Chương 8
Tác giả: John Sherlock
Tiếng loa vừa ngừng, không khí bao trùm lên mọi thứ. Không thấy tiếng chim chóc, sâu bọ nào nữa. Thời gian như ngưng lại. Một lúc lâu sau, cánh cửa ngôi nhà hoang phế bật mở, một tốp người bước ra chậm chạp, hai tay quặt lại đằng sau.
Tibere nói rất nhanh bằng tiếng Digan với bà gài Phuro rồi đỡ bà ta lên ngồi trong cỗ xe ngựa, chỗ của người đánh xe. Con ngựa vẫn chưa lắp dây cương, và phải một lúc sau, bà mới điều khiển được nó và cỗ xe lao nhanh ra khỏi ngôi nhà, tiến vào sân. Tibere nói vắn tắt với Latso, Andrrei và Jonitza, cũng bằng tiếng Digan, rồi cả ba người chui qua một lỗ hổng ở bức tường phía sau của ngôi nhà xiêu vẹo, nhanh chóng biến mất trong đám cỏ cao rậm rạp bên ngoài. Tibere giải thích:
- Bọn Đức chỉ cần bắt những người làm việc được. Bà già Phuro chúng chẳng cần đến làm gì, nhưng bà lại có thể đánh cỗ xe ra ngoài an toàn và chúng ta sẽ tìm gặp bà ta sau.
Nói xong, ông ta chui vào lỗ hổng lúc nãy mấy người Digan đã chui. Các cô gái cũng chui theo, trừ Janet. Cô đứng lại, nhìn chăm chú những bậc dẫn xuống hầm chứa dưới đất, nơi ban nãy Halevi đã mang những chiếc balo chạy xuống.
- Không thể bỏ đi mà chưa..
Cô chưa nói hết câu và mấy cô bạn cũng không kịp hiểu xem Janet nói thế là ý nhắc đến Halevi hay là số châu báu.
Tibere giục:
- Nhanh lên!
Giữa lúc ông ta đang nói thì bọn Đức đã nã súng như mưa từ xe tăng và thiết giáp vào ngôi nhà. Đạn cắm vào những bức tường xiêu vẹo, làm lở ra những mảnh gạch và vữa.
Tibere chạy vào đám cỏ cao rậm rạp và nhờ ngôi nhà che nên chúng không thể nhìn thấy ông ta. Bốn cô gái chạy theo trong lúc súng vẫn nổ, đạn bay vào ngôi nhà. Đại bác trên xe cầy những lỗ sâu hoắm trên sân trại và làm mái nhà chứa cỏ khô bốc cháy.
Tiếng nổ chói tai và vẫn tiếp tục trong lúc bốn cô gái chạy vào trong một đám cây to. Dưới đất chân họ rung lên và không trung nồng nặc mùi thuốc súng. Nhưng họ vẫn cứ chạy cho đến khi họ tới một rặng cây rậm rạp. Họ nằm ép xuống đám lá.
Tiếng súng nổ ngưng bặt cũng đột ngột như lúc nó bắt đầu nổ, nhưng các ngôi nhà lớn nhỏ trong nông trại đã bốc cháy đùng đùng. Ánh chiều tà hắt thêm vào ánh sáng từ những đám cháy tỏa tỏa ra.
Khi trời tối hẳn các cô gái lại nghe thấy tiếng súng nổ một lúc lâu nữa. Cuối cùng tiếng xe tăng ầm ầm kéo đến gần họ.
Genevieve định đứng lên nhưng Janet đã nắm tay cô kéo xuống:
- Đừng.. Động đậy là chúng nhìn thấy đấy!
Keja vẫn im lặng. Mắt cô đang chăm chú nhìn xích xe tăng đang di chuyển thẳng về phía nông trại rồi chạy ngang qua đó, đè lên ngôi nhà đã cháy sắp tàn. Các cô gái mắt trừng trừng, không quay nhìn chỗ khác, và cũng không nhắm lại được, cho tới khi chiếc xe tăng Đức chìm vào bóng đêm và chạy trên con đường đất để chạy ra đường cái.
Đợi thêm khoảng mười lăm phút, Janet đứng dậy thận trọng bước về phía ngôi nhà. Ba cô gái kia đi theo và họ đứng lặng nhìn ngôi nhà cháy trụi. Lối xuống hầm chứa lúc nãy Halevi chạy xuống bây giờ đã bị lấp kín đầy gạch ngói.
