung Hoa. Năm 626, một Khả hãn[1] (tức vua) Đông Đột Quyết, tên là Đột Lợi, hiếu chiến, đem quân xâm nhập Trung Hoa, tới sông Vị, cách Tràng An 16 cây số. Thế Dân phi ngựa tới trại Đột Quyết, chỉ dắt theo sáu viên tướng để điều đình với Đột Lợi. Nhiều người can đừng mạo hiểm như vậy, ông không nghe, cho rằng nếu mình tỏ ra khinh thường Đột Quyết thì chúng không dám tấn công mình, vì chúng ở xa các cánh đồng cỏ, bất lợi cho chúng. Quả nhiên khi thấy ông tới, tướng Đột Quyết ngạc nhiên, tưởng ông đã đặt nhiều quân phục kích ở chung quanh, hoảng sợ, xuống ngựa để tiếp ông. Ông quay trở về, chiều phái một sứ giả đến điều đình với Khả hãn Đột Lợi. Và hôm sau, ông với Đột Lợi, kí một minh ước trên cầu sông Vị, giết một con ngựa trắng để cúng thần, đúng theo tục Đột Quyết. Đột Lợi rút quân về và minh ước được tôn trọng một thời gian.
Năm 629, Đột Lợi lại cho quân cướp phá biên giới, như vậy là xé minh ước. Thế Dân (lúc này đã lên ngôi vua, hiệu là Thái Tôn) mới sai Lí Tĩnh đem 10 vạn quân vượt Trường thành, tấn công Đột Quyết tại sào huyệt. Quân Đường đại thắng, giết được 10 vạn quân địch, bắt được 10 vạn tù binh và vô số ngựa, cừu..., truy kích Khả hãn của họ tới cùng, bắt được. Trung Hoa sau 4 năm, dẹp được họa ở phía Bắc biên giới, làm chủ được Nội Mông.
- Còn rợ Thổ Cốc Hồn cũng thường cướp phá biên giới gần miền ngọn sông Hoàng Hà, ở Cam Túc và Lương Châu. Năm 634, Thế Dân lại sai Lí Tĩnh đi dẹp. Lí Tĩnh chia quân làm 2 đạo, một đạo chính Lí chỉ huy, tiến lên phía bắc, một đạo do Hầu Quân Tập chỉ huy tiến theo dãy núi Côn Lôn ở phía Nam. Đạo phía Bắc phá tan quân Thổ Cốc Hồn ở dãy núi Kokongr; đạo phía Nam đã làm được một kì công: leo dãy núi Côn Lôn rất cao, không gặp một bóng người, tuyết phủ quanh năm, người và ngựa đều phải ăn băng và tuyết. Họ thình lình gặp quân Thổ Cốc Hồn trên bờ một cái hồ tại ngọn sông Hoàng Hà. Quân Thổ Cốc Hồn hoảng hốt, không ngờ rằng quân Đường vượt được núi như vậy, bỏ chạy; quân Đường đuổi theo. Tới Thanh Hải, Thổ Cốc Hồn bị quân Lí Tĩnh đón đầu và tận diệt. Khả hãn của họ bị một tướng làm phản, giết. Một Khả hãn khác lên thay, chịu thuần phục nhà Đường.
Trận đó làm danh nhà Đường vang khắp Trung Á. Tây Đột Quyết sợ, cũng xin nộp cống. Nhiều bộ lạc ở phía Bắc, tại biên giới Ngoại Mông ngày nay, cũng phái sứ giả tới xưng thần. Ba Tư, vài tiểu quốc ở Ấn Độ, cả những bộ lạc xa xăm ở Tây Bá Lợi Á cũng sợ Trung Hoa, tỏ tình hòa hảo. Đế quốc Trung Hoa thời này rộng hơn thời Hán. Sức mạnh và uy danh của Trung Hoa đạt tới mức cao nhất.
Một số nhà truyền giáo Syrie đem Cảnh giáo (một phái Ki-tô giáo ở Tây Á) vào Tràng An, và lập một giáo đường ở đó năm 781, hiện nay còn một tấm bia ở Tây An phủ.
Giáo chủ Mahomet (sanh năm 570), vị sáng lập đạo Hồi Hồi ở Ả Rập, khi đem quân đi chinh phục thế giới, viết thư cho ba đại đế trên thế giới là Héraclius, vua La Mã, Khosroès, vua Ba Tư và Thế Dân, vua Trung Hoa, buộc họ phải nhận Hồi giáo, nếu không thì sẽ bị trừng trị. Hérachus đuổi sứ giả về mà không nhận thư. Khosroès xé bức thư, sứ giả bảo: “Allah sẽ làm cho đất đai nhà vua tan tành như bức thư đó.”. Chỉ có Thế Dân là khoáng đạt hơn cả: cho người Ả Rập ở Trung Hoa được cất thánh đường đầu tiên của họ ở Quảng Châu.
