watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Anh Hùng Xạ Điêu-Hồi 40(b) - tác giả Kim Dung Kim Dung

Kim Dung

Hồi 40(b)

Tác giả: Kim Dung

Hoàng Dược Sư và Hồng Thất công thấy một vị đại tôn sư võ học một đời trở thành như thế bất giác nhìn nhau thở dài. Lúc ấy tiếng kêu của Âu Dương Phong lúc đứt lúc nối đã cách mấy dặm, nhưng tiếng vọng trong sơn cốc vẫn vang lên không ngớt, nghe như sói kêu ma khóc, bốn người tuy đứng dưới ánh sáng mặt trời mà trong lòng đều cảm thấy ớn lạnh. Hồng Thất công thở dài nói:
- Người này không sống được lâu đâu.
Quách Tĩnh đột nhiên nói một mình:
- Còn ta? Ta là ai?
Hoàng Dung biết y là người ngay thẳng, chỉ sợ y vất vả suy nghĩ về chuyện ấy lại càng ngơ ngẩn, vội nói:
- Ngươi là Quách Tĩnh. Tĩnh ca ca, đừng nghĩ về mình nữa, cứ nghĩ về việc của người ta thôi.
Quách Tĩnh giật mình tỉnh ngộ nói:
- Đúng thế. Sư phụ, Hoàng đảo chủ, chúng ta xuống núi thôi.
Hồng Thất công mắng:
- Tiểu tử ngốc, ngươi còn gọi y là Hoàng đảo chủ à? Ta lại tát cho ngươi mấy cái bây giờ.
Quách Tĩnh ngẩn người, chỉ thấy Hoàng Dung mặt đỏ bừng, như cười mà không phải cười, lập tức tỉnh ngộ, thẹn thùng kêu lên:
- Nhạc phụ!
Hoàng Dược Sư hô hô cười rộ, một tay kéo con gái, một tay kéo Quách Tĩnh, nói với Hồng Thất công:
- Thất huynh, đạo của võ học vô cùng vô tận, hôm nay nhìn thấy võ công của Lão Độc vật, quả thật khiến người ta vừa sợ vừa thẹn. Từ khi Trùng Dương chân nhân qua đời, càng không có ai là thiên hạ đệ nhất võ công nữa.
Hồng Thất công nói:
- Dung nhi thì công phu nấu nướng là thiên hạ đệ nhất, chuyện đó thì ta dám nói.
Hoàng Dung bĩu môi cười nói:
- Không cần phải khen, chúng ta xuống núi mau đi, con sẽ nấu vài món ăn ngon cho người là được.
Hồng Thất công, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung bốn người xuống Hoa sơn, Hoàng Dung giỏi lựa thức ngon, thạo việc nấu nướng, cho Hồng Thất công ăn một trận thỏa thích. Đêm ấy bốn người ngụ lại tái khách điếm, cha con Hoàng Dược Sư ngủ một phòng, Quách Tĩnh và Hồng Thất công ngủ một phòng.
Sáng hôm sau Quách Tĩnh tỉnh dậy thì Hồng Thất công ngủ trên giường đối diện không biết đã đi đâu trên bàn còn ba chữ lớn viết bằng mỡ:
- Ta đi đây.
Cũng không biết là dùng đùi gà hay giò heo viết lên.
Quách Tĩnh vội chạy qua báo cho cha con Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư thở dài nói:
- Thất huynh nhất sinh hành sự như con thần long, thấy đầu mà không thấy đuôi.
Rồi nhìn Quách Hoàng hai người mấy cái, nói:
- Tĩnh nhi, mẹ ngươi qua đời rồi, người thân nhất trên đời là đại sư phụ Kha Trấn ác của ngươi, ngươi theo ta tới đảo Đào Hoa mời đại sư phụ ngươi làm chủ hôn, hoàn thành hôn sự giữa ngươi và Dung nhi được không?
Quách Tĩnh buồn vui lẫn lộn, nói không nên lời, chỉ gật đầu liên tiếp. Hoàng Dung bĩu môi cười khẽ, định mắng y là:
- Thằng ngốc.
Nhưng đưa mắt nhìn cha một cái, lại nhịn không nói ra.
Ba người dọc đường du sơn ngoạn thủy, thong thả đi về phía đông nam, không phải một ngày đã tới địa hạt lộ nam Lưỡng Chiết, thấy đảo Đào Hoa đã không còn xa nữa, đột nhiên trên không có tiếng điêu kêu rất gấp, hai con bạch điêu từ phía bắc bay xuống.
Quách Tĩnh cả mừng, buông tiếng hú dài, đôi điêu đáp:
- Xuống đậu trên vai y.
Y lúc rời Mông Cổ lên đường vội vã chưa kịp mang theo đôi điêu. Lúc bấy giờ gặp lại vô cùng mừng rỡ, đưa tay không ngừng vuốt ve lưng điêu, chợt thấy chân con điêu trống có buộc một miếng đa cuộn thành cái ống nhỏ, vội mở ra xem, chỉ thấy bên trên dùng mũi đao nhọn rạch mấy hàng chữ Mông Cổ:“Quân ta tấn công xuống nam, định tập kích Tương Dương, biết ông tinh trung vì nước nên liều chết báo tin. Ta làm lụy mẹ ông chết thảm, thẹn thùng không còn mặt mũi nào gặp lại, qua thành xa ở phương tây nương tựa trưởng huynh, suốt đời không về đất cũ nữa. Mong ông tự trân trọng, hưởng phúc thọ vô cùng.”
Trên tấm da ấy không đề lạc khoản nhưng Quách Tĩnh vừa nhìn thấy đã biết ngay là thủ bút của công chúa Hoa Tranh, lúc ấy bèn dịch văn tự Mông Cổ trên tấm da cho cha con Hoàng Dược Sư nghe. Rồi hỏi:
- Nhạc phụ, người nói nên làm thế nào?
Hoàng Dược Sư nói:
- Ở đây tuy gần Lâm An, nhưng báo cho triều đình biết thì người chấp chính chưa chắc đã tin, ngần ngừ không quyết, ắt lỡ việc lớn. Con tiểu hồng mã của ngươi cước lực mau lẹ, nên lập tức tới Tương Dương. Nếu viên trấn tướng ở đó chịu nghe lời thì ngươi giúp y giữ thành, nếu không thì cứ một chưởng đánh chết y, suất lãnh sĩ tốt bách tính cùng ngăn chặn đại quân Mông Cổ. Ta và Dung nhi ở đảo Đào Hoa chờ tin mừng Quách Tĩnh luôn miệng khen hay, Hoàng Dung trên mặt thì có vẻ không vui. Quả thật là biết con gái không ai bằng cha, Hoàng Dược Sư cười nói:
- Được, Dung nhi, ngươi đi đi. Làm xong việc lớn thì phải lập tức trở về, cho dù triều đình có phong thưởng cũng không nên đếm xỉa gì tới.
Hoàng Dung cả mừng, cười nói:
- Cái đó tự nhiên.
Hai người lạy chào cha, cùng cưỡi một ngựa giong cương đi về phía tây.
Quách Tĩnh chỉ sợ chậm mất một ngày, quân Mông Cổ đã phá thành rồi, lúc ấy thì thảm cảnh tàn sát khó có thể tưởng tượng, nên trên đường không dám trễ nải.
Buổi tối hôm ấy hỏi nơi trú lại, thì đã tới nơi giáp giới giữa lộ nam Lường Chiết và lộ nam Giang Tây.
Quách Tĩnh cất miếng da có thủ bút của Hoa Tranh trong bọc, nhớ tới lúc nhỏ cùng Hoa Tranh, Đà Lôi nô đùa trên đại mạc, bao nhiêu tình cảnh đều như hiện ra trước mắt, vô cùng buồn thảm. Hoàng Dung mặc kệ y ngơ ngẩn xuất thần, cứ vá áo dưới đèn.
