- 13 -
Tác giả: Hans Speidel
Trong cuộc bị phi cơ địch tấn công ngày 17 tháng 7. thống chế Rommel, ngoài các mảnh bom trên đầu và một vết thương ở mắt trái, đã bị một vết nứt trầm trọng sau sọ, các vết thương làm bể má và xương hàm. Tiếp theo sau một vụ chấn động trầm trọng của bộ óc, ông bị bất tỉnh nhân sự thật lâu. Sáng ngày 22 tháng 7 khi viên tham mưu trưởng của ông đến thăm ông tại bệnh xá dã chiến của không quân tại Bernay ông đa hoàn toàn hồi tỉnh. Rommel hỏi ông này về tình hình mặt trận đang bị áp lực nặng nề về các binh sĩ và về các biến cố ngày 30 tháng 7. Ông nói ra các hậu quả chính trị của biến cố ấy mà chính ông cũng cho rằng không thể nào lường được.
Khi mũi tấn công tại Caen trở nên đáng ngại, ông được chuyển đến bệnh viện dã chiến ở Vesinet gần Saint - Germain. Mặc dầu các báo cáo chi tiết gửi cho bộ tư lênh tối cao quân lực và cho báo chí, không một tin tức naoflieen quan đến tình trạng thương vong của thống chế được phổ biến trên báo chí và đài phát thanh. Trong khi đó biết rằng Hitler đang tìm cách quy trách nhiệm cho ông về tình hình nguy ngập của mặt trận Normandie, Rommel thấy sự công bố cho công chúng biết về sự bị thương của ông ngày 17 tháng 7 là vô cùng quan trọng đối với ông.
Sau khi Avranches bị chọc thủng, và vì thế sau 3 tuần lễ một thông cáo không đề ngày đã xuất hiện trên báo chí và đài phát thanh liên quan đến một "tai nạn xe hơi" đã xảy đến cho thống chế. Rồi im lặng bao trùm chở lại. Rommel đòi hỏi một cách vô ích, sự soát xét lại bản tin về sự bị thương của ông mà do thượng cấp đã bị bóp méo. Ngày 8 tháng 8 thể theo ý muốn của ông, người ta đã chuyển ông về Herrlingen gần Ulm trên bờ sông Danube để được vợ ông chăm sóc và được các giáo sư ở Tubingen, các bác sĩ Albrechi và Stock chữa chạy. Phương cách này đã đem lại kết quả tốt : tại nơi sinh quán, thống chế bình phục thật nhanh, trái với sự chờ đợi của mọi người.
Ngày 6 tháng 9, trong cuộc viếng thăm mới nhất viên tham mưu trưởng thấy ông có vẻ tươi tỉnh và sinh động, mắt trái cho đên lúc đó phải nhắm kín nay đã bắt đầu mở hé được. Thống chế hy vọng sẽ hoàn toàn bình phục trong bốn tuần lễ hay ít ra cũng là di chuyển được. Viên tham mưu trưởng cho ông biết tình hình và sự bị thay thế của mình: điều này tạo thành một sự báo trước mới đối với Rommel. Những biến cố xảy ra sau ngày 20 tháng 7 được đem ra thảo luận cặn kẽ. Nhân dịp này thống chế đã nói về Hitler: "tên dối trá bệnh hoạn ấy đã trở nên hoàn toàn điên khùng. Hắn ta đã xoay tính bạo dâm rõ rệt của mình nhằm vào những người của ngày 20 tháng 7 và chúng ta sẽ còn thấy nhiều chuyện nữa".
Rommel tự dằn vặt và trước một tình thế ngày càng tệ hại, ông có tìm kiếm đường lối và phương tiện để thoát ra. Nhưn từ mùa xuân năm 1944 và nhất là từ vụ mưu sát ngày 20 tháng 7 những viễn cảnh của một kết thúc êm đẹp có thể chấp nhận được, đã trở nên yếu ớt.