- Chiến tranh Triều Tiên. Triều Tiên chỉ thần phục Trung Hoa bề ngoài thôi, chứ vẫn âm thầm chống. Tùy Dạng đế đã đem quân trừng phạt nhưng đại bại. Vào khoảng cuối đời Đường Thái Tôn, Triều Tiên loạn, một vị đại thần tiếm ngôi, rồi đem quân đánh một nước nhỏ, nước Tân La, cũng phụ thuộc Trung Hoa. Tân La cầu cứu Đường Thái Tôn. Thái tôn đích thân đem quân đi đánh Triều Tiên. Cũng dùng cả hải quân lẫn lục quân; một đạo vượt biển vào gần vàm sông Áp Lục, một đạo theo đường bộ vòng lên phía Bắc, đánh xuống Liêu Dương. Thắng được nhiều trận lớn, rồi vây thành An Thị ở bán đảo Liêu Đông, 63 ngày không hạ nổi, quân Đường phải rút về trước khi mùa đông tới.
Chiến tranh đó không đạt được mục đích là trừng trị loạn thần tiếm ngôi mặc dầu chiếm được Liêu Dương và nhiều thành khác, bắt được 7 vạn người Triều Tiên đem về làm nô lệ. Theo lệ, 7 vạn nô lệ đó sẽ chia cho tướng sĩ, nhưng Thái tôn không nỡ, thấy họ khóc lóc thảm thiết vì cha con vợ chồng phải chia nhau, nên bỏ tiền ra chuộc họ và cho họ định cư ở Trung Quốc, kiếm việc làm ăn.
Bi kịch giành ngôi
Dựng nên nhà Đường, thống nhất giang sơn là công của Thế Dân. Thái tử Kiến Thành và Tề Vương Nguyên Cát thấy cha quí Thế Dân và các tướng đều kính trọng, tuân lệnh Thế Dân, sinh lòng ghen ghét, sợ Thế Dân sẽ giành ngôi của Kiến Thành, nên ton hót với một ái phi của Cao Tổ (Lí Uyên), vu cho Thế Dân tội này tội nọ; hơn nữa, họ đã 2 lần mưu sát Thế Dân mà thất bại (một lần đầu độc trong một bữa tiệc, nhưng Thế Dân chỉ thổ ra máu mà không chết). Họ tính mưu sát lần nữa, Thế Dân biết được, phải ra tay trước, cùng với Uất Trì Kính Đức núp trong vườn cấm sau cung, đợi sáng sớm Kiến Thành và Nguyên Cát vào chầu mà bắn chết. Cao Tổ hay tin ghê gớm đó chỉ lẩm bẩm: “Ta có ngờ đâu tới nông nổi này. Phải làm gì bây giờ?”. Chính ông ta do dự, nhu nhược, biết bụng dạ xấu của Kiến Thành mà không ngăn được nên xảy ra bi kịch ấy. Đó là nhược điểm của chế độ quân chủ phương Đông: hầu hết ông nào cũng nhiều con, và rất ít ông sáng suốt lựa được người giỏi để truyền ngôi, thành thử con thường tranh ngôi với nhau.
Vụ đó là một vết đen trong đời Thế Dân. Chẳng những anh và em ông bị ông giết, mà theo lệ, cả 5 đứa con trai của anh và 5 đứa con trai của em cũng bị xử tử nữa, sợ sau này chúng trả thù cho cha!
Kiến Thành chết rồi, Cao tổ truyền ngôi cho Thế Dân, năm đó 26 tuổi, mà lên làm Thái Thượng hoàng được một năm rồi chết. Thế Dân lên ngôi (627-650), gần cuối đời, phải thấy cảnh chính thái tử của ông làm phản ông, muốn giết ông để cướp ngôi. Hắn chắc có dòng máu rợ Hồ trong huyết quản, không chịu học hành, chỉ thích sống đời du mục, dựng lều trong vườn cấm, cùng với một bọn lưu manh cướp bóc dân chúng nào cừu, nào rượu (chứ không chịu mua), đem về nhậu nhẹt, hát những bài hát Hồ. Nhiều đại thần khuyên Thái tôn truất ngôi thái tử của hắn mà đưa người con khác lên, nhưng ông không chịu, cứ giữ đúng tôn pháp nhà Chu, chỉ con cả của dòng vợ chính mới được nối ngôi. Sau hắn nghe lời bạn xúi giục, âm mưu giết cha để cướp ngôi mà mau được sống theo ý mình. Âm mưu bị lộ, Thái tôn không nỡ giết, chỉ đày đi Tứ Xuyên, năm sau hắn chết tại đó. Ông đưa Lí Trị lên làm Thái tử, sau thành Cao tôn. Ông này hiền lương, nhưng nhu nhược, quyền hành vào cả tay Võ hậu, một người đàn bà dâm loạn mà thông minh, khiến cho nhà Đường nghiêng ngửa suýt mất.
Chính trị
- Thời nông nghiệp, bất kì dân tộc nào cũng cho nghề nông là căn bản. Phải tự túc về lương thực trước đã. Ngũ cốc có dư thì nước mới giàu được, thiếu thì không thể mua của nước ngoài được vì phương tiện chuyên chở rất khó, dân sẽ đói và sẽ nổi loạn. Cho nên sau một thời gian loạn lạc, ông vua sáng nghiệp nào cũng nghĩ ngay đến việc ban ruộng đất cho dân cày, khuyến nông, giảm thuế.
