Chương 5
Tác giả: John Sherlock
Một tiếng nổ rất lớn làm Anna choàng tỉnh dậy. Nàng mở mắt và thấy khói tỏa mù mịt khắp xung quang.
- Anna!
Tiếng gọi giọng phụ nữ nghe quen quen, nhưng nàng chưa nhận ra tiếng ai. Vì khói quá dày nên nàng không thể nhìn thấy người gọi.
- Nằm xuống và cứ ở yên đấy!
Vẫn giọng nói ấy! Anna vội làm theo lệnh. Bỗng lại một tiếng nổ nữa rất lớn ngoài sân. Đám lính Đức đang chen nhau chạy ra cửa bị những mảnh bom quật ngã, xác đè cả lên nhau, bịt kín cửa.
- Chạy sang phía bên phải! - tiếng người phụ nữ lại vọng đến.
Anna cố nhấc chân tay nhưng không nổi.
- Chạy đi!
Lần này nàng cố đứng dậy và lảo đảo. Khuôn mặt Janet hiện ra sau đám khói mù mịt. Cô cùng đi với một nam chiến sỹ ZOB. Cả hai đều cầm súng và khoác túi lựu đạn. Họ chạy tới dìu Anna đứng lên và nửa lôi nửa kéo nàng ra khỏi chỗ bức tường vỡ. Ra khỏi ngôi nhà, người đầu tiên Anna nhìn thấy là Kandalman. Anh ta khoát khẩu súng lên vai rồi ôm ngang eo nàng, dìu nàng chạy về phía nhà anh ở phố Franciszka. Bọn lính quốc xã quăng dây thép gai khắp mặt tường. Để tránh bị phục kích, Kandalman dìu nàng theo lối ngách để về nhà. Họ lên một gian gác xép.
- Hai cô cứ ở đây đợi tôi nhé!- Kandalman nói và lao ra ngoài.
Janet bật que diêm. Lát sau que diêm tắt và cả gian gác lại chìm vào bóng đêm, nhưng Anna đã nhìn thấy ba cái xác chết nằm trên sàn. Janet dìu bạn đến một tấm nệm nhồi rơm. Anna đã hơi tỉnh nhưng thân thể mệt rã rời. Vừa nằm xuống, nàng đã nhắm mắt định ngủ ngay. Bỗng cánh tay nàng đụng vào một vật gì mềm mềm. Nàng giật mình chồm dậy. Janet bật que diêm khác và thấy đó lại là một cái xác chết nữa.
Que diêm tắt. Gian phòng lai tối đen. Nàng thấy tiếng Kandalman nói gì ở gian bên cạnh.
- Thật là khó hiểu- Anna lẩm bẩm- tôi không bao giờ nghĩ anh ấy lại dấn thân vào nơi nguy hiểm để cứu tôi.
- Anh ấy định cứu cả những người khác nữa nhưng đã quá muộn mất rồi- Janet nói.
Anna đề nghị:
- Ta đi nơi khác đi.
Janet dìu bạn sang gian bên cạnh, Kandalman cùng vài chiến sỹ đang đục tường.
- Ta đi thôi- Anh nói.
Anh lại đỡ Anna và cả tốp chui qua lỗ hổng. Họ chui hết từ nhà này sang nhà kia, cuối cùng tới một gian phòng nhỏ, trong một ngôi nhà hoang, đổ nát, khá yên tĩnh. Kandalman nói:
- Hai cô nghỉ ở đây, đợi tôi, đừng đi đâu nữa.
Anh không nói đi đâu và để làm gì. Nhưng cả Janet và Anna đều vui mừng vì thấy đã tạm an toàn. Anna hỏi:
- Anh ấy đã đâu phải không còn tình cảm gì nữa.
Khi chỉ còn hai người lại với nhau, Janet nói:
- Đúng thế. Tôi đã làm việc với anh ấy liền mười ngày nay, và tôi thấy Kandalman thật là lạ. Anh ta biến tổ chức ZOB thành một tổ chức trả thù cá nhân. Có lẽ để anh ta chuộc lại cái tội đã bao năm nay anh ta giấu biệt gốc gác là người Do thái.
- Anh ấy nói với chị thế à?
- Halevi nói. Hắn quen Kandalman từ trước chiến tranh.
Bỗng nhiều tiếng tràng súng máy gầm đâu đây vọng lại, hai chị em ngừng nói chuyện, chăm chú nghe. Janet lo lắng nói:
- Tốp Kandalman chăng?