Quách Tĩnh chợt nói:
- Dung nhi, cô ta nói là làm lụy khiến mẹ ta chết thảm, thẹn không còn mặt mũi nào gặp ta, như thế là có ý gì?
Hoàng Dung nói:
- Cha cô ta bức tử mẹ ngươi, tự nhiên cô ta trong lòng khó xử.
Quách Tĩnh ờ một tiếng, cúi đầu nhớ lại tình hình trước và sau khi mẹ mất, đột nhiên nhảy bật dậy, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên ta biết rồi, té ra là thế!
Hoàng Dung bị y làm giật mình, mũi kim đâm vào tay ứa máu, cười nói:
- Biết thế nào, cứ chuyện bé xé ra to, ngươi biết cái gì?
Quách Tĩnh nói:
- Ta và mẹ lén mở mật lệnh của đại hãn, quyết ý về nam, lúc ấy trong lều không có ai khác mà đại hãn lại lập tức biết ngay, bắt mẹ con ta tới, đến nỗi mẹ ta tự vẫn tựu nghĩa. Tại sao chuyện ấy lộ ra, trước nay ta vẫn không hiểu, té ra, té ra là cô ta.
Hoàng Dung lắc đầu nói:
- Công chúa Hoa Tranh thật lòng thương yêu ngươi, cô ta quyết không tố cáo làm hại ngươi đâu.
Quách Tĩnh nói:
- Cô ta không hại ta, nhưng là muốn giữ ta lại. Cô ta ở ngoài trướng nghe mẹ con ta nói chuyện, đi báo cho cha biết, chỉ cho rằng đại hãn nhất định sẽ giữ không cho ta đi, nào ngờ lại sinh ra đại họa như thế .
Nói xong liên tiếp thở dài.
Hoàng Dung nói:
- Đó là cô ta vô tình có lỗi, ngươi cũng nên tới Tây Vực tìm cô ta đi?
Quách Tĩnh nói:
- Ta và cô ta chỉ có tình nghĩa anh em, cô ta bây giờ sống dựa vào trưởng huynh, ở Tây Vực vô cùng tôn quý, ta đi tìm làm gì?
Hoàng Dung mỉm cười duyên dáng, trong lòng rất vui vẻ.
Hôm ấy hai người một ngựa tới huyện Thượng Nhiêu ở lộ nam Giang Tây, trên đường núi cỏ cao tới bụng ngựa, vô cùng hoang vắng, thấy phía trước có một dải rừng rậm tối đen. Đang trên đường đi, đôi bạch điêu trên không đột nhiên kêu lên tức giận sà mau xuống, chớp mắt đã khuất sau cánh rừng. Quách Hoàng hai người biết có chuyện lạ vội thúc ngựa đuổi theo. Vòng qua cánh rừng, chỉ thấy đôi điêu đang bay lượn lên xuống ác đấu với một người, nhìn tới thì ra là Bành trưởng lão của Cái bang. Chỉ thấy y huy động cương đao bảo vệ toàn thân, đao pháp mau lẹ hiểm độc đôi điêu tuy dũng mãnh nhưng cũng khó mà thủ thắng. Đấu được một lúc, con điêu trống đột nhiên liều mạng lao xuống quặp vào khăn của Bành trưởng lão mổ mạnh vào đầu y một cái. Bành trưởng lão cương đao vung lên, chém rụng một mớ lông cánh của nó.
Hoàng Dung thấy một bên đầu Bành trưởng lão trọc lóc, thiếu mất một miếng da, không hề mọc tóc, lập tức hiểu ra:
- Lần trước điêu nhi bị trúng tên, té ra là gã ăn mày xấu xa này bắn. Về sau đôi điêu ác đấu với người ta ở cạnh chợ Thanh Long, cào được một miếng da đầu thì cũng chính là gã ăn mày độc ác này.
Bèn cao giọng quát:
- Họ Bành kia, ngươi nhìn xem bọn ta là ai.
Bành trưởng lão ngẩng đầu thấy hai người, hoảng sợ tới mức hồn phi phách tán, quay ngươi định chạy.
Con điêu trống sà mau xuống mổ vào đỉnh đầu y.
Bành trưởng lão vung đao bảo vệ trên đầu, con điêu mái bên cạnh cũng sà mau xuống, chiếc mỏ dài vươn ra mổ trúng mắt trái y. Bành trưởng lão kêu lớn một tiếng, ném cương đao xuống nhảy vào một bụi gai bên cạnh, bụi gai này rất rậm rạp, Bành trưởng lão tính mạng là quan trọng, còn kể gì tới việc bị gai cào, vừa lăn vừa bò rúc vào chỗ rậm rạp nhất. Lúc ấy thì đôi điêu đã không còn cách nào đả thương y nữa, chỉ là không chịu bỏ qua, cứ bay vòng quanh bụi gai không chịu đi.
Quách Tĩnh gọi đôi điêu, kêu lên:
- Y đã mất một mắt, tha cho y thôi.
Chợt nghe trong bụi cỏ rậm sau lưng vang lên mấy tiếng kêu, Quách Tĩnh kêu lên:
- A?
Tung người nhảy xuống ngựa, vạch bụi cỏ ra, chỉ thấy một đứa nhỏ ngồi dưới đất, bên cạnh lộ ra hai bàn chân đàn bà, vội vạch cỏ tiếp, chỉ thấy một cô ái áo xanh ngã ngất trên mặt đất, chính là Mục Niệm Từ.
Hoàng Dung vừa sợ vừa mừng, kêu lớn:
- Mục tỷ tỷ?
Rồi cúi xuống đỡ lên.
Quách Tĩnh bế đứa nhỏ lên, đứa nhỏ ánh mắt long lanh nhìn y chằm chằm, không hề sợ hãi. Hoàng Dung đẩy mấy cái lên người Mục Niệm Từ, lại dùng sức ấn lên mũi nàng.
Mục Niệm Từ dần dần tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy hai người, ngờ là đang trong mơ, run lên nói:
- Ngươi.., ngươi là Quách đại ca... Hoàng muội tử... .
Quách Tĩnh nói:
- Mục thế tỷ, tại sao lại ở đây? Cô không bị thương chứ?
Mục Niệm Từ chống tay muốn đứng lên, nhưng chưa đứng vững đã ngã xuống, chỉ thấy hai tay hai chân nàng đều bị trói chặt. Hoàng Dung vội bước qua cắt dây trói cho nàng. Mục Niệm Từ không quên đứa nhỏ mà Quách Tĩnh đang bế, định thần hồi lâu, mới có vẻ xấu hổ kể lại những chuyện đã qua.
Nguyên là Mục Niệm Từ thất thân với Dương Khang trên núi Thiết Chưởng, lại có mang, chỉ mong về tới nơi ở cũ tại phủ Lâm An, nhưng đi tới Thượng Nhiêu, thì đã không còn chi trì được nữa, bèn ngụ lại ở một gian nhà bỏ hoang trong rừng, không bao lâu thì sinh được một đứa con trai. Nàng không muốn thấy mặt người khác, định cứ ở lại trong rừng săn bắt hái lượm để sống, may là đứa nhỏ thông minh lanh lợi, cũng khiến nàng đỡ được nỗi hiu quạnh.