- Cao tổ cũng tố chúc lại triều đình, sửa đổi quan chế, nhưng công việc này đến thời Thái tôn mới tiến mạnh. Các sử gia Trung Quốc đều cho Thái tôn là một vĩ nhân, cầm quân đã giỏi mà trị nước giỏi hơn nữa. Ông hơn Hán Võ đế, sáng suốt mà đại độ, không độc tài. Chỉ có mỗi một điều ân hận là bắt buộc phải giết anh để lên ngôi.
Đức quí nhất của ông là biết lựa người, dùng người và nghe lời can gián. Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối là những kinh tế gia có tài, Ngụy Trưng làm Gián nghị đại phu, Tch'ou Souei-liang (?) làm Thái sử, đều có tư cách cao, dám nói thẳng, chép sự thực.
Ngụy Trưng trước là tay chân của Thái tử Kiến Thành, vậy mà khi giết Kiến Thành rồi, Thế Dân thấy Nghị Trưng cương trực, đã không trị tội mà còn thu dụng liền. Nhưng Ngụy Trưng vẫn không nể Thế Dân, hễ thấy có lỗi thì vạch ra, có lần cương quyết chống đối giữa triều đình. Thế Dân giận lắm, trở vô cung còn hầm hầm nói với hoàng hậu: “Tên khốn nạn đó còn sống thì ta không bao giờ làm chủ được. Trước kia ta đã kéo nó từ dưới bùn lên đấy.” Hoàng hậu hỏi kẻ khốn nạn đó là ai, ông kể lại đầu đuôi cho bà nghe. Bà làm thinh, lặng lẽ về phòng riêng, lát sau, trở lại với bộ lễ phục đẹp nhất. Ông ngạc nhiên hỏi, bà đáp: “Thiếp nghe nói một vị minh quân thì luôn luôn gặp được một bề tôi trung và thành thực. Bệ hạ mới nhận rằng Ngụy Trưng chính là hạng bề tôi trung và thành thực đó. Vậy bệ hạ là một minh quân, và thiếp bận lễ phục này để mừng bệ hạ đây.”
Một hôm khác, Thế Dân tò mò muốn biết viên Thái sử viết gì về mình, viên này đáp: “Thần chép hết ngôn hành của bệ hạ, cả tốt lẫn xấu, chép đúng để làm gương cho đời sau. Nhưng thần chưa bao giừ được nghe nói có một vị hoàng đế nào lại đọc những gì Thái sử viết về mình.” - “Vậy nếu ta làm bậy điều gì, khanh cũng chép sao?” - “Đó là bổn phận của thần.” Một viên phụ tá của Thái sử nói thêm: “Mà nếu quan Thái sử không chép thì bọn hạ thần chúng tôi cũng sẽ chép.”
Thế Dân bảo: “Ta rán noi gương vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ thời xưa, ta lựa người có tài để giúp ta trị nước, đuổi những kẻ bất tài đi, và không bao giờ nghe những lời nịnh bợ của bọn tiểu nhân. Nếu ta giữ được 3 điều đó tới chết thì không ai có thể chê ta được.” Viên Thái sử nói: “Mấy lời bệ hạ vừa thốt cũng sẽ được chép trong sử.”
Khi Cao tổ mới chết, Thái tôn thả ngay 3.000 cung nữ, cho về với cha mẹ. Đó là lần đầu tiên mà có thể là lần duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Ông tổ chức triều đình, đại khái cũng theo các thời trước, chỉ thay đổi chi tiết cho hoàn bị hơn. Quyền tập trung vào vua hết. Vua có ba vị Thái sư, Thái phó, Thái bảo (gọi là tam sư) làm tối cao cố vấn. Chức họ cao, nhưng không có quyền. Điều hành cơ quan hành chính là Thượng thư tỉnh gồm 6 bộ: bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Công. Mỗi bộ có một trưởng quan gọi là Thượng thư, một thứ quan là Thị lang. Cũng có một bộ tựa như bộ thuộc địa để cai trị các lãnh thổ ở xa: Mông Cổ, Tân Cương, Tây Tạng, v.v..., nhưng không có bộ ngoại giao vì Trung Hoa tự coi là hơn hết thảy các dân tộc khác, nên việc ngoại giao chỉ là tiếp các sứ thần tới dâng cống phẩm thôi. Lại có một Ngự sử đài, tức cơ quan giám sát.
Toàn quốc chia làm 10 đạo (như tỉnh ngày nay); dưới đạo có châu, rồi huyện, hương, lí, thôn.
Các cải cách của Thái tôn về tổ chức hành chánh tỉnh đáng coi là quan trọng và lâu bền nhất. Nhà Tần đặt ở đầu mỗi quận một quan văn coi về hành chánh và một quan võ coi về võ bị, quyền ngang nhau. Nhà Hán bỏ chế độ đó, chỉ dùng quan văn thôi. Nhưng sau đời Hán, nước loạn lạc, sự cai trị các quận giao cho quan võ do bọn vương hầu cử.