Vừa dứt lời, có tiếng rên rỉ. Janet chạy ra và lát sau dìu một người bị thương vào. Đó chính là Kandalman. Janet đặt anh nằm xuống nền nhà. Anh thều thào:
- Phục kích! Mấy cậu kia đều hi sinh cả.
Janet xem xét vết thương. Một mảnh lựu đạn đập vỡ đầu gối. Cô nói:
- Nằm yên.
- Bọn khốn khiếp đã..
Janet quát khẽ:
- Im..
Co xé tấm nệm thành một dải bằng quấn chặt vết thương để cầm máu rồi giật rèm cửa lau sạch xung quanh.
- Cô đúng là có bàn tay vàng..
Kandalman chưa nói hết câu thì đột nhiên gian phòng rung lên, liền sau đó là tiếng ầm ầm, cả tầng trên của tòa nha sụp đổ. Gạch ngói rơi rào rào xuống sân, lấp kín cái giếng dưới đó. Mọi thứ trong gian phòng nhỏ này bị lay chuyển và mấy tấm gỗ làm giá đụng nghiêng ngả, hất những cái chai trên đó xuống sàn, vỡ tan, mặc dù mấy cái chai đã cẩn thận quấn bằng rơm, nhưng khi chạm mặt sàn vẫn vỡ, làm nước bên trong chảy lênh láng lên người Kandalman, nhất là mặt và ngực. Một mùi axit tỏa ra khắp phòng và anh chàng bị thương chưa kịp quằn quại vì đau đớn, Anna đã biết ngay chất nước đựng trong chai là axit suynphuyaric.
- Lấy nước mau- Janet hét lên.
Anna vội chạy ra chỗ cống, nơi đọng thứ nước bẩn thỉu và hôi hám, nổi lềnh phềnh những xác con chuột chết đuối bắt đầu thối rữa. Lúc trước, Anna đã nhìn thấy cái cống này nhưng mặc dù rất khát nàng cũng không dám đụng đến. Thà chết khát còn hơn là chết vì thương hàn. Nhưng bây giờ thì Anna vội vã tháo giầy ra, múc đầy thứ nước khủng khiếp ấy đem vào để cô gái người Anh làm dịu nỗi đau đớn của Kandalman.
Axit đã ăn sâu vào da thịt anh. Cả một má bên trái và quai hàm đã sưng phồng. Nhưng nguy nhất là nơi ngực. Đám lông rậm trên ngực đã biến thành một thứ nhựa lỏng và cả một mảng lớn da bị cháy. Tấm lắc bằng vàng anh đeo ở ngực như biến thành một thứ đồng xỉn. Lúc Janet nhẹ nhàng nhấc lên để lau bên dưới, cô thấy nhờ có tấm lắc mà một khoảng da nhỏ may mắn vẫn còn nguyên vẹn.
Anna nói:
- Phải đưa đến bệnh xá ngay.
- Nhưng anh ấy chỉ đi được một chân.
- Vậy thì ta khiêng.
Kandalman đau khủng khiếp nhưng vẫn tỉnh táo. Anh lặng lẽ để hai cô gái phá chiếc giường để làm thành cái cáng trông xấu xí nhưng chắc chắn.
Trời đã tối nhưng vẫn còn đủ sáng để họ đi trên đường. Lúc này các đội tuần tra phát xít đã về các doanh trại để nghỉ. Chúng sợ bị đánh lén ban đêm. Hai cô gái vất vả vô cùng mới cáng được bệnh nhân đến trạm xá.
Tuy mệt rã rời nhưng Janet vẫn tình nguyện phụ mổ cho viên bác sỹ trẻ.
- May mà chưa bị nhiễm trùng. Bỏng nặng như thế này để bị nhiễm trùng lắm.
- Tôi có được hai y tá tuyệt vời- Kandalman nói, miệng méo xệch vì đau. Bác sỹ bóc lấy những chỗ ra bị bỏng mà không có lấy một giọt thuốc tê.
Nỗi mệt mỏi khủng khiếp khiến Anna vừa đặt lưng xuống nệm rơm là lập tức ngủ thiếp. Mười hai tiến đồng hồ sau nàng mới thức dậy, nhai một mẩu bánh mì và húp chút súp loãng rồi lại ngủ tiếp luôn.
- Dậy, dậy ngay.