Rommel giao cho viên tham mưu trưởng trình bầy với tướng Guderian trong một phiên báo cáo dự liệu vào ngày 8 tháng 9 tại tổng hành dinh của Fuhrer, các ý kiến sau: các điều kiện của địch có đến thế nào chăng nữa, miễn là còn có thể chịu đựng được thì phải chấm dứt chiến tranh tại miền Tây trước khi bưc tường phía Tây và con sông Rhin tuột khỏi tay quân Đức và trước khi sự tàn phá của chiến tranh tràn ngập đất mẹ Cần phải tung về phía Đông tất cả lực lượng của Đức, vì lẽ mùa đông đem lại ưu thế cho hồng quân sắp đến rồi. Kinh nghiệm của những năm trước chỉ có thể tạo thêm nhiều âu lo trầm trọng. Thanh toán Hitler là vấn đề lớn cần thiết hơn bao giờ hết. Riêng phần ông Rommel, ông không muốn lùi bước trước số phận. Sau khi bình phục ông tuyên bố sẵn sàng không ngần ngại gì cả, nhập cuộc và đảm nhận bất cứ nhiệm vụ nào.
Một tuần lễ trước khi ông chết, ông còn nói với viên bác sĩ điều trị: "tôi sợ rằng tên điên khungfaays dám hy sinh đến người Đức cuối cùng trước khi hắn chết".
Từ một năm qua thống chế đã thu thập được nhiều tin tức và những dấu hiệu cho thấy ông đang bị cơ quan an ninh theo dõi, đặc biệt là trong thời gian ông nghỉ dưỡng bệnh tại Herrlingen. Ngay từ mùa xuân năm 1044 cơ quan này hình như đã báo cáo với Himmler rằng ông thuộc thành phần hủ bại.
Ngày 13 tháng 10 ông đến tăm một bạn cũ và bạn đồng ngũ cùng chiến đấu trong cùng một sư đoàn xưa, trung tá trừ bị Oskar Farny tại Duren gần Wangen trong vung Allgan. Trong một cuộc hội ngộ này ông tuyên bố với bạn : "một tai hoạ hiểm nghèo đang đe doạ tôi, Hitler muốn loại trừ tôi. Nguyên nhân khiến hắn ta làm thế là: bức tối hậu thư ngày 15 tháng 7 của tôi, sự tự do và sự lương thiện của các lời phát biểu của tôi, biến cố ngày 20 tháng 7, au cùng cá báo cáo của đảng quốc xã và của cơ quan an ninh. Nếu có chuyện gì xẩy ra cho tôi xin anh chăm sóc giùm con trai tôi".
Khi Farny biện bác ông và cho rằng vì các lý do tâm lý, Hitler không thể nào thiết lập một phiên toà để kết tội một vị tư lệnh nổi danh hơn hết trong số các lãnh tụ quân sự của ông ta, Rommel đáp: "không, anh se thấy hắn ta sẽ sát hại tôi. Là một cong người chính trị, anh hẳn biết rõ tên tội phạm ấy hơn tôi. Hắn sẽ không lùi bước ngay cả trước điều đó".
Về cái chết của thống chế chúng ta có hình ảnh sau, theo lời vợ ông là bà Lusie Marie Rommel kể lại, và theo các lời khai của các nhân chứng mắt thấy tai nghe:
Ngày 7 tháng 10 thống chế được mời bằng điện thoại đến dự "một phiên họp quan trọng tại bản doanh của Fuhrer". Vì lẽ theo ý kiến của các bác sĩ thì ông chưa có thể đi xa được nên ngày 14 tháng 10 Hitler cử các tướng Burgdorf và Maisel đến Herrlingen. Sua một cuộc nói chuyện ngắn ngủi giữa Burgdorf và thống chế, ông nói với vợ bằng một giọng nói như hồn ma : "tôi sẽ chết trong vòng 15 phút nữa. Do lệnh của Hitler, tôi được lựa chọn hoặc uống thuốc độc tự tử hoặc sẽ bị đưa ra trước toà án nhân dân".