Thái tôn loại lần lần các quan võ đó, mà đích thân lựa những người có học, có hạnh tốt thay vào. Chế độ tuyển cử đó có vào đời Tùy, nhưng tổ chức còn sơ sài. Thái tôn theo Tùy, đặt ra khoa tiến sĩ trọng văn từ, khoa minh kinh trọng sự tinh thông một kinh. Lễ bộ coi việc khảo thí; người nào đậu rồi, muốn làm quan thì phải thi lại ở bộ Lại, có đậu mới được bổ dụng. Như văn hào Hàn Dũ (coi ở sau) đậu tiến sĩ mà thì 3 lần ở bộ Lại đều rớt, phải sống nghèo khổ 10 năm. Cũng có một số con nhà quí tộc, đại quan liêu, đại địa chủ chẳng cần thi cũng được bổ dụng. Thói thiên vị, bổ dụng người thân đó thời nào, dân tộc nào cũng có, nhưng ở Trung Hoa vẫn ít hơn.
Các kì thi tổ chức rất nghiêm và rất công bằng. Thí sinh mà gian lận thì bị trừng trị nặng, giám khảo mà gian lận thì bị cách chức.
Chế độ thi cử ở nước ta thời trước theo đúng của Trung Hoa nên tôi không cần chép dài dòng, chỉ nhấn vào điểm này: không biết từ đời nào Trung Hoa mới chuyên dùng thi phú để tuyển nhân tài, chứ đời Thái tôn tuy trọng văn từ thật, nhưng không khinh hẳn những môn ngày nay ta gọi là kĩ thuật hay chuyên môn: toán, luật, sử, thư pháp[2]... Qua được những môn đó rồi mới tới môn tứ thư, ngũ kinh, thi, văn. (theo Tsui Chi trong sách đã dẫn, tr. 125, 126).
Chính sách dùng thi cử để lựa người cai trị dân đó tiến bộ nhất đương thời, học giả phương Tây nào (nhất là các triết gia Pháp ở thế kỉ XVIII) cũng nhận vậy. Nó rất bình dân, làm cho quyền hành của giới quí tộc bị thay thế bằng quyền hành của tài năng, trí tuệ. Có thể nói văn minh Trung Hoa tồn tại được mấy nghìn năm một phần lớn là nhờ nó.
Đời sau, có lẽ từ nhà Tống, người ta quá coi trọng thi văn, coi thứ văn tám vế (phú) là cái thước để đo nhân tài, cứ thuộc nhiều câu sáo là đậu, không cần có thực học, có kiến thức, và cái tệ đó kéo dài mãi tới cuối đời Thanh trong 8 thế kỉ, chương trình học không làm cho tư tưởng tiến bộ, mà giai cấp sĩ sa đọa, thành một bọn quan lại cố hữu, vênh váo, độc tài, thường tham nhũng: có thời một tổ chức bán được tới 2 vạn bằng cấp, trước khi bị phát giác. Ngô Kính Tử, một tác giả đời Thanh (thế kỉ XVIII) đã phúng thính lối thi cử đó và mạt sát chế độ quan lại trong bộ Nho lâm ngoại sử, vậy mà nó vẫn tồn tại đến cách mạng Tân Hợi (1911) rồi mới bị bãi bỏ. Nhưng những tệ hại kể trên là do người không biết sửa đổi chế độ cho hợp thời, chứ không do chế độ, vì không có chế độ nào hợp lí hơn là tuyển người theo tài năng để giao chức vụ. Cho nên cách mạng chỉ bỏ lối dùng văn tám vế thôi mà thay vào nhiều môn khác, chứ chế độ thi cử cả thế giới đều giữ, không riêng gì Trung Hoa.
Ngày nay người ta không bắt thí sinh phải thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh nữa; nhưng thời chế độ quân chủ chuyên chế, sự học đó có tác dụng tốt. Nó tạo được một hạng sĩ phu có tư cách, nhớ trách nhiệm của mình đối với vua, với dân, dám can gián vua như Ngụy Trưng, chịu sống cảnh nghèo để giữ đạo, không sợ chết, sẵn sàng hi sinh khi quốc gia lâm nguy. Giới đó luôn luôn được quốc gia kính trọng, vua cũng phải nể và triều đại nào không biết quí họ thì triều đại đó tất sẽ sụp đổ.
Will Durant rất khen chế độ đào tạo được các sĩ phu đó. Ông viết: “Một xã hội mà nghĩ rằng phải thử dùng vào việc trị nước những người được đào tạo bằng triết học và cổ điển học, nội điều đó cũng đáng phục rồi. Chế độ ấy và tất cả nền văn minh làm cơ bản cho nó ngày nay bị lật đổ, tiêu diệt vì sức mạnh khốc liệt của sự tiến triển và của lịch sử, điều đó đáng kể là một tai họa cho nhân loại” (sách đã dẫn). Chỗ khác ông còn bảo “giá Platon biết được chế độ đó chắc phải thích lắm.”