Tiếng gọi như từ một nơi xa lắc nhưng nàng cũng mở mắt và thấy Janet đang cúi xuống nhìn mình. Janet hỏi:
- Chị có biết chị ngủ li bì trong bao nhiêu lâu không?
- Một tiếng đồng hồ chứ mấy- Anna đáp
- Gần ba mươi sáu tiếng đồng hồ đấy, tiểu thư ạ!
- Ôi, giá được ngủ luôn không bao giờ dậy nữa thì cũng tốt.
- Không được đâu, anh Sokolczyk nhắn hai chúng mình đến 18 phố Mila ngay. Việc rất quan trọng, ta phải đi thôi.
Anna vùng dậy và lảo đảo theo cô gái người Anh ra ngoài đường. Mấy tuần nay họ không rửa ráy nên người hôi hám khủng khiếp. Nước uống còn không đủ lấy đâu ra nước rửa. May mà những chàng trai Do thái cũng thông cảm.
Vào đến ngôi nhà 18 họ thấy đám chiến sỹ ZOB mặc quần áo lót đang nằm ngổn ngang, người nào người nấy ướt đẫm mồ hôi do trời nóng bức. Toàn những cái đầu hoặc chân băng bó. Bọn quốc xã biết nơi này nhưng chúng không tìm được lối vào.
Sokolczyk ngồi xổm trên nền nhà bẩn thỉu, xung quanh anh là chỉ huy các toán quân, trong đó có cả Kandalman. Anh được Halevi vác từ bệnh xá đến đây để dự cuộc họp quan trọng này. Sokolczyk tỏ ra bình thản, nhưng qua lời anh nói thì ai cũng thấy anh đang nhẫn nhục chịu đựng cái chết. Anh bảo nếu không tiếp tục giết được bọn quân Đức trong khu tập trung Do thái này, các chiến sỹ hãy tìm cách lọt ra bưng biền, tiến hành chiến tranh du kích.
Sokolczyk mở đầu:
- Nhưng có một việc còn quan trọng hơn nhiều, tôi muốn giải quyết ngay trong khi còn chưa muộn.
Anh gọi hai chiến sỹ khiêng một bao tải lớn đến, mở ra và đổ tất cả lên một tấm chăn trắng rộng trải trên sàn nhà. Tiếng xì xào lan ra khắp đám người, khi họ nhìn thấy cả đống kim cương, hồng ngọc, bích ngọc và đủ thứ nữ trang quý giá khác chảy xuống như một dòng thác ngũ sắc.
- Đây là kho báu vật vô giá thu thập được trong nhiều năm nay do hàng ngàn người dân Do thái cúng cho tổ quốc để tiến hành cuộc chiến đấu chống Đức quốc xã. Cho đến ngày hôm nay chúng ta mới chỉ dùng số tài sản này để đổi lấy vũ khí, nhưng đã đến lúc chúng ta cần phải nghĩ ra cách sử dụng nó tốt hơn và không để nó lọt vào tay kẻ thù.
Sokolczyk ngừng lại, nhìn nét mặt những người ngồi xung quanh. Tất cả đều biểu lộ quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng: những cặp mắt đờ đẫn, những vết thương băng bó. Mới tính từ ngày bọn Đức quốc xã mở cuộc thập tự chinh cách đây hai tuần cho đến nay, đã trên bốn mươi lăm ngàn người dân Do thái bị giết chết hoặc cầm tù và Sokolczyk biết rằng quãng đời còn lại của những con người kia chỉ còn tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ. Anh nói tiếp:
- Vấn đề sử dụng số tài sản này đã được chúng tôi bàn cãi nhiều. Chúng tôi định bí mật đưa số tài sản này ra khỏi khu tập trung Do thái, sang Thụy sỹ, cất trong hầm của Ngân hàng tín dụng Thụy sỹ tại thành phố Geneve để giúp đỡ cho những người Do thái nào sống sót được sau thảm họa khủng khiếp này.
Tiếng thì thào bàn tán lan rộng khắp đám người.
- Tôi không phải là nhà kinh doanh, cũng không phải là dân buôn lậu- Sokolczyk kết luận- vì vậy tôi xin ủy quyền cho người nào thông thạo hai hoạt động ấy thu xếp cách làm sao để hoàn thành được nhiệm vụ nói trên một cách mỹ mãn nhất.