Hôm ấy nàng dắt con đi nhặt củi trong rừng, vừa khéo Bành trưởng lão đi qua, thấy nàng xinh đẹp sấn vào định có ý phi lễ. Mục Niệm Từ võ công tuy cũng không kém, nhưng Bành trưởng lão là một trong bốn đại trường lão của Cái bang, có thể sánh ngang với bọn Lỗ Hữu Cước, chỉ sau có Hồng Thất công mà thôi, Mục Niệm Từ tự nhiên không phải là đối thủ của y, không bao lâu đã bị y đánh ngã trói lại, vừa sợ vừa giận ngất đi. Nếu không phải là Quách Hoàng hai người đi ngang, mà đôi điêu ánh mắt sắc bén, từ trên không phát hiện được kẻ thù thì Mục Niệm Từ một đời khốn khổ, thế ắt lại phải chịu nhục với tên ác đồ này rồi.
Đêm ấy Quách Hoàng hai người nghỉ lại ở nhà Mục Niệm Từ. Hoàng Dung kể việc Dương Khang chết trong miếu Thiết Thương ở huyện Gia Hưng, thấy Mục Niệm Từ lệ rơi như mưa, có ý không quên tình cũ, càng không dám nói rõ chân tình, chỉ nói:
- Dương Khang bị trúng độc của Âu Dương Phong.
Nghĩ thầm:
- Như thế cũng không phải mình bịa đặt, y há chẳng phải bị trúng chất độc của độc xà của Âu Dương Phong mà chết sao?
Quách Tĩnh thấy đứa nhỏ mặt mũi anh tuấn, nhớ tới việc kết nghĩa với Dương Khang, than thở không thôi. Mục Niệm Từ rơi lệ nói:
- Quách đại ca, xin ngươi đặt cho đứa nhỏ này một cái tên.
Quách Tĩnh nghĩ một lúc rồi nói:
- Ta và cha nó kết nghĩa anh em, chỉ đáng tiếc là kết thúc không hay, ta cũng chưa hết nghĩa với bạn bè, đó là một điều đáng ân hận trong đời. Chỉ mong đứa nhỏ này lớn lên có lỗi ắt sửa, ra sức làm điều nhân nghĩa, ta đặt tên cho nó là Dương Quá, tự Cải Chi, cô thấy được không?
Mục Niệm Từ cảm tạ nói:
- Chỉ mong được như lời Quách đại ca.
Sáng hôm sau, Quách Tĩnh và Hoàng Dung tặng Mục Niệm Từ nhiều tiền bạc để hai mẹ con sinh sống qua ngày. Quách Tĩnh khuyên nàng về Lâm An. Mục Niệm Từ chỉ lắc đầu không đáp, lát sau mới khẽ nói:
- Hai mẹ con ta tới miếu Thiết Thương ở Gia Hưng thăm mộ cha nó trước.
Ba người từ biệt nhau, buồn bã chia tay.
Hai người đi về phía tây tới lộ nam Lường Hồ, chuyển lên phía bắc, không phải một ngày tới Tương Dương, thấy dân tình yên ổn chợ búa sầm uất, hoàn toàn không có dấu hiệu chiến tranh, biết đại quân Mông Cổ chưa tới, trong lòng cũng được an ủi. Tương Dương là trọng trấn phía bắc của nhà Nam Tống, có đặt chức An phủ sứ, lại thêm tinh binh bảo vệ. Quách Tĩnh nghĩ tới quân tình khẩn cấp, không kịp ghé nhà trọ, cùng Hoàng Dung tìm tới yết kiến An phủ sứ Lữ Văn Đức.
Vị An phủ sứ này tay cầm binh phù, oai phong lẫm liệt, Quách Tĩnh tuy ở Mông Cổ từng làm nguyên soái nhưng ở Nam Tống thì chỉ là một người dân thường áo vải, làm sao gặp được y? Hoàng Dung biết không có tiền không xong, bèn tiếng người giữ cửa một lượng vàng. Người giữ cửa tuy lập tức biến sắc, lộ vẻ mừng rỡ, nhưng xếp ngày tiếp khách của An phủ sứ thì mau nhất cũng phải sau nửa tháng, lúc ấy chỉ tiếp kiến các đạt quan quý nhân, cũng chưa chắc đã có thể gặp được Quách Tĩnh. Quách Tĩnh sốt ruột kêu lên:
- Quân tình khẩn cấp, làm sao chờ được?
Hoàng Dung vội đưa mắt ra hiệu, kéo y qua một bên, hạ giọng nói:
- Tối nay xông vào gặp!
Hai người tìm nơi nghỉ ngơi, chờ đến quá canh hai thi triển khinh công đột nhập vào phủ An phủ sứ. An phủ sứ Lừ Văn Đức đang ôm người thiếp ngồi cao uống rượu nghe nhạc, toàn tâm toàn ý vỗ về người thiếp của mình. Quách Hoàng hai người nhảy vào, Quách Tĩnh vái dài nói:
- Tiểu nhân có chuyện quân vụ khẩn cấp xin bẩm báo.
Lữ Văn Đức cả kinh quát lớn:
- Có thích khách!
Rồi đẩy người thiếp ra chui xuống gầm bàn. Quách Tình sãi chân bước tới, nắm một cái nhấc y lên nói:
- An phủ sứ đừng sợ, tiểu nhân không có ý làm hại.
Rồi đẩy y ngồi vào chỗ cũ.
Lữ Văn Đức sợ tới mức mặt không còn huyết sắc chỉ run lẩy bẩy. Chợt thấy dưới thềm có mấy mươi tên quân sĩ xông vào, đều cầm đao thương, sấn tới định cứu. Hoàng Dung rút chuỷ thủ ra chĩa vào ngực Lữ Văn Đức. Đám quân sĩ đồng thanh quát tháo nhưng không dám sấn lên. Hoàng Dung nói ngươi bảo họ đừng làm ầm lên, bọn ta có chuyện muốn nói.
Lữ Văn Đức tay chân run bần bật hạ lệnh, đám quân sĩ lúc bấy giờ mới im lặng.
Quách Tĩnh thấy y nắm quân một mặt, lãnh trọng nhiệm ngăn giặc giữ đất mà lại bị thịt như thế, trong lòng thầm than thở, lúc ấy bèn báo tin đại quân Mông Cổ sắp đánh úp Tương Dương, xin y lập tức điều binh khiển tướng, bố trí chướng ngại vật để giữ thành. Lữ Văn Đức trong bụng hoàn toàn không tin, nhưng miệng thì liên tiếp vâng dạ. Hoàng Dung thấy y cứ phát run, bèn hỏi người có nghe không?
Lữ Văn Đức nói:
- Nghe.., nghe rồi.
Hoàng Dung hỏi:
- Nghe cái gì?
Lữ Văn Đức nói:
- Có.., có quân Kim sắp tới đánh úp, phải chuẩn bị đề phòng, phải chuẩn bị đề phòng.
Hoàng Dung tức giận nói:
- Là quân Mông Cổ, không phải quân Kim!
Lừ Văn Đức giật nảy mình, nới:
- Quân Mông Cổ à? Không phải đâu. Mông Cổ và thừa tướng chúng ta liên minh đánh Kim, quyết không có ý khác.
Hoàng Dung nghiến răng nói:
- Ta nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.
Lữ Văn Đức gật đầu lia lịa, nói:
- Cô nương nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.
Quách Tĩnh nói:
- Tính mệnh nhà cửa của bách tính trong quận toàn nằm trong tay đại nhân. Tương Dương là bình phong của Nam triều, đại nhân phải thật lưu ý.
Lữ Văn Đức nói:
- Không sai, không sai, lão huynh nói không sai chút nào. Mời lão huynh cứ về thôi.
Quách Hoàng hai người thở dài một tiếng, vượt tường ra ngoài, chỉ nghe sau lưng mọi người quát tháo ầm lên:
- Bắt thích khách, bắt thích khách!
Ầm ĩ một hồi.
Hai người chờ hai ngày, thấy trong thành không có động tĩnh gì, Quách Tĩnh nói:
- Gã An phủ sứ này thật đáng ghét! Chẳng bằng theo lời nhạc phụ, cứ giết y trước rồi sẽ định kế.