Trong cuộc nói chuyện với tướng Brgdorf ông này báo cho thống chế biết rằng theo cung từ của các nhân vật bị bắt và bị kết án, ông bị buộc tội là đã tham dự vào phong trào ngày 20 tháng 7 năm 1944, và rằng một khi cuộc nổi dầy thành công người ta còn dự tính cả việc đưa ông lên làm quốc trưởng. Rommel còn cư xử cách nào được nữa trước lời buộc tội mà ông phủ quyết? Cho đến nay sự kiện này không được soi sáng rõ ràng. Duy có điều chắc chắn là sau cuộc nói chuyện đó, ông giã biệt gia đình và người sĩ quan tuỳ tùng viên của ông. Đại uý Aldinger và ông rời khỏi nhà cùng hai viên tướng lĩnh.
Trong thời gian đó các lối ra vào Herlingen và các khu kế cận tư dinh của thống chế bị các toán tuần tiễu SS vũ trang súng tự động chiếm giữ. Sau một chặng đường ngắn, đi trên một chiếc xe do một tên SS lại, thống chế chết cứng, được hai viên tướng đưa về trạm cấp cứu của trường Wagner tại Ulm.
Tướng Burgdorf cấm viên y sĩ trạm trưởng y tế ấy, bác sĩ Mayer thực hiện một cuộc giải phẫu tử thi và nói: "đừng đụng đến xác chết, mọi chuyện đã được thu xếp tại Berlin"
Người ta giải thích với bà Rommel rằng thống chế đã chết vì chứng tắt huyết, nhưng nét mặt của ông mang một vẻ kinh ngạc gớm ghiếc.
Kết cuộc bi hùng ấy đã xẩy ra như thế nào? Theo cá lời khai của Keitel tại Nuremberg, người ta biết rằng mệnh lệnh Burgdrf nhận được xuất phát từ chính các nhân Hitler, chính Hitler đã đề xuất sự bịa đặt bệnh tắt huyết, ngay cả khi có sự hiện diện của những người thân cận nhất cảu ông ta: Goering, Doenitz, Jodl và những người khác.
Bức công điện gửi cho binh đoàn B có một nội dung như sau: "thống chế Rommel đã chết sau một tai nạn xe hơi". TỐi ngày 13 tháng 10 Rommel đã nói với bà Farny: "nếu có chuyện gì xẩy ra cho tôi, đừng tin rằng tôi đã tự sát". Trong trường hợp cuộc hành quyết này, cũng như cuộc hành quyết Socrate, có thể là một cuộc tự tử vậy thì thông chế đã xem nói như một gương hy sinh như một lời hiệu triệu dân tộc.
Vụ sát hại thống chế Rommel vẫn phải được giấu kỹ với dân tộc Đức. Ngày 18 tháng 10 trong một buổi lễ chính thức tổ chức để tưởng niệm thống chế tại toà thị chính Ulm, Hitler cố gắng che đậy vụ mưu sát bằng một cuộc xúc phạm làm mất hết giá trị xác chết về phương diện chính trị chưa từng thấy trong lịch sử, hy vọng như vậy sẽ là các dấu vết biến đi. Ông ta cũng như các nhân vật quan trọng của đảng quốc xã không một ai xuất hiện trong buổi tang lễ. Chỉ có giám đốc cơ quan an ninh trung ương, tiến sĩ Kaltenbrunner đích thân canh chừng cuộc bố trí. Tiến sĩ Berndt giám đốc tại bộ tuyên truyền tuyên bố với bà Rommel sau tang lễ: "lãnh tụ SS không có mặt nhưng ông rất cảm động".
Chính thống chế Von Rundstedt đã được cử đại diện Hitler. Ông đã độc một điếu văn mà nội dung đã gồm một sự xác định đầy bi thống: "tim ông thuooch về Fuhrer". Nhưng ông đã không hiện diện lúc hoả táng được tổ chức ngay sau buổi lễ và không vào nhà xác tại Herrlingen. Trước tất cả những người tham dự, người quân nhân già ấy có vẻ tan tác và bơ phờ.