Người phó thủ lĩnh của ZOB vừa nói vừa hất đầu về phía Kandalman, lúc này đang ngồi trên sàn ở phía đối diện, dựa lưng vào tường để giữ cho tư thế ngay ngắn. Chân trái của anh vẫn còn bó chặt trong hai mảnh gỗ, nhưng chính những vết thương ở phần trên của cơ thể mới lộ rõ hơn cả. Má và hàm bên trái sưng to và đầy mủ, chứng tỏ lời nhận định hôm qua của ông bác sỹ trẻ là quá vội vàng. Chỗ ngực bị axit cũng đỏ hỏn và vẫn ướt.
- Lúc đầu tôi cũng tính xung phong làm đảm trách nhiệm vụ vô cùng nặng nề kia- Kandalman nói- Nhưng hoàn cảnh của tôi khiến tôi không thể làm tốt được công việc.
Có vài tiếng cười khúc khích.
- Tôi đã viết một lá thư cho ông quản lý tài sản của tôi tại Ngân hàng Thụy sỹ ở Geneve., tên là Pierre Chambord, nêu ý nguyện của tôi về cách thức trao tài sản ấy cho một người nào đó sau này sẽ đến nhận. Cách quy ước rất đơn giản. Người nhận tiền chỉ cần chứng minh rằng ông hay bà đó là gốc Do thái và quả thật đã sống sót sau thảm họa của đức quốc xã. Tôi đã giao dịch nhiều với ông Pierre Và biết ông ta là người có thể tin cậy. Bây giờ chỉ còn vấn đề tính xem làm cách nào để đưa số tài sản trên đến được nơi an toàn.
Kandalman dừng lại và cặp mắt anh phản ánh rất rõ nỗi đau đớn anh đang phải gánh chịu. Anh nói tiếp:
- Kinh nghiệm qua chiến đấu của tôi cho biết rằng phụ nữ làm chân liên lạc là thuận tiện nhất. Nhất là thời chiến, khi bất kì một nam giới nào không mặc quân phục là bị nghi ngờ. Và tôi cũng biết hơn các anh về một điểm, đó là nữ giới không ngần ngại dùng những thủ đoạn, mưu mô nữ giới của mình khi hạnh phúc của họ bị đe dọa.
Tiếng cười rộ lên từ khắp các phía.
Kandalman nói thêm:
- Nhưng chuyến công cán này vô cùng nguy hiểm, đồng thời hết sức hệ trọng, không được phép thất bạo, cho nên không thể nào giao cho người nào chưa thực sự được thử thách. Chính vì thế mà tôi đã chọn hai phụ nữ mà tôi đích thân chứng kiến là có những phẩm chất thích hợp và hoàn toàn đáng tin cậy. Đó là Anna Maxell và Janet Taylor.
Mọi con mắt đổ dồn vào hai cô gái đang đứng.
- Hai cô bước lại đây - Kandalman nói.
Chàng hộ pháp không đáp chỉ mỉm một nụ cười hiểu biết rồi bước nhanh ra khỏi hầm cố thủ. Hai cô rảo bước theo Halevi, chốc chốc anh lại đột ngột dừng lại, khi phát hiện có gì khả nghi.
Họ lên đến mặt đường phố. Một ngôi nhà vẫn còn đang cháy bùng bùng, tỏa ánh sáng xuống con đường họ đi.
Lúc đến ngôi nhà của Kandalman ở phố Franciszka, trong lúc Halevi nhấc tấm sắt nặng đậy trên miệng cống, Anna và Janet tranh thủ nhai viên đường và bánh mỳ.
Họ lội bì bõm trong đường cống ngầm nồng nặc mùi uế khí và tối như bưng. Trong bóng tối dầy đặc, tiếng chân họ bước trong nước vang to như trong thùng sắt rỗng. Nhiều lần hai cô gái vấp ngã và khi họ tới nơi, khắp người họ thấm đầy nước bẩn. Halevi đứng lại đợi hai cô. Khi họ đến, anh thì thầm:
- Phố Bielenska đây rồi.
Họ đã ra khỏi khu tập trung Do thái.
Halevi đưa ngón tay cái đẩy tấm sắt trên miệng cống nhưng không được. Vậy là người đón họ chưa đến! Anh dùng cả tấm vai đồ sộ cố hích lên nhưng vẫn không nhúc nhích.
- Vậy là nguy rồi!- Halevi nói- Bọn chúng đang vây ráp khu vực này. Ta đành đợi ở đây thôi. Ơn Chúa nếu như việc chúng ta ra đây chưa lộ và chúng ta không phải chờ ở đây quá lâu. Còn nếu như lộ thì thế là toi.