Hoàng Dung nói:
- Trong vòng vài ngày quân giặc sẽ tới. Gã cẩu quan này giết không có gì đáng tiếc, chỉ là trong thành tất nhiên sẽ đại loạn, quân không có tướng, khó mà chống địch.
Quách Tĩnh cau mày nói:
- Đúng thế, nhưng làm sao bây giờ?
Hoàng Dung trầm ngâm nói:
- Trong Tả truyện có chép một chuyện cũ gọi là Huyền Cao khao quân, hay chúng ta cứ theo cách ấy.
Quách Tĩnh mừng rỡ nói:
- Dung nhi, đọc sách quả thật là rất có ích. Đó là chuyện gì, cô mau nói cho ta nghe, xem chúng ta có học được không.
Hoàng Dung nói:
- Học thì có thể học, chỉ là phải mượn thân xác của ngươi để dùng một phen.
Quách Tĩnh sửng sốt nói:
- Cái gì?
Hoàng Dung không đáp, lại bật ra tiếng cười khúc khích.
Nàng cười một lúc mới nói:
- Được, ta kể chuyện ấy cho ngươi nghe. Vào thời Xuân thu, nước Trịnh có một thương nhân tên Huyền Cao, y ra ngoài buôn bán, trên đường gặp đại quân nước Tần đang tới đánh úp nước Trịnh. Lúc ấy nước Trịnh hoàn toàn không đề phòng, chỉ e quân Tẩn mà tới là sẽ lập tức mất nước. Huyền Cao tuy là thương nhân nhưng rất yêu nước, lúc ấy nghĩ ra một kế, một mặt sai người liền đêm về báo cho Trịnh bá, mình thì dắt mười hai con bò tới gặp chủ tướng quân Tần nói là vâng lệnh Trịnh bá tới khao quân. Tướng Tần cho rằng nước Trịnh đã có phòng bị, không dám đánh úp nữa, lập tức đem quân về.
Quách Tĩnh mừng rỡ nói:
- Kế ấy rất hay, nhưng tại sao lại nói phải mượn thân xác của ta?
Hoàng Dung cười nói:
- Không phải là cần mười hai con bò sao? Ngươi tuổi con trâu, có phải không?
Quách Tĩnh nhảy bật dậy kêu lên:
- Giỏi lắm, cô quanh co để chửi ta.
Rồi đưa ngón tay cù nàng. Hoàng Dung phá ra cười bỏ chạy.
Hai người trò chuyện một lúc, Hoàng Dung nói:
- Đêm nay chúng ta vào phủ An phủ sứ lấy trộm một mớ vàng bạc của y, sáng mai ta sẽ mặc nam trang, khoác quần áo nhà quan, ra ngoài khao thưởng đại quân Mông Cổ, xem có thể lừa được họ lui quân không.
Quách Tĩnh vỗ tay khen hay. Đêm ấy hai người theo kế mà làm, gã An phủ sứ này kiếm được vàng bạc chất cao như núi, hai người trộm được một bao vàng bạc lớn và một bộ quan phục, người trong phủ đều ngủ say không biết. Hoàng Dung đổi mặc quan phục, rõ ràng là một viên quý quan tuấn tú, lúc ấy mang vàng bạc lên con tiểu hồng mã phi về phía bắc.
Đến giờ Ngọ hôm sau, Quách Tĩnh ngóng cổ chờ ở cửa bắc, chỉ thấy con tiểu hồng mã phi nhứ bay trong đám bụi mù, vội bước ra đón. Hoàng Dung kéo cương ngựa, mặt hiện vẻ hoảng sợ, run lên nói:
- Đại quân Mông Cổ e có hơn mười vạn, chúng ta làm sao chống cự được?
Quách Tĩnh giật nảy mình nói:
- Nhiều đến thế à?
Hoàng Dung nói:
- Xem ra Thành Cát Tư Hãn đã dốc cả nước tới đánh, định một trận diệt Tống. Ta đem vàng bạc tặng cho viên đại tướng tiên phong, y không choán được chúng ta đã biết tin, nói mượn đường để đánh Kim chứ không phải là đánh Tống. Ta dùng lời lẽ vạch trần chân tướng, y kinh nghi bất định, lập tức dừng ngựa lại không tiến, chắc là sẽ hồi báo lại với đại nguyên soái.
Quách Tỉnh nói:
- Nếu họ lui quân thì tự nhiên không gì tốt bằng, nhưng chỉ sợ.., nhưng chỉ sợ... .
Hoàng Dung nhướng mày nói:
- Xem thanh thế của quân Mông Cổ như thế nhất định sẽ không chịu khinh dị rút lui. Quách Tĩnh nói:
- Cô nghĩ cách nào hay đi.
Hoàng Dung lắc đầu nói:
- Ta đã nghĩ suốt một ngày một đêm rồi. Tĩnh ca ca, nếu nói đơn đả độc đấu thì trong thiên hạ chỉ có hai ba người thắng được ngươi thôi, dù địch nhân có mười người trăm người cũng không đáng gì với hai chúng ta cả, nhưng hiện tại địch quân là hàng ngàn hàng vạn hàng chục vạn người thì còn có cách gì được?
Quách Tĩnh thở dài nói:
- Quân dân Đại Tống chúng ta so với người Mông Cổ thì đông gấp mười lần, nếu hàng vạn người chung lòng thì còn sợ gì tinh binh Mông Cổ? Chỉ hận là hận nhà vua hèn nhát hôn ám, dối dân hại nước.
Hoàng Dung nói:
- Quân Mông Cổ không tới thì thôi, chứ nếu tới chúng ta giết một người là được một người, lúc nguy cấp thế này chúng ta còn có có thể nhờ được con tiểu hồng mã, cũng không cần lo việc thiên hạ tới mức như thế .
Quách Tĩnh nghiêm trang nói:
- Dung nhi câu ấy không đúng đâu. Chúng ta học binh pháp trong di thư của Vũ Mục, há lại không học bốn chữ Tinh trung báo quốc mà Nhạc Vũ Mục dạy? Hai chúng ta người đơn lực bạc nhưng cũng phải tận tâm kiệt lực, vì nước chống giặc. Cho dù mất mạng ở sa trường, cũng không uổng một phen cha mẹ sư phụ nuôi dạy. Hoàng Dung thở dài nói:
- Ta vốn biết khó mà tránh khỏi có ngày hôm nay. Thôi thôi thôi, ngươi sống thì ta cũng sống, ngươi chết thì ta cũng chết là được.
Hai người bàn bạc xong, trong lòng lại thấy khoan khoái lúc ấy trở về chỗ trọ, đối ẩm trò chuyện, nghĩ tới việc quân địch vào cõi, đối diện với cảnh sinh ly tử biệt, so với ngày trước càng thân thiết hơn. Uống đến canh hai, chợt nghe ngoài thành vang lên tiếng kêu khóc ầm ầm, từ xa xa vẳng lại, võ cùng thê thảm.
Hoàng Dung kêu lên:
- Tới rồi!
Hai người nhảy phắt dậy, chạy lên đầu thành chỉ thấy nạn dân ngoài thành ùn ùn kéo tới, dắt già bế trẻ, dòng người cuồn cuộn không dứt.
Nào ngờ quan thủ thành ra lệnh cho quân sĩ đóng chặt cửa thành, không cho nạn dân vào thành. Qua không ban lâu, Lữ Văn Đức phái thêm quân sĩ giương cung lắp tên chĩa vào nạn dân quát thét đuổi lui. Nạn dân dưới thành kêu lớn “Quân Mông cổ đánh tới rồi!”
Quan thủ thành cứ nhất định không chịu mở cửa. Nạn dân dưới thành kêu gào khóc lóc, tiếng khóc vang trời.