Vài thang sau, ba Lucie Marie Rommel nhận được bức thư sau đây:
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUỐC GIA
ĐẶC TRÁCH KIẾN THIẾT
NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI ĐỨC QUỐC
Berlin Grunewald, Lassenstr 32-31
(13b) Chatcau de Leutstetten tại Starnlerg Obb. Điện thoại 23-88 Starnlerg, Gen Gt
Kính gửi
Bà Rommel
Herrlingen, gần Ulm
Ngày 7 tháng 3 năm 1945
Kính thưa bà Rommel
Fuhrer đã giao cho tôi thiết lập một đài kỷ niệm để tưởng nhớ đến ông nhà, General feldmarschall Erwin Rommel. Do ý muốn của Fuhrer tôi đã dò hỏi nhiều điêu khắc gia, họ đã được yêu cầu nhóm họp lại để chuyên cho tôi các dự thảo về đề án đài kỷ niệm này. Vì lẽ hiện trong tình trạng hiện tại, kích thước của đài không cho phép xây cất lẫn di chuyển, cho nên đài chỉ có thể được thực hiện dưới mô hình mà thôi. Nhưng ngay từ bây giờ tôi đã có ý nghĩ là làm thêm vào ngôi mộ hiện nay một đài kỷ niệm đơn giản hơn, dưới hình thức một tấm bia tưởng niệm lơn trên đó sẽ khắc tên và các biểu hiện, tấm bia này sẽ rộng chừng một thước và cao một thước tám. Biểu hiện năm trên hết là huân chương cao quí nhất đã được ban cấp cho thống chế.
Mặt khác tôi cũng tính rằng nên biểu hiện tích cách anh hùng và vinh quang vĩ đại cảu thống chế dưới hình thức một con sư tử, giáo sư Thorak đã vẽ kiểu một thân sư tử gục chết, giáo sư Breker vẽ kiểu một con sư tử đang gầm thét và điêu khắc gia Lochner, một con sư tử đang ở trong vị thế chiến đấu. CHính hình ảnh sau cùng là hình ảnh được tôi chọn lựa để chạm nổi trên bia mộ, bởi chính vì nó theo ý tôi, tạo ra nhiều hiệu quả nhất. Tuy nhiên nếu bà thấy thích tôi cũng có thể cho tạc lên bia hình ảnh một con sư tử gục chết nhìn nghiêng do giáo sư Thorak vẽ.
Tấm bia mộ này phải được thực hiện ngay, vì tôi vừa mới nhận được một giấy phép đặc biệt của ông tổng trưởng Speer. Thật vậy, các bia mộ bằng đá dù tạc cho các chiến sĩ kể cả những người đã được ban tặng huy chương thập tự sắt, không được phép thực hiện nữa. Song le tôi đã được phép thực hiện và trình bày công tác trong một vài trường hợp đặc biệt. Nếu bà đồng ý. Tôi có thể xử dụng chúng lần đầu tiên trong việc xây cất đài tưởng niệm của vị anh hùng Rommel và như vậy ngôi mộ của thống chế sẽ có thể được tôn vinh trong một thời hạn ngắn nhất.
Heil Hitler.
Ký tên: tiến sĩ Kreis
Cố vấn kiến trúc quốc gia.
Thế nhưng trong dân chúng và trong quân dội tin đồn huyễn từ người này qua người kia: "Ông đã bị sát hại".
Những nguyên nhân khiến cho Hitler loại trừ thống chế Rommelbawts nguồn từ thời kỳ có cuộc chiến bắc phi, nhưng nhất là các biến cố mùa hè năm 1941.
Một chuyện truyền kỳ do Goebbels tung ra cho rằng Rommel là một trong các S.A - Fuhrer đầu tiên (bài viết trong tuần báo Das Reich). Thật ra không bao giờ Rommel rời quân ngũ và chẳng bao giờ thuộc nhóm S.A cả. Một sự kiện kho sự xác định nói trên có thể loan truyền được đó là Rommel từng làm sĩ quan liên lạc giữa bộ tổng tư lệnh tối cao quân lực và bộ chỉ huy lực lượng thanh thiếu niên lúc người ta thảo luận về công tác chuẩn bị tiền quân sự cho lực lượng này (1936). Trong hai năm đầu tiên của chính quyền quốc xã, Rommel lúc đó đang chỉ huy một tiểu đoàn tại Goslar, trong thâm tâm ông đã chống Hitler rồi. Sau các biện pháp độc tài ban hành ngày 30 tháng 6 năm 1934 và nhất là sau các vụ ám sát mà thủ phạm không bị trừng phạt, các tướng lĩnh Von Schleicher và Von Bredow ông ta đã thuyên bố với người bạn là Oskar Farny rằng: "bây giờ đã đến lúc phải tiễu trừ Hitler và bè lũ của y".