Một tiếng nổ rất lớn làm Anna choàng tỉnh dậy. Nàng mở mắt và thấy khói tỏa mù mịt khắp xung quang.
- Anna!
Tiếng gọi giọng phụ nữ nghe quen quen, nhưng nàng chưa nhận ra tiếng ai. Vì khói quá dày nên nàng không thể nhìn thấy người gọi.
- Nằm xuống và cứ ở yên đấy!
Vẫn giọng nói ấy! Anna vội làm theo lệnh. Bỗng lại một tiếng nổ nữa rất lớn ngoài sân. Đám lính Đức đang chen nhau chạy ra cửa bị những mảnh bom quật ngã, xác đè cả lên nhau, bịt kín cửa.
- Chạy sang phía bên phải! - tiếng người phụ nữ lại vọng đến.
Anna cố nhấc chân tay nhưng không nổi.
- Chạy đi!
Lần này nàng cố đứng dậy và lảo đảo. Khuôn mặt Janet hiện ra sau đám khói mù mịt. Cô cùng đi với một nam chiến sỹ ZOB. Cả hai đều cầm súng và khoác túi lựu đạn. Họ chạy tới dìu Anna đứng lên và nửa lôi nửa kéo nàng ra khỏi chỗ bức tường vỡ. Ra khỏi ngôi nhà, người đầu tiên Anna nhìn thấy là Kandalman. Anh ta khoát khẩu súng lên vai rồi ôm ngang eo nàng, dìu nàng chạy về phía nhà anh ở phố Franciszka. Bọn lính quốc xã quăng dây thép gai khắp mặt tường. Để tránh bị phục kích, Kandalman dìu nàng theo lối ngách để về nhà. Họ lên một gian gác xép.
- Hai cô cứ ở đây đợi tôi nhé!- Kandalman nói và lao ra ngoài.
Janet bật que diêm. Lát sau que diêm tắt và cả gian gác lại chìm vào bóng đêm, nhưng Anna đã nhìn thấy ba cái xác chết nằm trên sàn. Janet dìu bạn đến một tấm nệm nhồi rơm. Anna đã hơi tỉnh nhưng thân thể mệt rã rời. Vừa nằm xuống, nàng đã nhắm mắt định ngủ ngay. Bỗng cánh tay nàng đụng vào một vật gì mềm mềm. Nàng giật mình chồm dậy. Janet bật que diêm khác và thấy đó lại là một cái xác chết nữa.
Que diêm tắt. Gian phòng lai tối đen. Nàng thấy tiếng Kandalman nói gì ở gian bên cạnh.
- Thật là khó hiểu- Anna lẩm bẩm- tôi không bao giờ nghĩ anh ấy lại dấn thân vào nơi nguy hiểm để cứu tôi.
- Anh ấy định cứu cả những người khác nữa nhưng đã quá muộn mất rồi- Janet nói.
Anna đề nghị:
- Ta đi nơi khác đi.
Janet dìu bạn sang gian bên cạnh, Kandalman cùng vài chiến sỹ đang đục tường.
- Ta đi thôi- Anh nói.
Anh lại đỡ Anna và cả tốp chui qua lỗ hổng. Họ chui hết từ nhà này sang nhà kia, cuối cùng tới một gian phòng nhỏ, trong một ngôi nhà hoang, đổ nát, khá yên tĩnh. Kandalman nói:
- Hai cô nghỉ ở đây, đợi tôi, đừng đi đâu nữa.
Anh không nói đi đâu và để làm gì. Nhưng cả Janet và Anna đều vui mừng vì thấy đã tạm an toàn. Anna hỏi:
- Anh ấy đã đâu phải không còn tình cảm gì nữa.
Khi chỉ còn hai người lại với nhau, Janet nói:
- Đúng thế. Tôi đã làm việc với anh ấy liền mười ngày nay, và tôi thấy Kandalman thật là lạ. Anh ta biến tổ chức ZOB thành một tổ chức trả thù cá nhân. Có lẽ để anh ta chuộc lại cái tội đã bao năm nay anh ta giấu biệt gốc gác là người Do thái.
- Anh ấy nói với chị thế à?
- Halevi nói. Hắn quen Kandalman từ trước chiến tranh.
Bỗng nhiều tiếng tràng súng máy gầm đâu đây vọng lại, hai chị em ngừng nói chuyện, chăm chú nghe. Janet lo lắng nói:
- Tốp Kandalman chăng?