Quách Hoàng hai người đứng trên thành phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy từ xa có một con rồng lửa ngoằn ngoèo bò tới, rõ ràng là cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã tới. Quách nh ở dưới trướng của Thành Cát Tư Hãn lâu ngày, biết rõ thói quen công thành của quân Mông Cổ, luôn luôn là bắt tù binh giặc lên thành trước, nhìn thấy mấy vạn nạn dân tập trung dưới thành, đội tiên phong của quân Mông Cổ mà tới, thì quán dân trong thành ngoài thành Tương Dương thế không khỏi bị tàn sát bằng hết.
Lúc ấy tình thế khẩn cấp, đã không thể còn ngần ngừ, Quách Tĩnh đứng trên thành vung tay quát lớn:
- Nếu thành Tương Dương bị quân Mông Cổ hạ, thì không ai sống được, ai là hảo hán mau theo ta xông ra chống giặc!
Quan thủ thành phía bắc là thân tín của Lữ An phủ, nghe Quách Tĩnh kêu gọi như thế, tức giận quát:
- Gian tặc dám làm loạn nhân tâm, mau bắt nó xuống đây?
Quách Tĩnh từ trên thành nhảy xuống, tay phải vươn ra đã nắm ngực viên quan thủ thành nhấc cao lên, mình thì nhảy lên con ngựa của y.
Trong quan binh vốn có nhiều người trung nghĩa, nhìn thấy nạn dân kêu khóc dưới thành đã rất bất nhẫn, lúc ấy thấy Quách Tĩnh bắt được quan thủ thành, bất giác vừa mừng vừa sợ, không ai xông lên cứu giúp trưởng quan Quách Tĩnh quát:
- Mau truyền lệnh mở cửa thành!
Quan thủ thành tính mạng là gấp, chỉ đành theo lời ra lệnh Cửa bắc mở toang, nạn dân như sóng ùn ùn đổ vào.
Quách Tĩnh giao viên quan thủ thành cho Hoàng Dung coi giữ, lại định cầm thương giục ngựa ra thành. Hoàng Dung nói:
- Chờ một lúc!
Rồi sai quan thủ thành cởi hết áo giáp mũ trụ cho Quách Tĩnh mặc, rỉ tai Quách Tĩnh nói:
- Giả truyền thành chỉ, đem quân ra thành.
Rồi lật tay phất vào huyệt đạo của viên quan thủ thành, vứt y xuống phía sau cổng thành. Quách Tĩnh nghĩ kế này rất hay, lúc ấy cao giọng quát:
- Vâng thánh chỉ: An phủ sứ thành Tương Dương Lữ Văn Đức hôn ám bất tài, lập tức cách chức, các tướng sĩ theo ta ra thành chống giặc! Y nội công thâm hậu, mấy câu ấy vận khí đan điền phát thoại, tuy trong thành ngoài thành đang huyên náo nhưng người nào cũng nghe thấy rất rõ, trong chớp mắt tất cả đều im phăng phắc. Trong lúc hoảng loạn, quân sĩ làm sao còn phân biệt thật giả?
Lại thêm trong quân trên dưới đối với Lữ Văn Đức trước nay vẫn có lòng nghi ngờ, biết y nhu nhược sợ chết, lúc ấy cường địch vào cõi, giữa lúc kinh hoàng luống cuống chợt nghe thấy lệnh hôn quan bị cách chức, có người dẫn quân ra chống giặc, bốn phía đều bật lên tiếng hoan hô.
Quách Tĩnh dẫn sáu bảy ngàn người ngựa ra thành, nhìn thấy quân dung không tề chỉnh, đội ngũ rối loạn, làm sao có thể đối địch với tinh binh Mông Cổ?
Nghĩ lại trong di thư của Vũ Mục có nói:
- Việc gấp thì dùng kỳ binh, binh nguy thì dùng trá kế .
Bèn lập tức truyền lệnh, sai hơn ba ngàn quân sĩ ra mai phục phía đông sau núi, nghe một tiếng pháo lệnh thì đồng thời hò reo, phất cờ, nhưng không ra đánh, lại sai hơn ba ngàn quân mai phục phía tây sau núi, nghe tiếng pháo hiệu thứ hai cũng reo hò phất cờ, hư trương thanh thế.
Thống lĩnh hai đội quân thấy Quách Tĩnh đã có mưu kế, chỉ huy rõ ràng, đều vâng lệnh dẫn quân đi.
Đến lúc nạn dân đã vào hết trong thành, trời đã sáng hẳn. Tai nghe tiếng chiêng khua vang, tiếng vó ngựa rầm tập phi tới, nhìn thấy bụi bốc mù mịt, cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã kéo tới dưới thành.
Hoàng Dung lấy một ngọn thương một con ngựa trong quân theo sát Quách Tĩnh. Quách Tĩnh cao giọng ra lệnh:
- Mở toang bốn cổng thành! Quân dân trong thành đều phải núp cả trong nhà, ai dám ra ngoài đi lại sẽ chém lập tức!
Thật ra y không ra lệnh như thế thì quân dân trong thành cũng đã sớm ẩn núp không thấy bóng dáng đâu, những người can đảm đều đã ra mai phục ở hai bên đông tây sau núi, còn loại khiếp nhược như Lừ Văn Đức nếu không chui xuống gầm bàn niệm lớn Cứu khổ cứu nạn cao hoàng kinh thì núp trong chăn run lên cầm cập.
Mấy trăm thiết ky quân Mông Cổ sầm sập phóng tới như gió, chỉ thấy cửa thành Tương Dương mở toang, hai thiếu niên một nam một nữ cười ngựa cầm thương đứng trước điếu kiều chỗ hào thành. Viên Thiên phu trưởng tiên phong nhìn thấy rất kinh ngạc, không dám xông lên, phóng ngựa về báo cho viên Vạn phu trưởng ở hậu đội. Viên Vạn phu trưởng trận mạc đã nhiều, nghe báo cảm thấy kỳ lạ, nghĩ thầm trên đời làm gì có chuyện ấy, vội giục ngựa phóng tới trước thành, từ xa nhìn thấy Quách Tĩnh đã giật nảy mình. Lúc y tây chinh, mấy lần thấy Quách Tĩnh dùng kế lạ đánh thành phá giặc, đánh đâu thắng đó, đem quân trên không nhảy xuống phá thành Tán Ma Nhĩ Hãn lại càng khâm phục sát đất, trong quân Mông Cổ đến nay vẫn còn truyền tụng, lúc ấy thấy Quách Tĩnh đứng trước thành, trong thành lại vắng ngắt không có nửa bóng người, đoán ắt là y dùng diệu kế, đâu dám tấn công. Lúc ấy xuống ngựa ôm quyền làm lễ, kêu lên:
- Kim đao phò mã ở trên, tiểu nhân xin thi lễ.
Quách Tĩnh vái lại một vái chứ không nói gì. Viên Vạn phu trưởng kéo quân lùi lại phi báo với thống soái. Qua hơn một giờ, dưới ngọn cờ đại độc phất phơ có một đội quân mặc giáp sắt loảng xoảng phi tới, xúm xít quanh một tướng quân thiếu niên phóng tới trước thành, chính là Tứ vương tử Đà Lôi.
Đà Lôi phóng ngựa lên trước gọi lớn:
- Quách Tĩnh an đáp ngươi khỏe không?
Quách Tĩnh thúc ngựa phóng ra nói:
- Đà Lôi an đáp, té ra là ngươi à?
Hai người nếu lúc bình thường gặp nhau nhất định sẽ vui mừng ôm chằm lấy nhau, nhưng lúc này còn cách nhau ngoài năm trượng thì không hẹn mà cùng kìm ngựa lại.
