Chương 30
Tác giả: Phan Quang
Hôm ấy là một ngày Thứ tư. Anh thường tỉnh giấc lúc mặt trời mọc, nhưng hôm ấy vì người quá suy nhược, hơn nữa cũng chẳng có gì vội vã nhòm ngóng chân trời, anh cứ nằm yên cho mãi đến lúc nắng đốt rát mặt. Lúc ấy khoảng mười giờ sáng. Đảo mắt nhìn quanh, anh giật bắn người như chạm phải điện. "Một chiếc tàu!" Anh reo to. Quả vậy, đằng sau, về mạn phải, cách chừng hai dặm rưỡi, có một chiếc tàu đang đi theo hướng sẽ cắt ngang trước mũi xuồng. Đó là một chiếc tàu chở hàng lớn, đang đi chậm. Có vẻ như chẳng có ai trên tàu nhìn thấy chiếc Ngược đời. Anh bổ tới chiếc dụng cụ đo độ cao mặt trời, lấy tấm gương hắt những tia nắng về phía tàu. Sau một thời gian -mà anh cho là lâu đến không chịu đựng nổi -anh nhận ra chiếc tàu đổi hướng và tiến về phía mình. Tinh thần lập tức phấn chấn hẳn lên. Tin chắc mười mươi chiếc tàu này chuẩn bị cập một cảng nào đó thuộc quần đảo Ăng-ti, và như vậy rõ ràng anh sắp tới đích. Anh buộc lá quốc kỳ lên đầu mái chèo. Tự hào xiết bao khi anh nhìn thấy chiếc tàu đang tiến đến kia kéo lên hạ xuống ba lần lá cờ hiệu của nó: ấy là dấu hiệu chào truyền thống của những chiến hạm gặp nhau giữa đại dương. Anh vẫy cờ của mình đáp lại. Thuyền trưởng hỏi bằng tiếng Anh, qua một cái loa:
-Ngài cần chúng tôi giúp đỡ gì chăng?
-Xin vui lòng cho biết giờ chính xác và kinh độ chính xác của tôi lúc này.
-Kinh độ 49o50. Có nghĩa là cách tọa độ anh vẫn đinh ninh đến mười độ: hơn sáu trăm hải lý. Thảo nào ! Anh có cảm giác như mình vừa bị nện một cú vào đầu. Vô cùng thất vọng, anh cầm mái chèo, lái chiếc xuồng cặp sát mạn tàu, miệng lẩm bẩm:
“Thây kệ... Dù sao ta cũng chịu đựng năm mươi ba ngày rồi. Bỏ cuộc thôi".
-Ngài muốn lên tàu chăng? Nghe hỏi, anh lại nghĩ:
“Thây kệ. Ta yêu cầu họ cho lên vậy. Cuộc thực nghiệm kết thúc ở đây. Dù sao cũng đã qua năm mươi ba ngày. Thử thách như vậy đủ rồi!" Anh lên tàu. Đó là chiếc A-ra-ka-ka vừa chở hàng vừa chở khách, từ cảng Li-vơ-pun (Anh) đến. Một người thấp nhưng vạm vỡ, khoảng năm mươi tuổi nồng nhiệt bắt tay anh. Đó là thuyền trưởng Ca-tơ người Li-vơ-pun. ông nói ngay:
-Chúng tôi sẵn sàng chở ông cùng với tất cả vật liệu, đo đạc đến Gióoc-giơ -tao, thuộc Guy-an. Chúng tôi đến cảng ấy. Anh buột miệng đáp :
“Vâng", nhưng chững lại ngay. Rồi bao nhiêu bạn bè sẽ nói:
“Đấy, mày có vượt được Đại Tây Dương đâu". Năm mươi ba ngày chịu đựng của anh sẽ chẳng mang lại lợi ích gì. Muốn cho mọi người hoàn toàn tin tưởng, muốn cho công trình của anh có thể cứu sống nhiều nhân mạng, nó phải thành công hoàn toàn. Có như thế niềm hy vọng nó mang lại cho các giới đi biển mới thật sự to lớn. Vì vậy, anh xin thuyền trưởng cho suy nghĩ một chốc rồi sẽ trả lời. Trong khi chờ đợi, thuyền trưởng mời anh tắm nước ngọt. Vừa khoan khoái hứng nước phun ra từ hương sen, anh vừa nhẩm tính : nếu cứ đi với tốc độ như những ngày vừa qua, thì khoảng hai mươi ngày nữa sẽ tới đất. Như vậy, vào khoảng mùng ba tháng giêng năm sau sẽ cập bờ. Và anh quyết định: tiếp tục cuộc hành trình đơn độc. Thuyền trưởng hỏi, trong lúc anh đang tắm:
-ông dùng chút gì nhé? Anh kiên quyết từ chối. Thuyền trưởng nài:
-ông không thể khước từ một bữa ăn uống chúng tôi mời. Bữa ăn ấy, anh sẽ còn nhớ lâu, bữa ăn đầu tiên sau năm mươi ba ngày, gồm một quả trứng lập là, một mẩu bê, rất bé, gan bê, một thìa cải bắp, cùng hai, ba trái cây. Sau này nhiều bạn bè chỉ trích anh về bữa ăn này. May mà nó không gây rối loạn nghiêm trọng cho bộ máy tiêu hóa. Tiếp đó, anh nhờ đánh một bức điện cho vợ. Thuyền trưởng mời đi thăm tàu. Tiện nghi trên tàu rất sang, đầy sức cám dỗ với một người vừa chịu đói khát, gian nan. Anh nhắc đi nhắc lại để tự động viên mình:
“Hai mươi ngày, chỉ còn hai mươi ngày nữa thôi mà". Thế là bước chân loạng choạng tay cũng còn khá vững, anh đến chỗ mạn tàu, nơi người ta móc sẵn một thang dây cho anh xuống trở lại chiếc Ngược đời. Thuyền trưởng rất xúc động. Đoàn thủy thủ khích lệ anh. Họ hẹn sẽ gặp nhau trên mặt đất. Vừa lúc anh xuống hết thang dây, thuyền trưởng thiết tha gọi với:
-Tôi có thể làm gì nữa giúp ông? Nhất định tôi làm được một việc gì cho ông chứ? ông thích gì? ông có yêu cầu gì không? Sực nhớ từ khi lên đường vượt đại dương, anh chưa lần nào được nghe Bách, một nhạc sĩ yêu thích, anh liền đáp: ước mong của mình là được, trong đêm Nô-en, nghe bản Hòa tấu số 6 Bran-cơ-buốc của nhạc sĩ này.
-Nếu cần, tôi sẽ khuấy động cả thế giới để thực hiện cho bằng được điều mong ước của ông. Xin hứa danh dự là đêm Nô-en, ông sẽ được nghe bản nhạc ông thích. Chiếc A-ra-ka-ka đợi xuồng anh ra khá xa mới nổ máy, để cho nó khỏi bị cuộn trong luồng sóng xoáy do chân vịt tạo thành. May sao, vừa lúc ấy gió lên. Anh giương buồm, nhằm hướng tây thẳng tiến. Trong tiếng còi rúc vang, chiếc A-ra-ka-ka kéo cờ hiệu ba lần, long trọng chào tạm biệt. Cuộc gặp gỡ diễn ra chừng một giờ.
Hôm ấy là một ngày Thứ tư. Anh thường tỉnh giấc lúc mặt trời mọc, nhưng hôm ấy vì người quá suy nhược, hơn nữa cũng chẳng có gì vội vã nhòm ngóng chân trời, anh cứ nằm yên cho mãi đến lúc nắng đốt rát mặt. Lúc ấy khoảng mười giờ sáng. Đảo mắt nhìn quanh, anh giật bắn người như chạm phải điện. "Một chiếc tàu!" Anh reo to. Quả vậy, đằng sau, về mạn phải, cách chừng hai dặm rưỡi, có một chiếc tàu đang đi theo hướng sẽ cắt ngang trước mũi xuồng. Đó là một chiếc tàu chở hàng lớn, đang đi chậm. Có vẻ như chẳng có ai trên tàu nhìn thấy chiếc Ngược đời. Anh bổ tới chiếc dụng cụ đo độ cao mặt trời, lấy tấm gương hắt những tia nắng về phía tàu. Sau một thời gian -mà anh cho là lâu đến không chịu đựng nổi -anh nhận ra chiếc tàu đổi hướng và tiến về phía mình. Tinh thần lập tức phấn chấn hẳn lên. Tin chắc mười mươi chiếc tàu này chuẩn bị cập một cảng nào đó thuộc quần đảo Ăng-ti, và như vậy rõ ràng anh sắp tới đích. Anh buộc lá quốc kỳ lên đầu mái chèo. Tự hào xiết bao khi anh nhìn thấy chiếc tàu đang tiến đến kia kéo lên hạ xuống ba lần lá cờ hiệu của nó: ấy là dấu hiệu chào truyền thống của những chiến hạm gặp nhau giữa đại dương. Anh vẫy cờ của mình đáp lại. Thuyền trưởng hỏi bằng tiếng Anh, qua một cái loa:
-Ngài cần chúng tôi giúp đỡ gì chăng?
-Xin vui lòng cho biết giờ chính xác và kinh độ chính xác của tôi lúc này.
-Kinh độ 49o50. Có nghĩa là cách tọa độ anh vẫn đinh ninh đến mười độ: hơn sáu trăm hải lý. Thảo nào ! Anh có cảm giác như mình vừa bị nện một cú vào đầu. Vô cùng thất vọng, anh cầm mái chèo, lái chiếc xuồng cặp sát mạn tàu, miệng lẩm bẩm:
“Thây kệ... Dù sao ta cũng chịu đựng năm mươi ba ngày rồi. Bỏ cuộc thôi".