Giáo dục.
Đời Tùy có các cơ quan giáo dục từ trung ương tới châu, huyện. Thái tôn cũng theo tổ chức đó, lập Sùng văn quán, Hoàng văn quán ở kinh đô chuyên dạy con quí tộc, đại quan liêu; ngoài ra lại lập các trường Quốc tử học, Đại học, Tứ môn học: Thư học, Luật học, Toán học, Đạo học, chủ yếu để đào tạo các chuyên viên, kĩ thuật gia. Ông suy tôn Nho giáo, khắc kinh và thư của đạo Nho lên bia đá. Ông lại mở Hoằng văn điện chứa 2 vạn quyển sách để học sĩ giảng cứu.
Văn hóa thời ông rất phát đạt. Các nước Nhật Bản, Cao Li, Thổ Phồn (Tây Tạng), Cao Xương (Tân Cương ngày nay) đều phái con em qua Tràng An du học. Nhật chịu ảnh hưởng nặng của Trung Hoa, có thể nói là Hoa hóa, từ thời đó.
Binh chế.
Tráng đinh phải làm lính làng mỗi năm một tháng. Ở biên cương quân lính phải đóng luôn 3 năm, có thể xin ở lại nhiều kì; họ thường phục vụ suốt đời dưới quyền một ông tướng.
Cải cách pháp luật.
Thái tôn phỏng theo luật đời Tùy mà cho soạn một bộ luật mới gồm 12 phần: danh lệ (tức nguyên tắc tổng quát); vệ cấm (hình pháp về cung điện và các cửa ải); chức chế (về quan lại); hộ hôn (về hộ tịch, hôn nhân); đạo tặc; đấu tụng; trá ngụy; tạp lục...
Có lệ có thể dùng đồng (để đúc tiền) mà chuộc tội, ví dụ bị tội đày xa 3.000 dặm thì chuộc bằng 120 cân đồng; nhưng 10 tội nặng (thập ác) như mưu phản, đại bất kính, bất hiếu... thì không được chuộc.
Lại có lệ giảm hình hay miễn hình cho những người trong hoàng tộc, những người tay chân cố cựu của Hoàng đế, những người có đức hạnh lớn, có tài năng lớn, có công lao lớn, những đại thần từ tam phẩm trở lên.
Khi Thái tôn mất, thái tử là Cao tôn lên nối ngôi, ban hành lệnh đại ân xá, thì vị thượng thư bộ Hình tâu rằng trong toàn quốc chỉ có 50 người bị tù và hai người bị xử tử. Điều đó chúng ta ngày nay khó tưởng tượng nổi. Sử gia Trung Hoa khen đời Thái tôn thịnh trị như đời Nghiêu, Thuấn, không phải là ngoa.
Cao tôn (650-684) bất tài, triều đình lại sinh loạn vì Võ hậu nên chỉ cố duy trì được sự nghiệp của cha, giữ được uy danh ở nước ngoài: đem quân đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) không thắng, phạt Triều Tiên cũng không thành công, nhưng cũng bắt được một tiểu quốc, Bách Tế, tại phía Nam Triều Tiên, phía Tây Tân La, phải phụ thuộc Trung Quốc.
2. Võ hậu tiếm ngôi (684-705)
Tư cách Võ hậu
Tính ông (Cao tôn) nhu nhược, hiếu sắc nên nhà Đường mới thịnh được mấy chục năm, lại bị cái nạn ngoại thích như nhà Hán, suýt mất vào tay một người đàn bà là Võ thị, như nhà Hán suýt mất vào tay Lữ thị, khiến nhiều người nghĩ đến luật trùng diễn trong lịch sử và buồn rằng lịch sử không bao giờ làm một tấm gương sáng cho loài người được.
Võ thị tên là Chiếu, vốn là một tài nhân - một hạng cung nhân tầm thường - của Thái Tôn. Khi Thái tôn đau, Cao tôn còn là thái tử, vào hầu, thấy Võ thị có sắc, đã yêu thầm. Thái tôn băng, Võ thị đi tu. Một hôm Cao tôn đến chùa hành hương, Võ thị trông thấy vua, khóc lóc; một đóa hoa lê mà đầm đìa giọt mưa thì không gì mê hồn bằng, nên Cao tôn bất chấp cả đạo hiếu, lời dị nghị của quần thần, quốc dân, cho nàng vào cung hầu mình, tức là lấy nàng hầu của cha, mang tội loạn luân như loài “hươu nai” (lời của Lạc Tân Vương, tác giả bài Hịch dẹp Võ Chiếu ).
Nàng đẹp mà lại thông minh, có học, có tài, có bản lãnh. Tên nàng là Chiếu; nàng đặt ra một lối viết khác: gồm chữ minh 明 là sáng ở trên, chữ không 空 là trống không ở dưới; chiếu nghĩa là ánh sáng (hoặc mặt trời 日, mặt trăng 月) ở trên rọi xuống khoảng trống ở dưới[3]. Nàng còn thay đổi cách viết của 18 chữ khác nữa.