Quách Tĩnh nói:
- An Ðáp, ngươi dẫn quân tới đánh Đại Tống ta phải không?
Đà Lôi đáp:
- Ta vâng lệnh phụ hoàng, không tự chủ được, xin ngươi thứ lỗi.
Quách Tĩnh đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy cờ xí như mây, ánh đao lóe tuyết, không biết có bao nhiêu người ngựa, nghĩ thầm: Đội thiết ky này mà xông tới thì Quách Tĩnh ta hôm nay nhất định phải mất mạng ở đây, Lúc ấy lớn tiếng đáp:
- Được, vậy ngươi tới đây lấy mạng ta trước đi!
Đà Lôi hơi hoảng sợ, nghĩ thầm:
- Người này dùng binh như thần, mình quả thật không phải là địch thủ của y, huống chi mình với y tình còn hơn cốt nhục, há lại làm tổn thương tình anh em kết nghĩa.
Nhất thời ngần ngừ không quyết định được.
Hoàng Dung quay đầu lại vung tay phải một cái, quân sĩ trong thành bắn pháo hiệu, đùng một tiếng vang rền, phía đông sau núi quân sĩ ầm ầm reo hò, cờ xí phất cao. Đà Lôi biến sắc, chỉ nghe tiếng pháo nổ liên thanh, phía tây sau núi lại có quân địch hò reo, nghĩ thầm:
- Không xong, quân ta rơi vào ổ mai phục rồi.
Y theo Thành Cát Tự Hãn đánh đông dẹp bắc đâu chỉ thân trải trăm trận mà thôi, trận lớn nào cũng đã thấy qua, có coi mấy vạn quân sĩ mai phục ra gì? Nhưng lúc tây chinh Quách Tĩnh đã bộc lộ tài năng, Đà Lôi vốn vẫn sợ phục, lúc ấy thấy tình thế khác lạ, trong lòng đã e sợ, lập tức truyền lệnh đổi hậu quân làm tiền quân, lui về ba mươi dặm hạ trại.
Quách Tĩnh thấy quân Mông Cổ lui về, cùng Hoàng Dung nhìn nhau cười.
Hoàng Dung nói:
- Tĩnh ca ca, chúc mừng ngươi dùng kế không thành lập công.
Quách Tĩnh vẻ tươi cười lập tức thu lại, lo lắng hiện ra mặt, lắc đầu nói:
- Đà Lôi là người kiên nhẫn quả cảm, tuy hôm nay lui quân nhưng ngày mai nhất định sẽ lại tới, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn?
Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, nói:
- Chỉ có một kế, chỉ sợ ngươi nghĩ tới tình kết nghĩa không chịu làm thôi.
Quách Tĩnh hoảng sợ nói:
- Cô muốn ta đi hành thích y à?
Hoàng Dung nói:
- Y là đứa con út rất được thương yêu của đại hãn, tôn quý vô cùng, không phải như các đại tướng cầm quân khác. Tứ hoàng tử mà chết, quân địch ắt lui.
Quách Tĩnh cúi đầu không nói gì, quay trở vào thành.
Quân dân trong thành tuy thấy quân địch đã lui, nhưng khắp nơi vẫn xôn xao nhốn nháo. Lữ Văn Đức nghe nói:
- Quách Tĩnh nói một câu đã khiến đại quân Mông Cổ rút lui, mừng rỡ đích thân tới chỗ hai người bái phỏng, muốn mời hai người tới phủ uống rượu ăn mừng. Quách Tĩnh bàn kế sách giữ thành với y. Lữ Văn Đức vừa nghe y nói quân Mông Cổ ngày mai sẽ tới đánh thành, lập tức sợ nhũn cả người, hồi lâu không nói nên lời chỉ kêu lên:
- Sắp kiệu về phủ, sắp kiệu về phủ.
Y đã quyết ý đêm nay sẽ bỏ thành chạy về phía nam.
Quách Tĩnh buồn bã không vui, không thiết ăn uống, trời tối dần, nghe tiếng kêu khóc vang lên khắp thành, nghĩ thầm giờ này ngày mai trong thành Tương Dương e không còn một thần dân Đại Tống nào còn sống, quân Mông Cổ lấy máu rửa thành y đã chính mắt nhìn thấy không ít, tình trạng thảm sát ở thành Tán Ma Nhĩ Hãn ngày trước không ngừng hiện ra trong đầu, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên:
- Dung nhi, người xưa vì đại nghĩa diệt thân, hôm nay ta há còn nghĩ tới nghĩa bạn bè?
Hoàng Dung thở dài nói:
- Chuyện này vốn rất khó khăn.
Quách Tĩnh trong lòng đã quyết, lúc ấy lập tức thay đồ dạ hành, cùng Hoàng Dung cưỡi con tiểu hồng mã ra cửa bắc thành, tới gần khu vực quân Mông Cổ thì thả ngựa vào núi, đi bộ tìm tới trướng Đà Lôi. Hai người bắt được hai tên quân canh đêm, điểm huyệt lột hết quần áo mặc vào. Tiếng Mông Cổ thì Quách Tĩnh từ nhỏ đã nói quen, quy định trong quân cũng không điều gì không biết, lúc ấy không hề tốn chút sức lực đã tới cạnh trướng đại tướng. Lúc ấy sắc trời đã tối đen, hai người núp sau trướng, ghé mắt vào cửa trướng nhìn trộm.
Chỉ thấy Đà Lôi trong trướng đi qua đi lại, thần sắc không vui, miệng chỉ kêu lên:
- Quách Tĩnh, An Ðáp! An Ðáp, Quách Tĩnh.
Quách Tĩnh không hiểu, chỉ cho rằng y đã phát hiện ra tông tích của mình, suýt nữa buột miệng lên tiếng. Hoàng Dung đã sớm đề phòng, vừa thấy y há miệng, lập tức đưa tay bịt miệng y. Quách Tĩnh thầm mắng mình ngu xuẩn, vừa thấy buồn cười, vừa thấy khó xử. Hoàng Dung nói khẽ vào tai y “Động thủ đi, đại trượng phu phải tùy cơ quyết đoán, chần chừ vô ích.
Đúng lúc ấy, chợt nghe xa xa có tiếng vó ngựa vang lên rất gấp, một kỵ mã phóng mau tới trước trướng. Quách Tĩnh biết có tin khẩn cấp, ghé vào tai Hoàng Dung nói:
- Để nghe quân tình xong sẽ giết y cũng không muộn.
Chỉ thấy một viên sứ giả áo vàng tung người nhảy xuống ngựa, bước thẳng vào trướng, dập đầu với Đà Lôi bẩm:
- Tứ vương tử, đại hãn có lệnh.
Đà Lôi nói:
- Đại hãn nói gì?
Viên sứ giả kia quỳ dưới tấm nệm, bắt đầu hát lên. Nguyên là người Mông Cổ khai hóa chưa lâu, tuy đã có văn tự, nhưng Thành Cát Tư Hãn đã không biết chữ, không biết viết, có chỉ ý gì chỉ sai sứ giả truyền miệng, chỉ sợ là có điều lầm sót truyền sai lệnh, thường biến chỉ lệnh thành bài hát, sai sứ giả học thuộc lòng, hát đi hát lại không sai mới được lên đường.
Viên sứ giả kia chỉ mới hát ba câu, Đà Lôi và Quách Tĩnh đã giật nảy mình, Đà Lôi thì ứa nước mắt. Nguyên là Thành Cát Tư Hãn sau khi tiêu diệt Tây Hạ bị mắc bệnh, gần đây ngày càng nặng, tự biết không khỏi triệu Đà Lôi mau ban sư để về gặp. Đoạn cuối lệnh chỉ nói:
- Hàng ngày rất nhớ nhung Quách Tĩnh, nếu Đà Lôi ở phía nam biết được y ở đâu, thì phải gọi y lên bắc để vĩnh biệt đại hãn, những tội y phạm đều tha cho cả.