Vừa dứt lời, có tiếng rên rỉ. Janet chạy ra và lát sau dìu một người bị thương vào. Đó chính là Kandalman. Janet đặt anh nằm xuống nền nhà. Anh thều thào:
- Phục kích! Mấy cậu kia đều hi sinh cả.
Janet xem xét vết thương. Một mảnh lựu đạn đập vỡ đầu gối. Cô nói:
- Nằm yên.
- Bọn khốn khiếp đã..
Janet quát khẽ:
- Im..
Co xé tấm nệm thành một dải bằng quấn chặt vết thương để cầm máu rồi giật rèm cửa lau sạch xung quanh.
- Cô đúng là có bàn tay vàng..
Kandalman chưa nói hết câu thì đột nhiên gian phòng rung lên, liền sau đó là tiếng ầm ầm, cả tầng trên của tòa nha sụp đổ. Gạch ngói rơi rào rào xuống sân, lấp kín cái giếng dưới đó. Mọi thứ trong gian phòng nhỏ này bị lay chuyển và mấy tấm gỗ làm giá đụng nghiêng ngả, hất những cái chai trên đó xuống sàn, vỡ tan, mặc dù mấy cái chai đã cẩn thận quấn bằng rơm, nhưng khi chạm mặt sàn vẫn vỡ, làm nước bên trong chảy lênh láng lên người Kandalman, nhất là mặt và ngực. Một mùi axit tỏa ra khắp phòng và anh chàng bị thương chưa kịp quằn quại vì đau đớn, Anna đã biết ngay chất nước đựng trong chai là axit suynphuyaric.
- Lấy nước mau- Janet hét lên.
Anna vội chạy ra chỗ cống, nơi đọng thứ nước bẩn thỉu và hôi hám, nổi lềnh phềnh những xác con chuột chết đuối bắt đầu thối rữa. Lúc trước, Anna đã nhìn thấy cái cống này nhưng mặc dù rất khát nàng cũng không dám đụng đến. Thà chết khát còn hơn là chết vì thương hàn. Nhưng bây giờ thì Anna vội vã tháo giầy ra, múc đầy thứ nước khủng khiếp ấy đem vào để cô gái người Anh làm dịu nỗi đau đớn của Kandalman.
Axit đã ăn sâu vào da thịt anh. Cả một má bên trái và quai hàm đã sưng phồng. Nhưng nguy nhất là nơi ngực. Đám lông rậm trên ngực đã biến thành một thứ nhựa lỏng và cả một mảng lớn da bị cháy. Tấm lắc bằng vàng anh đeo ở ngực như biến thành một thứ đồng xỉn. Lúc Janet nhẹ nhàng nhấc lên để lau bên dưới, cô thấy nhờ có tấm lắc mà một khoảng da nhỏ may mắn vẫn còn nguyên vẹn.
Anna nói:
- Phải đưa đến bệnh xá ngay.
- Nhưng anh ấy chỉ đi được một chân.
- Vậy thì ta khiêng.
Kandalman đau khủng khiếp nhưng vẫn tỉnh táo. Anh lặng lẽ để hai cô gái phá chiếc giường để làm thành cái cáng trông xấu xí nhưng chắc chắn.
Trời đã tối nhưng vẫn còn đủ sáng để họ đi trên đường. Lúc này các đội tuần tra phát xít đã về các doanh trại để nghỉ. Chúng sợ bị đánh lén ban đêm. Hai cô gái vất vả vô cùng mới cáng được bệnh nhân đến trạm xá.
Tuy mệt rã rời nhưng Janet vẫn tình nguyện phụ mổ cho viên bác sỹ trẻ.
- May mà chưa bị nhiễm trùng. Bỏng nặng như thế này để bị nhiễm trùng lắm.
- Tôi có được hai y tá tuyệt vời- Kandalman nói, miệng méo xệch vì đau. Bác sỹ bóc lấy những chỗ ra bị bỏng mà không có lấy một giọt thuốc tê.
Nỗi mệt mỏi khủng khiếp khiến Anna vừa đặt lưng xuống nệm rơm là lập tức ngủ thiếp. Mười hai tiến đồng hồ sau nàng mới thức dậy, nhai một mẩu bánh mì và húp chút súp loãng rồi lại ngủ tiếp luôn.
- Dậy, dậy ngay.