- Nếu anh ấy may mắn chui ra trước khi ngôi nhà bị sập thì hay quá!
Janet lẩm bẩm, mắt cô chăm chú nhìn xem có một dấu hiệu nhỏ nào chứng tỏ Halevi vẫn còn sống không.
Anna nói:
- Làm sao kịp nổi!
- Chưa thể biết chắc được.- Tiếng Genevieve tiếp theo.
- Anh ấy di chuyển chậm lắm làm sao thoát nổi- Keja nói thêm.
Họ đứng bên nhau trong bóng tối. Ánh những đốm lửa cuối cùng trên mái nhà chứa cỏ soi vào mặt họ và thấy rõ nỗi tuyệt vọng trên đó.
Cuối cùng Keja phá tan sự im lặng:
- Ta phải tìm ông Tibere.
Anna hỏi:
- Nhưng lúc này ông ta ở đâu?
Keja đáp:
- Nếu như ông ta hoặc những người kia còn sống, thể nào họ cũng để lại ám hiệu trên đường họ đi và tôi căn cứ vào đó khi nào trời sáng sẽ tìm được.
Rời khỏi đám gạch ngói của tòa nhà chính của nông trại, Keja quay lại chỗ đám cây lúc nãy cô nấp và các cô gái kia theo chân cô. Tất cả, chỉ trừ Janet. Cô đứng lại chỗ tòa nhà, vẫn ôm chút hy vọng le lói, biết đâu Halevi còn sống và các cô lấy lại được chỗ châu báu kia để chúng khỏi bị chôn vùi dưới sâu trong lòng đát. Sau năm hay mười phút, nhận thấy hy vọng của mình chỉ là hão huyền, Janet đành đi theo các bạn. Nhưng trước khi đi, cô nhấc theo chiếc đài bán dẫn, mấy người thợ mỏ Ba lan lúc nãy dùng để nghe tin tức mà may thay máy vẫn còn dùng được.
Nhờ đám cháy, khí trời ban đêm ấm áp và họ nằm ngủ dưới vòm lá cây vẫn còn vương mùi khét của thịt cháy từ phía nông trại đưa tới. Khó có thể đoán được đấy là thịt cháy của những ông già bà cả núp trong nhà chứa cỏ hay của những con gà con ngỗng bị thiêu. Dù sao thì cái mùi ghê tởm ấy đưa từ phía nông trại đến cũng làm họ không ngủ nổi.
Trong lúc họ nằm ngửa nhìn lên những vì sao lấp lánh bên trên vòm lá cành, mỗi cô gái bỗng nhiên nghĩ rằng mục tiêu chuyến công cán của họ đột nhiên trở nên không thể nào với tới được. Họ sẽ không thể mang theo kho báu đến nơi cần thiết. Trong lòng họ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược như tranh chấp nhau. Bao trim lên trên là cảm giác tuyệt vọng. Bên dưới là vô số kỷ niệm họ để lại phía sau lưng. Kèm theo đó là nỗi hoang mang, họ không biết cái gì chờ đón họ phía trước.
Ló ra tia sáng đầu tiên của một ngày mới. Keja vùng dậy nói ngay:
- Ta đi thôi!
Cô chui ra khỏi chỗ trú, lay các bạn. Họ tuân lệnh và đi theo. Trong một tiếng đồng hồ họ dò dẫm đi qua khu rừng, cố không giẫm gãy một cành cây khô hay gây ra một tiếng động mạnh có thể khiến bọn tuần tra Đức phát hiện thấy. Đột nhiên Keja giơ tay, ra hiệu cho cả tốp dừng lại.
Cô nói:
- Các chị đứng lại đây để tôi đi tìm xem họ có để lại ám hiệu gì cho chúng ta không?