Quách Tĩnh nghe tới đó, đưa chuỷ thủ ra rạch vải lều chui vào trong kêu lên:
- Đà Lôi an đáp, ta đi với ngươi.
Đà Lôi giật nảy mình, thấy là Quách Tĩnh không kìm được vui mừng, hai người ôm chầm lấy nhau. Viên sứ giả nhận ra Quách Tĩnh bèn bước lên dập đầu nói:
- Kim đao phò mã, đại hãn có chỉ, mời người nhất định phải về kim trướng gặp mặt.
Quách Tĩnh nghe bốn chữ Kim đao phò mã, trong lòng hoảng sợ, chỉ sợ Hoàng Dung nghĩ ngợi vội nhảy ra ngoài, kéo tay Hoàng Dung nói:
- Dung nhi, ta và cô cùng đi cùng về.
Hoàng Dung trầm ngâm không đáp. Quách Tĩnh nói:
- Cô tin ta không?
Hoàng Dung duyên dáng mỉm cười, nói:
- Nếu ngươi còn muốn làm phò mã phò ngưu gì đó thì ta cũng sẽ đại nghĩa diệt thân, một đao chọc tiết ngươi.
Ngay đêm ấy Đà Lôi hạ lệnh rút quân, sáng hôm sau đại quân lên đường.
Quách Tĩnh và Hoàng Dung trở lại tìm con tiểu hồng mã và đôi điêu. Rồi theo quân lên bắc. Đà Lôi chỉ sợ không kịp thấy mặt cha, lệnh phó tướng dẫn quân về sau, mình cùng Quách Hoàng hai người phóng ngựa đi mau trước, không đầy một tháng đã về tới kim trướng của Thành Cát Tư Hãn ở Tây Hạ. Đà Lôi từ xa nhìn thấy ngọn cờ đại độc chín chòm lông vẫn dựng trước Kim trướng không có gì lạ, biết cha vẫn còn khỏe, reo lớn một tiếng, thúc ngựa phóng tới trước trướng.
Quách Tĩnh kìm ngựa nhớ lại ơn Thành Cát Tư Hãn nuôi dưỡng, cái ơn tri ngộ, mối thù giết mẹ, việc tàn sát thê thảm, nhất thời thương giận lẫn lộn, cúi đầu không nói gì. Chợt nghe tiếng tù và thổi vang, hai hàng Tiễn đồng vệ sĩ bày ra hai hàng trước kim trướng. Thành Cát Tư Hãn mặc áo cừu lông điêu đen, vịn vai phải Đà Lôi từ trong trướng rảo chân bước ra. Y cước bộ tuy vẫn còn mau lẹ như xưa nhưng đặt xuống đất hơi run, thân hình cũng loạng choạng. Quách Tĩnh bước lên trước lạy rạp xuống đất.
Thành Cát Tư Hãn lệ nóng tràn lên mắt, run giọng nói:
- Đứng lên, đứng lên? Ta ngày nào cũng nhớ tới các ngươi.
Quách Tĩnh đứng lên, chỉ thấy đại hãn mặt đầy nếp nhăn, hai má hóp vào, xem ra không còn sống bao lâu, bất giác lòng thù hận tiêu giảm hết. Thành Cát Tư Hãn tay kia vịn vai trái Quách Tĩnh, nhìn nhìn Đà Lôi, lại nhìn nhìn Quách Tĩnh, thở dài một hơi, đưa mắt nhìn ra đại mạc xa xa, ngơ ngẩn xuất thần. Quách Tĩnh và Đà Lôi không biết y đang nghĩ ngợi gì, đều không dám lên tiếng.
Qua hồi lâu Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:
- Lúc đầu ta cùng Trát Mộc Hợp an đáp kết nghĩa dấy quân, nào ngờ cuối cùng ta lại không giết y không được Ta làm đại hãn của thiên hạ rồi, y thì chết trong tay ta. Lại qua mấy hôm nữa thì sao? Ta lại chẳng cũng xuống đất vàng như y à? Ai thắng ai bại, rốt lại có gì khác nhau đâu?
Rồi vỗ vỗ vai hai người, nói:
- Các ngươi phải nên thủy chung hòa hảo, ngàn muôn lần đừng giết chóc lẫn nhau. Trát Mộc Hợp an đáp chết rồi, ta mỗi khi nhớ tới tình kết nghĩa, thì lại trọn đêm không sao chợp mắt.
Đà Lôi và Quách Tĩnh nhớ tới lúc dưới thành Tương Dương suýt nữa liều mạng sống chết với nhau, đều thầm xấu hổ.
Thành Cát Tư Hãn đứng một lúc, cảm thấy toàn thân rã rời, đang muốn quay về, chợt thấy một toán người ngựa phóng tới. Người đi đầu mặc áo trắng thắt đai vàng, mặc quần áo nước Kim. Thành Cát Tư Hãn thấy người tới là địch nhân, tinh thần đột nhiên phấn chấn.
Người ấy nhảy xuống ngựa từ xa, rảo bước tới gần, từ xa lạy rạp xuống đất không dám tới gần. Đám thị vệ tâu “Sứ giả nước Kim cầu kiến đại hãn.
Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:
- Nước Kim không chịu đầu hàng, còn sai người tới gặp ta làm gì?
Viên sứ giả kia nằm rạp dưới đất nói:
- Hạ bang tự biết mạo phạm thiên uy của đại hãn, tội đáng muôn chết, xin hiến một ngàn viên minh châu tổ truyền, xin đại hãn bớt giận tha tội. Một ngàn viên minh châu này là bảo vật của hạ bang, xin thỉnh cầu đại hãn ra ơn nhận cho”, sứ giả bẩm xong, cởi bao phục trên lưng lấy ra một cái mâm ngọc, lại lấy trong bọc ra vô số minh châu, quỳ xuống dưới đất, hai tay bưng mâm ngọc đưa lên. Thành Cát Tư Hãn liếc qua chỉ thấy trong mâm có hàng ngàn viên minh châu, đều to xấp xỉ bằng đầu ngón tay út, xoay vòng quanh một viên minh châu lớn. Viên minh châu ấy quả thật là bảo vật hiếm có trên đời, huống chi hàng ngàn viên? Huống chi ngoài viên minh châu lớn, số minh châu còn lại đều to xấp xỉ nhau. Chỉ thấy ánh trân châu sáng rực lóng lánh soi sáng lẫn nhau, trên mâm ngọc như có một cái cầu vồng phủ lên. Nếu là lúc bình thời thì tự nhiên Thành Cát Tư Hãn rất vui vẻ, nhưng lúc ấy y cau mày mấy cái nói với đám thị vệ:
- Nhận lấy.
Đám thị vệ đón lấy mâm ngọc. Viên sứ giả thấy đại hãn thu nhận lễ vật vô cùng mừng rỡ, nói:
- Đại hãn cho giảng hòa, hạ bang từ vua tới dân đều cảm ơn đức.
Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:
- Ai nói cho giảng hòa? Ta trở về sẽ phát binh tiêu diệt bọn chó Kim. Tả hữu đâu, bắt lấy nó!
Đám thị vệ đổ tới bắt lấy viên sứ giả.
Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:
- Cho dù có ngàn viên minh châu cũng khó có thể cho ta sống thêm được một ngày!
Rồi đón lấy cái mâm ngọc trong tay thị vệ, ném mạnh xuống đất, cả mâm lẫn ngọc lăn tròn, cái mâm ngọc rơi xuống bậc đá, lập tức vỡ nát. Mọi người đều hoảng sợ ngạc nhiên.