Tiếng gọi như từ một nơi xa lắc nhưng nàng cũng mở mắt và thấy Janet đang cúi xuống nhìn mình. Janet hỏi:
- Chị có biết chị ngủ li bì trong bao nhiêu lâu không?
- Một tiếng đồng hồ chứ mấy- Anna đáp
- Gần ba mươi sáu tiếng đồng hồ đấy, tiểu thư ạ!
- Ôi, giá được ngủ luôn không bao giờ dậy nữa thì cũng tốt.
- Không được đâu, anh Sokolczyk nhắn hai chúng mình đến 18 phố Mila ngay. Việc rất quan trọng, ta phải đi thôi.
Anna vùng dậy và lảo đảo theo cô gái người Anh ra ngoài đường. Mấy tuần nay họ không rửa ráy nên người hôi hám khủng khiếp. Nước uống còn không đủ lấy đâu ra nước rửa. May mà những chàng trai Do thái cũng thông cảm.
Vào đến ngôi nhà 18 họ thấy đám chiến sỹ ZOB mặc quần áo lót đang nằm ngổn ngang, người nào người nấy ướt đẫm mồ hôi do trời nóng bức. Toàn những cái đầu hoặc chân băng bó. Bọn quốc xã biết nơi này nhưng chúng không tìm được lối vào.
Sokolczyk ngồi xổm trên nền nhà bẩn thỉu, xung quanh anh là chỉ huy các toán quân, trong đó có cả Kandalman. Anh được Halevi vác từ bệnh xá đến đây để dự cuộc họp quan trọng này. Sokolczyk tỏ ra bình thản, nhưng qua lời anh nói thì ai cũng thấy anh đang nhẫn nhục chịu đựng cái chết. Anh bảo nếu không tiếp tục giết được bọn quân Đức trong khu tập trung Do thái này, các chiến sỹ hãy tìm cách lọt ra bưng biền, tiến hành chiến tranh du kích.
Sokolczyk mở đầu:
- Nhưng có một việc còn quan trọng hơn nhiều, tôi muốn giải quyết ngay trong khi còn chưa muộn.
Anh gọi hai chiến sỹ khiêng một bao tải lớn đến, mở ra và đổ tất cả lên một tấm chăn trắng rộng trải trên sàn nhà. Tiếng xì xào lan ra khắp đám người, khi họ nhìn thấy cả đống kim cương, hồng ngọc, bích ngọc và đủ thứ nữ trang quý giá khác chảy xuống như một dòng thác ngũ sắc.
- Đây là kho báu vật vô giá thu thập được trong nhiều năm nay do hàng ngàn người dân Do thái cúng cho tổ quốc để tiến hành cuộc chiến đấu chống Đức quốc xã. Cho đến ngày hôm nay chúng ta mới chỉ dùng số tài sản này để đổi lấy vũ khí, nhưng đã đến lúc chúng ta cần phải nghĩ ra cách sử dụng nó tốt hơn và không để nó lọt vào tay kẻ thù.
Sokolczyk ngừng lại, nhìn nét mặt những người ngồi xung quanh. Tất cả đều biểu lộ quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng: những cặp mắt đờ đẫn, những vết thương băng bó. Mới tính từ ngày bọn Đức quốc xã mở cuộc thập tự chinh cách đây hai tuần cho đến nay, đã trên bốn mươi lăm ngàn người dân Do thái bị giết chết hoặc cầm tù và Sokolczyk biết rằng quãng đời còn lại của những con người kia chỉ còn tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ. Anh nói tiếp:
- Vấn đề sử dụng số tài sản này đã được chúng tôi bàn cãi nhiều. Chúng tôi định bí mật đưa số tài sản này ra khỏi khu tập trung Do thái, sang Thụy sỹ, cất trong hầm của Ngân hàng tín dụng Thụy sỹ tại thành phố Geneve để giúp đỡ cho những người Do thái nào sống sót được sau thảm họa khủng khiếp này.
Tiếng thì thào bàn tán lan rộng khắp đám người.
- Tôi không phải là nhà kinh doanh, cũng không phải là dân buôn lậu- Sokolczyk kết luận- vì vậy tôi xin ủy quyền cho người nào thông thạo hai hoạt động ấy thu xếp cách làm sao để hoàn thành được nhiệm vụ nói trên một cách mỹ mãn nhất.