Khi nàng đọc bài Hịch dẹp Võ Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát nàng thậm tệ, nàng đã không giận, còn khen Lạc là có tài và trách viên tể tướng đã không biết thu phục (Coi bản dịch bài Hịch đó trong Cổ văn Trung Quốc của tôi - đời Đường - Trong bản đó, tôi đã chép lầm Võ Chiếu ra Võ Anh). Đó, trí thông minh, bản lãnh của nàng như vậy, đàn ông cũng ít ai bằng: có sáng kiến, dám sửa đổi lối viết của cổ nhân, dám coi thường dư luận của mọi người đương thời. Cao tôn mê nàng và nghe lời nàng răm rắp là phải.
Mới vào cung được một năm, nàng đã tìm chuyện vu cho Hoàng hậu, Cao tôn phế hậu và lập nàng lên thay, gọi là Võ hậu (655). Cao tôn mắc một chứng của mắt, các quan tấu đối, nhiều khi không thấy rõ, sai nàng tài định, thấy vừa lòng, rồi cho nàng dự triều chính.
Lên ngôi hoàng đế. Nhà Chu.
Từ đó Võ hậu nắm hết chính quyền, gây phe đảng, tỉa lần những kẻ chống đối bà, nhất là những người trong hoàng tộc; trong thực tế bà là Hoàng đế chứ không phải Cao tôn nữa. Năm 680, bà phế thái tử rồi lập người khác, lại phế và lập nữa, như vậy hai ba lần. Khi Cao tôn băng, vua Trung tôn lên, bà vẫn giữ chính quyền, năm sau bà lại phế nữa, đày Trung tôn lại Phòng Châu, đưa một người khác lên. Sau cùng năm 690, bà lại phế vua đó nữa, tự xưng là Tắc Thiên Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Chu, phong vương cho cháu là Võ Tam Tư.
Từ Kính Nghiệp, một viên tư mã cử binh đánh bà, thua rồi chết. Một vài thân vương cũng đem quân chống bà, cũng bị giết. Thời này bọn tôn thất và đại thần nhiều người bị hại, mà bà càng tàn ác, dâm loạn.
Nhưng trong triều cũng có nhiều người theo bà, vì phục bà minh sát, quyết đoán đúng, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lí.
Địch Nhân Kiệt khi chết, tiến cử Trương Giản Chi thay mình làm tể tướng. Lúc này Võ Tắc Thiên đã già yếu bệnh tật, Một thân vương thuyết phục được Trương Giản Chi đem binh vào cung giết những kẻ sùng bế của bà rồi rước Trung tôn đã bị đày ở Phòng Châu về, lên ngôi vua. Bà bị truất ngôi nhưng không bị giết, sau chết vì bệnh, như vậy đủ biết triều đình không oán bà. Năm đó là năm 705, nhà Chu chấm dứt sau 15 năm thay nhà Đường.
Vi hậu.
Một điểm lạ lùng là Trung tôn tuy phục lại quốc hiệu là Đường rồi, mà ở triều đình lại diễn lại cái trò của Cao tôn. Vi thị cũng dự triều chính, lộng quyền, tư thông với Võ Tam Tư, giết hại bọn tể tướng Trương Giản Chi, rồi lại phế thái tử, giết Trung tôn, lập vua khác lên: Duệ tôn[4]. Sau cùng Vi hậu và họ hàng họ Võ đều bị tôn thất nhà Đường giết. Duệ Tôn ở ngôi 3 năm, truyền ngôi cho Huyền tôn, mà làm Thái Thượng hoàng.
*
Hai phe ở triều đình
Các sử gia Trung Quốc đều cho những rối loạn trong triều nhà Đường, đánh dấu buổi đầu của thời suy vi, đều do tội quá ham quyền, tàn bạo, dâm loạn của hai người đàn bà: Võ hậu và Vi hậu. Người ghét Võ hậu nhất là Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang), tác giả cuốn Lady Wu.
Nhưng ai đọc kĩ thời đó tất phải để ý đến mấy điểm khó hiểu này: Võ hậu tàn bạo, dâm loạn mà sao được nhiều đại thần tài giỏi hết lòng giúp,
Bà chỉ bị truất ngôi chứ không bị giết, cháu bà là Võ Tam Tư cũng được sống yên ổn,
Bà bị truất rồi, lại có một nhóm đại thần ủng hộ Vi hậu, để bà này đóng lại vai trò của Võ hậu, cũng dự triều chính, tư thông với Võ Tam Tư, người của Võ hậu, rồi lại phế thái tử, giết vua, lập vua khác.
Cơ hồ đứng sau lưng Võ hậu có cả một phe đảng chống chính sách của nhà Đường, của họ LÝ. Thời đó người Đột Quyết hoặc Thác Bạt chiếm được nhiều địa vị quan trọng trong chính quyền, cả trong quân đội. Giới sĩ tộc gốc ở phía Đông Trung Hoa không ưa họ vì đa số gốc ở phía Tây. Võ hậu ở trong giai cấp sĩ tộc, được họ ủng hộ, cho nên khi lên ngôi hoàng đế rồi, việc đầu tiên của bà là dời đô lại Lạc Dương ở phía Đông.