Sau tuyên cáo "tự do vũ trang" vào tháng 3 năm 1935, Rommel quả thật ngày càng tỏ ra khâm phục và vị nể đối với cá nhân Hitler mà ông coi như là "người kết hợp dân tộc" trong một tình trạng chia rẽ tả tơi của vô số chính đảng cũng như là người giải phóng "những điều khoản ô nhục của hiệp ước Versailles" và là "người chiến thắng nạn thất nghiệp".
Lúc đó ông bắt đầu tin vào các mục tiêu và lý tưởng hoà bình của Hitler. Ông cũng rất cảm xúc khi thấy Hitler có đức tính hoà giải, dung hợp. Rommel tôn vinh sự tự do vũ trang như là biểu tượng hữu hình cho sự tái lập chủ quyền của Đức quốc. Ông tin đã tin rằng các đại cường Tây Âu sẽ thấy qua cuộc tái vũ trang Đức quốc như một thứ "đập ngăn chặn chủ nghĩa Bôn sê vích" thật sự.
Thoạt kỳ thuỷ Rommel không hiểu rằng chiến tranh không những chỉ là một hành động quân sự mà còn là một cuộc điều động chính trị nữa. Khi trận chiến lại miền tây vừa chấm dứt năm 1940, Rommel bắt đầu cảnh giác vừa về phương diện các tư tưởng chính trị lẫn về phương diện chiến lược của chế độ quốc xã. Nhiều kinh nghiệm cay đắng đã xác nhận những cảm nghĩ này của ông. Trong và sau trận chiến El Alamein, lần đầu tiên ông chống đối mơ ước thống trị toàn cầu của Hitler. Chính trong thời kỳ này sự ngờ vực của Hitler bắt đầu, mặc dù ông ra vẫn sử dụng "Rommel đàng hoàng" nay để phục vụ dân tộc Đức. Chính vì vậy mà ông ta đã làm cho Rommel nổi bật lên hơn bất cứ tướng lĩnh nào khác. Hitler đã cố ý làm điều đó vì ông tin rằng như vậy là có thể nắm được người quân nhân lão luyện để chống lại bộ tổng tham mưu mà ông ta thù ghét.
Rommel đã mở mắt ra không chỉ những trong lĩnh vực chính trị và quân sự, mà còn trên cả bình diện nhân đạo nữa. Ông khám phá được tính cách phi luân ngày càng tăng gia của chế độ. Nhằm đưa quốc gia và quân đội xuống hàng cơ cấu chấp hành của đảng. Đã nhiều lần Rommel phản đối sự vi phạm luật pháp mà theo ông chắc chắn sẽ mau lẹ đưa quốc gia đến chỗ bị tiêu diệt. Khi mà những sai lầm và tội ác của Hitler đã gia tăng trong mọi lĩnh vực, Rommel đã gớm ghiếc đo lường sức mạnh của Hybris thời thượng cổ, "từ sự dồn chất các dục vọng điên rồ đó dưới hình thức tàn bạo nhất: khát vọng vinh quang, viễn tưởng chinh phục, háo sát, sung sướng trong sự phá hoại, kiêu hãnh và ngạo mạn, lo âu lụn bại, ưa trả thù , thất vọng vô bờ bến (Walter Nestle Stuttgart 1944)
Nhưng các nhận xét ấy không làm cho Rommel chịu nhục như một phần các lãnh tụ quâ sự. Trái lại chúng đã gia tăng những phản ứng trong tâm trí ông và kích thích ông dấn thân can thiệp. Tinh thần can đảm của ông không những chỉ được thể hiện dưới hình thức văn thư mà ngay cả khi đối diện với Hitler nữa. Ông thẳng thắn trình bầy tình hình và thôi thúc ông phải có biện pháp giải quyết. Nhưng vì ông ý thức được rằng các lời phê bình của mình chẳng đi đến đâu vì danh dự và đời sống của dân tộc ông dưới mắt ông còn có giá trị hơn cả con người ông, nên ông đã chuẩn bị cho một vố theo kiểu York. CHính vì như vậy mà những lời Ernst Junger đã được áp dụng vào thống chế" "có những tình thế trong đó không nên nhìn vào kết quả thành công. Quả thật người ta đã đạt được một chiến thắng tinh thần trong lúc đã thất bại trước lịch sử cũng vẫn ca khúc khải hoàn. Lòng can đảm, sự hy sinh của họ có bản chất cao quý còn hơn là bản chất của sự can đảm, hy sinh ngoài chiến trường, vì thiếu sự chiến thắng, cho nên chính thi ca sẽ tôn vinh họ.