Mấy cô gái ngồi phịch xuống đất, mệt rã rời cả về tinh thần lẫn thể xác, nhìn theo Keja đang dò dẫm xem xét từng gốc cây. Từ khi họ rời khỏi thủ đô Vacsava, đã mấy tuần lễ trôi qua. Trong thời gian đó Keja biến đổi rất nhiều, sự biến đổi bắt đầu diễn ra từ khi họ gặp gia đình Digan của ông Tebere và tiếp tục phát triển cho đến ngày hôm nay. Không ai quan tâm chuyện ấy bằng ông Tebere. Thoạt đầu tuy Keja nói tiếng Digan, ông ta vẫn khinh khỉnh với cô cũng như với mấy cô gái kia. Họ không phải dân Digan và đối với ông ta họ không khác gì loài ngựa. Nhưng dần dần thấy Keja biến đổi, lúc đầu Tebere chú ý, sau đó ông ta tỏ ra tôn trọng cô. Genevieve tìm mọi cách khêu gợi ông ta nhưng không có kết quả, bắt đầu nhận ra rằng ông ta thầm yêu Keja. Genevieve nhận thấy, mặc dù trước mặt Keja ông ta làm ra vẻ chẳng chú ý gì đến cô, nhưng Genevieve bắt gặp những lúc ông ta bất giác như muốn khoe tính đàn ông của mình với Keja.
Keja xuất hiện, mặt rạng rỡ bảo các bạn đi theo. Cô dẫn họ đi đến chỗ trên cành cây mắc một mảnh áo.
Cô phấn khởi nói:
- Tebere để lại ám hiệu này cho chúng mình đấy.
- Sao chị biết, Keja?- Anna hỏi.
Keja chỉ một mảnh gỗ đẽo thành hình không bình thường:
- Đấy là dấu hiệu của bộ tộc ông ta.
Rồi cô đi băng băng lên phía trước, để mặc các bạn lại phía sau. Cô bắc hai bàn tay khum lại, thổi vào đó thành một âm thanh như tiếng gà gô gọi nhau. Liền sau đó thấy có tiếng hú đáp lại, kéo dài hai lần, ngừng lại một chút rồi hú tiếng thứ ba.
- Họ ở gần đây thôi- Keja nói
Cô đi theo hướng tiếng hú, chừng năm phút, miệng vẫn tiếp tục thổi vào hai bàn tay khum vào nhau tạo thành tiếng gà gô gọi nhau. Ba cô gái kia theo sát đằng sau. Tiếng hú đáp lại, lần này rất gần.
Hướng ra phía đó, các cô gái ra đến một bãi trống và ngay ở bìa ràng, cỗ xe ngựa đang ở phía đó. Tebere quỳ gần đó, hai bàn tay ôm đầu Latso. Cách đó vài bước, bà già Phuro đang cầm tay cậu bé Jonitza. Thấy tiếng chân bước, họ đều quay lại, nhưng lập quay đi nhìn vào Latso. Lúc này cậu trai đang rên rỉ.
Mặt cậu ta xám như tro và máu cam chảy từ lỗ mũi ra. Tuy còn cách chục bước, Janet nghe tiếng rên, biết ngay rằng cậu ta sắp chết. Quỳ xuống bên cạnh Tebere, Janet bắt mạch cổ tay Latso và thấy mạch rất nhỏ. Máu vẫn chảy ra từ vết thương ở bụng cậu, to bằng nắm tay. Cô gái người Anh hiểu ngay rằng Latso bị thương, chắc là quả đại bác tối qua của bọn Đức. Cô lấy làm lạ, vết thương nặng như vậy mà cậu ta vẫn sống được cho đến bây giờ. Chắc cậu phải đau đớn khủng khiếp, nhưng vẻ mặt cậu chỉ khẽ nhăn đôi chút.
- Andrei cũng chết rồi..
Câu nói của Tebere thốt ra cùng lúc khi Latso co giật rất mạnh rồi oặt sang một bên.
Janet nói:
- Latso đã chết.
Bà già Phuro hét lên một tiếng kinh hoàng và bà xé toạc tấm áo suốt từ cổ đến ngang bụng. Nhưng Teberevẫn đỡ thân mình Latso, ít ra phải là mười phút rồi mới dứng dậy, ra cỗ xe ngựa lấy xẻng, đào một huyệt nhỏ bên bìa rừng.
Trong lúc Tebere lấp huyệt, bà già Phuro ngửa mặt lên trời khóc và lầm ra mà những lời nói với người xấu số. Lời cầu nguyện của bà nghe trầm bổng và tha thiết đến não lòng.
Anna hái mấy bông hoa dại đặt lên mộ nhưng Tebere đứng đó một quãng xa, đã hét lên bảo không được. Nàng rất ngạc nhiên, hỏi Keja xem mình làm thế có gì sai. Keja đáp:
- Người Digan cho rằng hoa hái là biểu hiện chết sớm, không phải dành cho người đã chết mà của người đang sống.