Eberhard còn đưa ra sự kiện này nữa mà tôi không thấy chép trong các bộ sử khác là sau sáu, bảy chục năm dưới sự bảo hộ của Trung Quốc, Đột Quyết đã hùng cường lên, thu phục được nhiều bộ lạc chung quanh, và sau khi Cao tôn chết, đã thành một đế quốc mạnh, muốn tỏ vẻ ngang hàng với nhà Đường. Năm 698, Khả hãn Đột Quyết không xin cưới công chúa Trung Hoa nữa, mà yêu cầu Trung Hoa cho một vương tôn qua làm rể Đột Quyết. Võ Tắc Thiên cho một thân vương nhỏ tuổi trong họ Võ, chứ không phải họ LÝ qua. Khả hãn Đột Quyết không chịu, buộc Võ Tắc Thiên phải đưa Trung tôn đã bị đày ở Phòng Châu trở về ngôi, nếu không thì sẽ đem quân qua đánh. Như vậy thì triều đình nhà Đường đã chia rẽ, có một phe ủng hộ Đột Quyết, nên họ mới ngạo nghễ như vậy. Họ mới cho quân qua xâm lăng thì Trung tôn đã được trở về ngôi, rồi Võ hậu chết.
Tóm lại, theo Eberhard, có sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe, một phe thân Đột Quyết, một phe chống; phe này gồm Võ hậu và giai cấp sĩ tộc; khi Võ hậu chết, giai cấp đó lại ủng hộ Vi hậu.
3. Thời rực rỡ: Huyền tôn.
Một ông vua nghệ sĩ
Thời Thái tôn là thời thịnh trị nhất, vua quan lo cho dân nhất, đoàn kết nhất, có tài, có đức nhất, dân chúng sung sướng nhất.
Nhưng nói đến đời Đường thì chúng ta nghĩ ngay đến Đường Minh Hoàng, và cả thế giới cũng cho đời Minh Hoàng là rực rỡ nhất của Trung Quốc về đời sống tinh thần (có lẽ cả vật chất nữa). Văn thơ, ca nhạc, họa, điêu khắc đều đua nhau phát triển trong khoảng 40 năm. Thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị được dịch ra khắp các ngôn ngữ, những nét chữ tươi mạnh trên các bức hoành, bức tranh, những tranh sơn thủy màu… thật nhã, nét thật rõ, những tượng nhỏ bằng ngọc thạch... được trưng bày trong các tàng cổ viện, các thư viện và được coi là những di sản quí báu của nhân loại, tiêu biểu cho văn minh và văn hóa Trung Hoa.
Minh Hoàng có lẽ là tên người đương thời tặng vua Huyền tôn. Thực ra Huyền tôn yêu mĩ nhân, ca hát quá, yêu thơ văn quá, rất tầm thường về chính trị, không đáng gọi là minh quân; ông chỉ là một vị hoàng đế rất tài hoa, yêu tất cả cái gì đẹp, có nhiều nghệ sĩ tính, biết làm thơ, đặt ra ca nhạc, vũ nữa; nghệ sĩ tính đó làm cho đời ông về già thật bi đát, dân chúng lầm than, quốc gia điêu tàn, và nhà Đường suy luôn, để rồi sau cùng bị diệt.
Ông lên ngôi năm 713, ở ngôi được 43 năm. Hồi đầu ông siêng năng, trừ bỏ những tệ chính đời Võ hậu, Vi hậu, và được vài vị đại thần có tài giúp đỡ: Diêu Sùng, Tống Cảnh. Họ ức chế bọn quá nhiều quyền hành, thường can gián ông và ông cũng chịu nghe lời họ.
Thời đó Thổ Phồn đã mạnh lắm, từ đời Võ hậu đã thường vào cướp phá biên giới, có khi xâm lấn nữa, triều đình phải chinh phạt nhiều năm, tốn kém khá nhiều.
Nhưng rồi ông hóa ra chơi bời xa xỉ, tên hoạn quan Cao Lực Sĩ được ông sủng ái, nắm hết quyền hành trong cung. Ở triều đình thì ông tin dùng Lý Lâm Phủ, một kẻ vô sở bất vi, tìm cách đưa Dương Ngọc Hoàn vào hầu ông. Ngọc Hoàn là vợ Thọ vương Mạo, con của ông. Nàng có sắc đẹp, thông minh, được sủng ái nhất trong cung, làm cho ông say đắm, mắc tội loạn luân, nặng gần bằng tội của Cao tôn. Người ta gọi nàng là Dương Quí phi và chép đời nàng rất nhiều trong truyện và tuồng, người thì thương cho cái chết của nàng, người thì trách nàng gây ra tất cả những cảnh khổ ở cuối đời Huyền tôn. Điều đó chỉ đúng một phần. Nàng đưa anh ruột, Dương Quốc Trung, vô triều đình làm hữu tướng, cùng với Lí Lâm Phủ quyết định mọi việc trong nước. Ba người em gái nàng, đều đẹp, lanh lợi, khôn khéo, với hai người em trai nàng đều được phong tước, sống một cách đế vương, có dinh thự, ngựa xe.