Rommel đã hiểu và đã quyết định, nhưng quá chậm. Ý thức quân nhân của ông chỉ đạt tới lãnh vực chính trị một cách tiệm tiến. Rồi ông toan tính đến với tôn giáo nhờ một số quan niệm dồi dào theo kiểu Junger liên quan đến hoà bình làm cho ông thoáng thấy miền đất hứa cũng như những tương quan huyền bí và hổ tương giữa niềm tin và thực tại.
Nhưng khi ông muốn bước qua lĩnh vực hành động thì định mệnh lại can thiệp vào. Dầu sao Rommel cũng đã không đóng góp vào việc sáng tạo hào quang bao quanh "lãnh tụ của mọi thời đại" vĩ đại nhất, như đa số cá sĩ quan cao cấp Đức. Trực giác cho Hitler cảm thấy điều đó. Ngày 17 tháng 6 năm 1944, tại Margival là một chứng cớ. Đám cận thần chính trị và quân sự của ông Keitel, Burgdorf đã hành động chống lại thống chế bằng một ảnh hưởng vừa công khai vừa bí mật. Phải ngăn chặn đừng để cho Rommel trở nên nguy hiểm cho nhà độc tài. Với một chế độ thần quyền đặt nền tảng trên cá nhân Hitler, bên cạnh ông không thể nào có thể có bất cứ một "anh hùng dân tộc" nào nữa.
Ngày 20 tháng 7 năm 1944 đã đem lại cơ hội mong ước mãnh liệt biết bao, để trừ khử kẻ đối thủ hay là kẻ kế vị duy nhất của ông ta. Bộ máy tuyên truyền đã biết xoay đảo chiều một cách có hiệu quả sự thù hận của dân chúng cũng như sự quan tâm của dân chúng về các biến cố quyết định có dấu hiệu báo truiowcsthamr hoạ sắp xảy đến. Không những vì các thành tích quân suwjmaf còn vị các đức tính rất nhân bản , mà Rommel là một vị lãnh tụ được dân chúng biết đến nhiều nhất trong cuộc chiến tranh, ông đã tuyên bố sẵn sàng ngăn chặn sự hỗn độn bằng chính sự can thiệp của mình. Rất có thể là vào mùa thu năm 1944, Hitler không dám đưa ông ra trước một toà án nên. Nhưng dầu cho quyết định của ông vào chiều ngày 14 tháng 10 là gì đi nữa, thống chế cũng thể nào còn sống để mà đến Berlin hay đến tổng hành dinh của FUhrer.
Chung quy, các cung từ về sau này cho thấy rằng ý định của Rommel đối với Himmler và các tên đao phủ của y vẫn còn hoàn toàn bí mật.
Sự sát hại là phương cách duy nhất để đạt tới mục tiêu mà Hitler không bị lật mặt nạ. Sự che đậy nhờ tang lễ được tổ chức tại Ulm rất phù hopwf với phương pháp tinh vi của sự khủng bố: cách đây 400 năm Nicholas machiavel đã viết:
"Người tướng soái mà hành động đã mang lại cho vị quân vương chiến thắng và thành công tất nhiên là có nhiều uy tín đối với binh sĩ, daanc húng và quân thù cũng như tình bạn mà vị quân vương dành cho. Thế cho nên vị quân vương phải đề phòng đối với vị tướng soái của mình. Vị quân vương phải trừ khử y hoặc tước đoạt uy tín của y".