Tiếng loa vừa ngừng, không khí bao trùm lên mọi thứ. Không thấy tiếng chim chóc, sâu bọ nào nữa. Thời gian như ngưng lại. Một lúc lâu sau, cánh cửa ngôi nhà hoang phế bật mở, một tốp người bước ra chậm chạp, hai tay quặt lại đằng sau.
Tibere nói rất nhanh bằng tiếng Digan với bà gài Phuro rồi đỡ bà ta lên ngồi trong cỗ xe ngựa, chỗ của người đánh xe. Con ngựa vẫn chưa lắp dây cương, và phải một lúc sau, bà mới điều khiển được nó và cỗ xe lao nhanh ra khỏi ngôi nhà, tiến vào sân. Tibere nói vắn tắt với Latso, Andrrei và Jonitza, cũng bằng tiếng Digan, rồi cả ba người chui qua một lỗ hổng ở bức tường phía sau của ngôi nhà xiêu vẹo, nhanh chóng biến mất trong đám cỏ cao rậm rạp bên ngoài. Tibere giải thích:
- Bọn Đức chỉ cần bắt những người làm việc được. Bà già Phuro chúng chẳng cần đến làm gì, nhưng bà lại có thể đánh cỗ xe ra ngoài an toàn và chúng ta sẽ tìm gặp bà ta sau.
Nói xong, ông ta chui vào lỗ hổng lúc nãy mấy người Digan đã chui. Các cô gái cũng chui theo, trừ Janet. Cô đứng lại, nhìn chăm chú những bậc dẫn xuống hầm chứa dưới đất, nơi ban nãy Halevi đã mang những chiếc balo chạy xuống.
- Không thể bỏ đi mà chưa..
Cô chưa nói hết câu và mấy cô bạn cũng không kịp hiểu xem Janet nói thế là ý nhắc đến Halevi hay là số châu báu.
Tibere giục:
- Nhanh lên!
Giữa lúc ông ta đang nói thì bọn Đức đã nã súng như mưa từ xe tăng và thiết giáp vào ngôi nhà. Đạn cắm vào những bức tường xiêu vẹo, làm lở ra những mảnh gạch và vữa.
Tibere chạy vào đám cỏ cao rậm rạp và nhờ ngôi nhà che nên chúng không thể nhìn thấy ông ta. Bốn cô gái chạy theo trong lúc súng vẫn nổ, đạn bay vào ngôi nhà. Đại bác trên xe cầy những lỗ sâu hoắm trên sân trại và làm mái nhà chứa cỏ khô bốc cháy.
Tiếng nổ chói tai và vẫn tiếp tục trong lúc bốn cô gái chạy vào trong một đám cây to. Dưới đất chân họ rung lên và không trung nồng nặc mùi thuốc súng. Nhưng họ vẫn cứ chạy cho đến khi họ tới một rặng cây rậm rạp. Họ nằm ép xuống đám lá.
Tiếng súng nổ ngưng bặt cũng đột ngột như lúc nó bắt đầu nổ, nhưng các ngôi nhà lớn nhỏ trong nông trại đã bốc cháy đùng đùng. Ánh chiều tà hắt thêm vào ánh sáng từ những đám cháy tỏa tỏa ra.
Khi trời tối hẳn các cô gái lại nghe thấy tiếng súng nổ một lúc lâu nữa. Cuối cùng tiếng xe tăng ầm ầm kéo đến gần họ.
Genevieve định đứng lên nhưng Janet đã nắm tay cô kéo xuống:
- Đừng.. Động đậy là chúng nhìn thấy đấy!
Keja vẫn im lặng. Mắt cô đang chăm chú nhìn xích xe tăng đang di chuyển thẳng về phía nông trại rồi chạy ngang qua đó, đè lên ngôi nhà đã cháy sắp tàn. Các cô gái mắt trừng trừng, không quay nhìn chỗ khác, và cũng không nhắm lại được, cho tới khi chiếc xe tăng Đức chìm vào bóng đêm và chạy trên con đường đất để chạy ra đường cái.
Đợi thêm khoảng mười lăm phút, Janet đứng dậy thận trọng bước về phía ngôi nhà. Ba cô gái kia đi theo và họ đứng lặng nhìn ngôi nhà cháy trụi. Lối xuống hầm chứa lúc nãy Halevi chạy xuống bây giờ đã bị lấp kín đầy gạch ngói.