Kẻ gây họa lớn nhất cho nhà Đường thời đó là An Lộc Sơn (mẹ là người Đột Quyết, cha là người Hồ) có tài cầm quân nên được kiêm chức tiết độ sứ (võ quan giữ một miền ở biên cương) hai nơi. Mục trên tôi đã nói ở triều đình có hai phe, một phe thân Đột Quyết gồm họ Lý (họ nhà vua), một phe của giới sĩ tộc, chống lại phe trên. Lộc Sơn đứng về phe họ Lý, đúng hơn là muốn lợi dụng phe đó để mưu đồ riêng cho mình. Hắn xin về làm quan ở triều để gây thế lực. Hắn khéo phụng sự Lí Lâm Phủ và Dương Quí phi, xin làm con nuôi Quí phi, tự do ra vào trong cung cấm, có nhiều hành động không tốt. Dương Quốc Trung ngờ hắn có ý làm phản, tâu với Huyền tôn, ông không nghe. Khi Lí Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung mưu mô gạt phe họ Lý đi mà nắm hết quyền hành, như vậy là chống với An Lộc Sơn. Lộc Sơn bèn cử binh làm phản, đem bộ lạc và quân Khiết Đan, tất cả 15 vạn, từ Phạm Dương (nay ở Tây nam Bắc Kinh) kéo về Nam, không gặp một sự kháng cự nào cả (vì quân đội các châu quận sau một thế kỉ hòa bình không biết chiến đấu nữa) chiếm Hà Bắc, Hà Nam, hãm thành Lạc Dương (755) tự xưng là Yên đế (hoàng đế nước Yên). Một đạo quân của triều đình do Quách Tử Nghi (người Trung Hoa) và một đạo nữa do một tướng Đột Quyết cầm đầu xông ra chặn An Lộc Sơn; đạo quân của Quách thắng, còn đạo quân kia có nhiệm vụ bảo vệ Tây Kinh (Tràng An) thì thua, viên chỉ huy bị bắt. Lộc Sơn chiếm luôn được Tràng An.
Huyền tôn, Dương Quí phi, Dương Quốc Trung với 1.000 cấm binh phải bỏ kinh đô chạy trốn vào đất Thục, miền Tứ Xuyên. Thái tử chạy về phía Tây bắc Thiểm Tây.
Đường vô Thục hiểm trở, bọn cấm binh chán nản, tới Mã Ngôi, tướng sĩ đều ta oán, không chịu đi nữa. Họ nổi loạn, giết Dương Quốc Trung và hai người em gái của Quí phi, rồi hăng máu, đòi chém luôn cả Quí phi nữa, cho rằng mọi sự tại nàng và anh em nàng hết. Huyền tôn đứt ruột mà không thể cứu nàng được, đành để cấm binh buộc nàng phải tự treo cổ trên một cành cây bằng một tấm khăn lụa trắng. Thật là một bi kịch chưa từng thấy trong lịch sử, được Bạch Cư Dị chép lại trong bài Trường hận ca, và các văn nhân thời sau đưa lên sân khấu.
Đoàn vua tôi nhà Đường lủi thủi tiến vô Thành Đô (Tứ Xuyên). Từ đó Huyền tôn nhường ngôi cho con mà làm Thái Thượng hoàng, sống âm thầm cho tới chết.
*
Thái tử lúc đó ở Thiểm Tây, lên nối ngôi, tức vua Túc tôn, cùng với hai tiết độ sứ trung quân là Quách Tử Nghi và Lí Quang Bật, luyện binh để dẹp giặc. Ông sai sứ mượn binh của nước Hồi Hột, sai Quách và Lí điều khiển. May sao, phía giặc chẳng bao lâu có một nội loạn: Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết, quân của Quách, Lí đại thắng, thừa thế thu phục lại được hai kinh đô Tràng An và Lạc Dương. Một tướng của giặc là Sử Tư Minh về hàng, Khánh Tự như cua mất càng, chạy trốn.
Sử Tư Minh được Túc tôn cho làm tiết độ sứ ở Phạm Dương. Lúc đó Khánh Tự thất thế, xin Tư Minh che chở cho, bị Tư Minh giết. Thấy thế của mình đã mạnh, Tư Minh tự xưng là hoàng đế nước Đại Yên, lại đem quân chiếm Lạc Dương, không bao lâu lại bị con là Triều Nghi giết.
Năm 762, Huyền tôn và Túc tôn đều chết cách nhau ít tháng. Quân cứu viện của Hồi Hột (toàn là kị binh) thắng được Triều Nghi, lấy lại Lạc Dương. Đại tôn lên ngôi. Loạn An, Sử (tức An Lộc Sơn và Sử Tư Minh) chấm dứt. Chỉ trong có 7 năm (755-762) mà Trung Quốc bị tàn phá không tưởng tượng nổi. Sử chép dân số giảm đi tới hơn 2/3, tức 53 triệu xuống còn 17 triệu[5].