Người phó thủ lĩnh của ZOB vừa nói vừa hất đầu về phía Kandalman, lúc này đang ngồi trên sàn ở phía đối diện, dựa lưng vào tường để giữ cho tư thế ngay ngắn. Chân trái của anh vẫn còn bó chặt trong hai mảnh gỗ, nhưng chính những vết thương ở phần trên của cơ thể mới lộ rõ hơn cả. Má và hàm bên trái sưng to và đầy mủ, chứng tỏ lời nhận định hôm qua của ông bác sỹ trẻ là quá vội vàng. Chỗ ngực bị axit cũng đỏ hỏn và vẫn ướt.
- Lúc đầu tôi cũng tính xung phong làm đảm trách nhiệm vụ vô cùng nặng nề kia- Kandalman nói- Nhưng hoàn cảnh của tôi khiến tôi không thể làm tốt được công việc.
Có vài tiếng cười khúc khích.
- Tôi đã viết một lá thư cho ông quản lý tài sản của tôi tại Ngân hàng Thụy sỹ ở Geneve., tên là Pierre Chambord, nêu ý nguyện của tôi về cách thức trao tài sản ấy cho một người nào đó sau này sẽ đến nhận. Cách quy ước rất đơn giản. Người nhận tiền chỉ cần chứng minh rằng ông hay bà đó là gốc Do thái và quả thật đã sống sót sau thảm họa của đức quốc xã. Tôi đã giao dịch nhiều với ông Pierre Và biết ông ta là người có thể tin cậy. Bây giờ chỉ còn vấn đề tính xem làm cách nào để đưa số tài sản trên đến được nơi an toàn.
Kandalman dừng lại và cặp mắt anh phản ánh rất rõ nỗi đau đớn anh đang phải gánh chịu. Anh nói tiếp:
- Kinh nghiệm qua chiến đấu của tôi cho biết rằng phụ nữ làm chân liên lạc là thuận tiện nhất. Nhất là thời chiến, khi bất kì một nam giới nào không mặc quân phục là bị nghi ngờ. Và tôi cũng biết hơn các anh về một điểm, đó là nữ giới không ngần ngại dùng những thủ đoạn, mưu mô nữ giới của mình khi hạnh phúc của họ bị đe dọa.
Tiếng cười rộ lên từ khắp các phía.
Kandalman nói thêm:
- Nhưng chuyến công cán này vô cùng nguy hiểm, đồng thời hết sức hệ trọng, không được phép thất bạo, cho nên không thể nào giao cho người nào chưa thực sự được thử thách. Chính vì thế mà tôi đã chọn hai phụ nữ mà tôi đích thân chứng kiến là có những phẩm chất thích hợp và hoàn toàn đáng tin cậy. Đó là Anna Maxell và Janet Taylor.
Mọi con mắt đổ dồn vào hai cô gái đang đứng.
- Hai cô bước lại đây - Kandalman nói.
Chàng hộ pháp không đáp chỉ mỉm một nụ cười hiểu biết rồi bước nhanh ra khỏi hầm cố thủ. Hai cô rảo bước theo Halevi, chốc chốc anh lại đột ngột dừng lại, khi phát hiện có gì khả nghi.
Họ lên đến mặt đường phố. Một ngôi nhà vẫn còn đang cháy bùng bùng, tỏa ánh sáng xuống con đường họ đi.
Lúc đến ngôi nhà của Kandalman ở phố Franciszka, trong lúc Halevi nhấc tấm sắt nặng đậy trên miệng cống, Anna và Janet tranh thủ nhai viên đường và bánh mỳ.
Họ lội bì bõm trong đường cống ngầm nồng nặc mùi uế khí và tối như bưng. Trong bóng tối dầy đặc, tiếng chân họ bước trong nước vang to như trong thùng sắt rỗng. Nhiều lần hai cô gái vấp ngã và khi họ tới nơi, khắp người họ thấm đầy nước bẩn. Halevi đứng lại đợi hai cô. Khi họ đến, anh thì thầm:
- Phố Bielenska đây rồi.
Họ đã ra khỏi khu tập trung Do thái.
Halevi đưa ngón tay cái đẩy tấm sắt trên miệng cống nhưng không được. Vậy là người đón họ chưa đến! Anh dùng cả tấm vai đồ sộ cố hích lên nhưng vẫn không nhúc nhích.
- Vậy là nguy rồi!- Halevi nói- Bọn chúng đang vây ráp khu vực này. Ta đành đợi ở đây thôi. Ơn Chúa nếu như việc chúng ta ra đây chưa lộ và chúng ta không phải chờ ở đây quá lâu. Còn nếu như lộ thì thế là toi.