- Nếu anh ấy may mắn chui ra trước khi ngôi nhà bị sập thì hay quá!
Janet lẩm bẩm, mắt cô chăm chú nhìn xem có một dấu hiệu nhỏ nào chứng tỏ Halevi vẫn còn sống không.
Anna nói:
- Làm sao kịp nổi!
- Chưa thể biết chắc được.- Tiếng Genevieve tiếp theo.
- Anh ấy di chuyển chậm lắm làm sao thoát nổi- Keja nói thêm.
Họ đứng bên nhau trong bóng tối. Ánh những đốm lửa cuối cùng trên mái nhà chứa cỏ soi vào mặt họ và thấy rõ nỗi tuyệt vọng trên đó.
Cuối cùng Keja phá tan sự im lặng:
- Ta phải tìm ông Tibere.
Anna hỏi:
- Nhưng lúc này ông ta ở đâu?
Keja đáp:
- Nếu như ông ta hoặc những người kia còn sống, thể nào họ cũng để lại ám hiệu trên đường họ đi và tôi căn cứ vào đó khi nào trời sáng sẽ tìm được.
Rời khỏi đám gạch ngói của tòa nhà chính của nông trại, Keja quay lại chỗ đám cây lúc nãy cô nấp và các cô gái kia theo chân cô. Tất cả, chỉ trừ Janet. Cô đứng lại chỗ tòa nhà, vẫn ôm chút hy vọng le lói, biết đâu Halevi còn sống và các cô lấy lại được chỗ châu báu kia để chúng khỏi bị chôn vùi dưới sâu trong lòng đát. Sau năm hay mười phút, nhận thấy hy vọng của mình chỉ là hão huyền, Janet đành đi theo các bạn. Nhưng trước khi đi, cô nhấc theo chiếc đài bán dẫn, mấy người thợ mỏ Ba lan lúc nãy dùng để nghe tin tức mà may thay máy vẫn còn dùng được.
Nhờ đám cháy, khí trời ban đêm ấm áp và họ nằm ngủ dưới vòm lá cây vẫn còn vương mùi khét của thịt cháy từ phía nông trại đưa tới. Khó có thể đoán được đấy là thịt cháy của những ông già bà cả núp trong nhà chứa cỏ hay của những con gà con ngỗng bị thiêu. Dù sao thì cái mùi ghê tởm ấy đưa từ phía nông trại đến cũng làm họ không ngủ nổi.
Trong lúc họ nằm ngửa nhìn lên những vì sao lấp lánh bên trên vòm lá cành, mỗi cô gái bỗng nhiên nghĩ rằng mục tiêu chuyến công cán của họ đột nhiên trở nên không thể nào với tới được. Họ sẽ không thể mang theo kho báu đến nơi cần thiết. Trong lòng họ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược như tranh chấp nhau. Bao trim lên trên là cảm giác tuyệt vọng. Bên dưới là vô số kỷ niệm họ để lại phía sau lưng. Kèm theo đó là nỗi hoang mang, họ không biết cái gì chờ đón họ phía trước.
Ló ra tia sáng đầu tiên của một ngày mới. Keja vùng dậy nói ngay:
- Ta đi thôi!
Cô chui ra khỏi chỗ trú, lay các bạn. Họ tuân lệnh và đi theo. Trong một tiếng đồng hồ họ dò dẫm đi qua khu rừng, cố không giẫm gãy một cành cây khô hay gây ra một tiếng động mạnh có thể khiến bọn tuần tra Đức phát hiện thấy. Đột nhiên Keja giơ tay, ra hiệu cho cả tốp dừng lại.
Cô nói:
- Các chị đứng lại đây để tôi đi tìm xem họ có để lại ám hiệu gì cho chúng ta không?