-Ngài muốn lên tàu chăng? Nghe hỏi, anh lại nghĩ:
“Thây kệ. Ta yêu cầu họ cho lên vậy. Cuộc thực nghiệm kết thúc ở đây. Dù sao cũng đã qua năm mươi ba ngày. Thử thách như vậy đủ rồi!" Anh lên tàu. Đó là chiếc A-ra-ka-ka vừa chở hàng vừa chở khách, từ cảng Li-vơ-pun (Anh) đến. Một người thấp nhưng vạm vỡ, khoảng năm mươi tuổi nồng nhiệt bắt tay anh. Đó là thuyền trưởng Ca-tơ người Li-vơ-pun. ông nói ngay:
-Chúng tôi sẵn sàng chở ông cùng với tất cả vật liệu, đo đạc đến Gióoc-giơ -tao, thuộc Guy-an. Chúng tôi đến cảng ấy. Anh buột miệng đáp :
“Vâng", nhưng chững lại ngay. Rồi bao nhiêu bạn bè sẽ nói:
“Đấy, mày có vượt được Đại Tây Dương đâu". Năm mươi ba ngày chịu đựng của anh sẽ chẳng mang lại lợi ích gì. Muốn cho mọi người hoàn toàn tin tưởng, muốn cho công trình của anh có thể cứu sống nhiều nhân mạng, nó phải thành công hoàn toàn. Có như thế niềm hy vọng nó mang lại cho các giới đi biển mới thật sự to lớn. Vì vậy, anh xin thuyền trưởng cho suy nghĩ một chốc rồi sẽ trả lời. Trong khi chờ đợi, thuyền trưởng mời anh tắm nước ngọt. Vừa khoan khoái hứng nước phun ra từ hương sen, anh vừa nhẩm tính : nếu cứ đi với tốc độ như những ngày vừa qua, thì khoảng hai mươi ngày nữa sẽ tới đất. Như vậy, vào khoảng mùng ba tháng giêng năm sau sẽ cập bờ. Và anh quyết định: tiếp tục cuộc hành trình đơn độc. Thuyền trưởng hỏi, trong lúc anh đang tắm:
-ông dùng chút gì nhé? Anh kiên quyết từ chối. Thuyền trưởng nài:
-ông không thể khước từ một bữa ăn uống chúng tôi mời. Bữa ăn ấy, anh sẽ còn nhớ lâu, bữa ăn đầu tiên sau năm mươi ba ngày, gồm một quả trứng lập là, một mẩu bê, rất bé, gan bê, một thìa cải bắp, cùng hai, ba trái cây. Sau này nhiều bạn bè chỉ trích anh về bữa ăn này. May mà nó không gây rối loạn nghiêm trọng cho bộ máy tiêu hóa. Tiếp đó, anh nhờ đánh một bức điện cho vợ. Thuyền trưởng mời đi thăm tàu. Tiện nghi trên tàu rất sang, đầy sức cám dỗ với một người vừa chịu đói khát, gian nan. Anh nhắc đi nhắc lại để tự động viên mình:
“Hai mươi ngày, chỉ còn hai mươi ngày nữa thôi mà". Thế là bước chân loạng choạng tay cũng còn khá vững, anh đến chỗ mạn tàu, nơi người ta móc sẵn một thang dây cho anh xuống trở lại chiếc Ngược đời. Thuyền trưởng rất xúc động. Đoàn thủy thủ khích lệ anh. Họ hẹn sẽ gặp nhau trên mặt đất. Vừa lúc anh xuống hết thang dây, thuyền trưởng thiết tha gọi với:
-Tôi có thể làm gì nữa giúp ông? Nhất định tôi làm được một việc gì cho ông chứ? ông thích gì? ông có yêu cầu gì không? Sực nhớ từ khi lên đường vượt đại dương, anh chưa lần nào được nghe Bách, một nhạc sĩ yêu thích, anh liền đáp: ước mong của mình là được, trong đêm Nô-en, nghe bản Hòa tấu số 6 Bran-cơ-buốc của nhạc sĩ này.
-Nếu cần, tôi sẽ khuấy động cả thế giới để thực hiện cho bằng được điều mong ước của ông. Xin hứa danh dự là đêm Nô-en, ông sẽ được nghe bản nhạc ông thích. Chiếc A-ra-ka-ka đợi xuồng anh ra khá xa mới nổ máy, để cho nó khỏi bị cuộn trong luồng sóng xoáy do chân vịt tạo thành. May sao, vừa lúc ấy gió lên. Anh giương buồm, nhằm hướng tây thẳng tiến. Trong tiếng còi rúc vang, chiếc A-ra-ka-ka kéo cờ hiệu ba lần, long trọng chào tạm biệt. Cuộc gặp gỡ diễn ra chừng một giờ.