Mấy cô gái ngồi phịch xuống đất, mệt rã rời cả về tinh thần lẫn thể xác, nhìn theo Keja đang dò dẫm xem xét từng gốc cây. Từ khi họ rời khỏi thủ đô Vacsava, đã mấy tuần lễ trôi qua. Trong thời gian đó Keja biến đổi rất nhiều, sự biến đổi bắt đầu diễn ra từ khi họ gặp gia đình Digan của ông Tebere và tiếp tục phát triển cho đến ngày hôm nay. Không ai quan tâm chuyện ấy bằng ông Tebere. Thoạt đầu tuy Keja nói tiếng Digan, ông ta vẫn khinh khỉnh với cô cũng như với mấy cô gái kia. Họ không phải dân Digan và đối với ông ta họ không khác gì loài ngựa. Nhưng dần dần thấy Keja biến đổi, lúc đầu Tebere chú ý, sau đó ông ta tỏ ra tôn trọng cô. Genevieve tìm mọi cách khêu gợi ông ta nhưng không có kết quả, bắt đầu nhận ra rằng ông ta thầm yêu Keja. Genevieve nhận thấy, mặc dù trước mặt Keja ông ta làm ra vẻ chẳng chú ý gì đến cô, nhưng Genevieve bắt gặp những lúc ông ta bất giác như muốn khoe tính đàn ông của mình với Keja.
Keja xuất hiện, mặt rạng rỡ bảo các bạn đi theo. Cô dẫn họ đi đến chỗ trên cành cây mắc một mảnh áo.
Cô phấn khởi nói:
- Tebere để lại ám hiệu này cho chúng mình đấy.
- Sao chị biết, Keja?- Anna hỏi.
Keja chỉ một mảnh gỗ đẽo thành hình không bình thường:
- Đấy là dấu hiệu của bộ tộc ông ta.
Rồi cô đi băng băng lên phía trước, để mặc các bạn lại phía sau. Cô bắc hai bàn tay khum lại, thổi vào đó thành một âm thanh như tiếng gà gô gọi nhau. Liền sau đó thấy có tiếng hú đáp lại, kéo dài hai lần, ngừng lại một chút rồi hú tiếng thứ ba.
- Họ ở gần đây thôi- Keja nói
Cô đi theo hướng tiếng hú, chừng năm phút, miệng vẫn tiếp tục thổi vào hai bàn tay khum vào nhau tạo thành tiếng gà gô gọi nhau. Ba cô gái kia theo sát đằng sau. Tiếng hú đáp lại, lần này rất gần.
Hướng ra phía đó, các cô gái ra đến một bãi trống và ngay ở bìa ràng, cỗ xe ngựa đang ở phía đó. Tebere quỳ gần đó, hai bàn tay ôm đầu Latso. Cách đó vài bước, bà già Phuro đang cầm tay cậu bé Jonitza. Thấy tiếng chân bước, họ đều quay lại, nhưng lập quay đi nhìn vào Latso. Lúc này cậu trai đang rên rỉ.
Mặt cậu ta xám như tro và máu cam chảy từ lỗ mũi ra. Tuy còn cách chục bước, Janet nghe tiếng rên, biết ngay rằng cậu ta sắp chết. Quỳ xuống bên cạnh Tebere, Janet bắt mạch cổ tay Latso và thấy mạch rất nhỏ. Máu vẫn chảy ra từ vết thương ở bụng cậu, to bằng nắm tay. Cô gái người Anh hiểu ngay rằng Latso bị thương, chắc là quả đại bác tối qua của bọn Đức. Cô lấy làm lạ, vết thương nặng như vậy mà cậu ta vẫn sống được cho đến bây giờ. Chắc cậu phải đau đớn khủng khiếp, nhưng vẻ mặt cậu chỉ khẽ nhăn đôi chút.
- Andrei cũng chết rồi..
Câu nói của Tebere thốt ra cùng lúc khi Latso co giật rất mạnh rồi oặt sang một bên.
Janet nói:
- Latso đã chết.
Bà già Phuro hét lên một tiếng kinh hoàng và bà xé toạc tấm áo suốt từ cổ đến ngang bụng. Nhưng Teberevẫn đỡ thân mình Latso, ít ra phải là mười phút rồi mới dứng dậy, ra cỗ xe ngựa lấy xẻng, đào một huyệt nhỏ bên bìa rừng.
Trong lúc Tebere lấp huyệt, bà già Phuro ngửa mặt lên trời khóc và lầm ra mà những lời nói với người xấu số. Lời cầu nguyện của bà nghe trầm bổng và tha thiết đến não lòng.
Anna hái mấy bông hoa dại đặt lên mộ nhưng Tebere đứng đó một quãng xa, đã hét lên bảo không được. Nàng rất ngạc nhiên, hỏi Keja xem mình làm thế có gì sai. Keja đáp:
- Người Digan cho rằng hoa hái là biểu hiện chết sớm, không phải dành cho người đã chết mà của người đang sống.