Số châu ngọc ấy về sau tướng sĩ Mông Cổ nhặt được rất nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều vương vãi trong bãi cỏ, đến mấy trăm năm sau trên thảo nguyên thỉnh thoảng vẫn có mục dân nhặt được.
Thành cát Tư Hãn chán nản quay về kim trướng. Đến xế chiều y gọi một mình Quách Tĩnh theo đi dạo trên thảo nguyên. Hai người giục ngựa cùng đi, được hơn mười dặm chợt nghe trên đầu có mấy tiếng chim điêu kêu, ngẩng nhìn thấy đôi bạch điêu đang lượn vòng trên không. Thành Cát Tư Hãn giương cung lắp tên nhắm thẳng vào con điêu mái. Quách Tĩnh hoảng sợ kêu lên:
- Đại hãn, đừng bắn!
Thành Cát Tư Hãn tuy đã già yếu nhưng ra tay vẫn rất mau lẹ, Quách Tĩnh vừa bật tiếng kêu, mũi tên đã bắn ra.
Quách Tĩnh thầm kêu khổ, y vốn biết Thành Cát Tư Hãn tý lực hơn người, tên bắn không mũi nào sai, phát tên ấy bắn ra, con chim điêu yêu quý ắt phải mất mạng, nào ngờ con điêu mái ngoắt qua tránh khỏi, cánh trái vỗ một cái đập mũi tên rơi xuống đất. Con điêu trống cả giận rít lớn một tiếng lao xuống mổ vào đầu Thành cát Tư Hãn. Quách Tĩnh quát:
- Súc sinh, muốn chết à?
Rồi vung roi đánh con điêu trống. Con điêu trống thấy chủ nhân ra tay bèn vòng lên không, kêu lên mấy tiếng, cùng con điêu mái song song bay đi.
Thành Cát Tư Hãn thần sắc buồn thảm, ném cung tên xuống đất, nói:
- Mấy mươi năm nay đây là lần đầu tiên ta bắn điêu không trúng, chắc là đúng tới lúc chết rồi.
Quách Tĩnh định an ủi nhưng không biết nói thế nào. Thành Cát Tư Hãn đột nhiên kẹp hai chân một cái thúc ngựa phi mau lên phía bắc. Quách Tĩnh sợ y bị sơ xuất phóng ngựa vượt lên, con tiểu hồng mã lướt đi như gió trong chớp mắt đã vượt qua ngựa y.
Thành Cát Tư Hãn kìm cương nhìn quanh, chợt nói:
- Tĩnh nhi, đất nước to lớn mà ta dựng nên, xưa nay chưa từng có ai bằng được, từ giữa đất nước đi tới những nơi xa xôi nhất, đông nam tây bắc đều phải đi đường mất một năm. Ngươi nói các anh hùng cổ kim có ai hơn ta không?
Quách Tĩnh trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Đại hãn võ công hơn đời, xưa nay không ai bằng. Chỉ là đại hãn một mình oai phong hiển hách, nhưng thiên hạ lại không biết có bao nhiêu đống xương trắng chồng chất, làm chảy không biết bao nhiêu nước mắt của cô nhi quả phụ.
Thành Cát Tư Hãn trợn mắt lên, giơ roi ngựa muốn đánh lên đầu Quách Tĩnh, nhưng thấy y ngang nhiên không sợ đưa mắt nhìn mình, chiếc roi ngựa vung lên nửa chừng lại buông xuống, quát:
- Ngươi nói gì?
Quách Tĩnh nghĩ thầm:
- Từ nay trở đi chưa chắc đã có dịp gặp lại đại hãn, cho dù khiến y tức giận thì ý nghĩ trong lòng cũng phải nói rõ.
Lúc ấy ngang nhiên nói:
- Đại hãn, người nuôi con dạy con, bức tử mẹ con, đó là chuyện ân oán riêng tư, lúc này không cần nói nữa. Con chỉ muốn hỏi người một câu. Sau khi người ta chết, chôn xuống đất rồi thì chiếm hết bao nhiêu đất?
Thành Cát Tư Hãn sửng sốt, ngọn roi khua lên mấy vòng, nói:
- Cái đó thì chẳng đáng bao nhiêu.
Quách Tĩnh nói:
- Đúng thế, vậy người giết chết bấy nhiêu người, làm đổ bấy nhiêu máu, chiếm được bấy nhiêu nước, rốt lại dùng để làm gì?
Thành Cát Tư Hãn im lặng không đáp.
Quách tĩnh lại nói:
- Xưa nay bậc anh hùng khiến cho đương thời kính ngưỡng, đời sau nhớ tiếc ắt là kẻ tạo phúc cho dân, thương yêu bách tính. Theo con thấy thì giết nhiều người cũng chưa chắc đã đáng gọi là anh hùng.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Chẳng lẽ suốt đời ta chưa từng làm chuyện gì tốt à?
Quách Tĩnh nói chuyện tốt thì tự nhiên là có, nhưng chuyện lớn hơn là người nam chinh tây phạt, xác chết chất thành núi, đâu là công đâu là tội cũng rất khó nói.
Y tính tình thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy.
Thành Cát Tư Hãn nhất sinh tự phụ, lần này lại bị y dồn cho một chặp như thế, đã khó biện bác, nghĩ lại chuyện trước, giục ngựa quay đầu, không kìm được chán nản, lát sau ọe một tiếng, phun ra một búng máu tươi.
Quách Tĩnh giật nảy mình, mới biết mình ăn nói nặng lời, vội đưa tay đỡ y, nói:
- Đại hãn, người về nghỉ ngơi thôi. Con ăn nói có điều mạo phạm, xin người tha tội.
Thành Cát Tư Hãn cười nhạt một tiếng, khuôn mặt trắng bệch như sáp, thở dài nói:
- Tả hữu của ta không ai to gan bằng ngươi, dám nói mấy câu thật lòng với ta.
Rồi lập tức nhướng mày, trên mặt hiện vẻ ngạo nghễ, cao giọng nói:
- Ta nhất sinh tung hoành thiên hạ, diệt quốc vô số mà ngươi lại nói không phải là anh hùng à? Hà, đúng là lời trẻ con!
Vung roi đánh mạnh con ngựa một cái, phi mau trở về.
Đêm ấy Thành Cát Tư Hãn băng trong kim trướng, lúc lâm tử vẫn lẩm bẩm:
- Anh hùng, anh hùng... .
Chắc trong lòng vẫn suy nghĩ về lần trò chuyện ấy của Quách Tĩnh.
Quách Tĩnh và Hoàng Dung hướng về di thể đại hãn làm lễ xong, từ biệt Đà Lôi, ngay hôm ấy lên đường về nam. Suốt đường về thấy xương khô rải rác khắp nơi trong bụi cỏ, không kìm được bùi ngùi, nghĩ thầm hai người tuy được vẹn tình đôi lứa, có thể nói là không có gì phải ân hận, nhưng người đời khổ nạn càng sâu, không biết ngày nào mới được thái bình.
Đúng là:
Sau loạn tro còn ấm, Thôn nghèo mấy nóc nhà.
Qua đò không khách sớm, Cát lạnh ánh trăng tà!

Hết
Anh Hùng Xạ Điêu
Hồi 1(a)
Hồi 1(b)
Hồi 2(a)
Hồi 2(b)
Hồi 3(a)
Hồi 3(b)
Hồi 4(a)
Hồi 4(b)
Hồi 5(a)
Hồi 5(b)
Hồi 6(a)
Hồi 6(b)
Hồi 7(a)
Hồi 7(b)
Hồi 8(a)
Hồi 8(b)
Hồi 9(a)
Hồi 9(b)
Hồi 10()
Hồi 11(a)
Hồi 11(b)
Hồi 12(a)
Hồi 12(b)
Hồi 13(a)
Hồi 13(b)
Hồi 14(a)
Hồi 14(b)
Hồi 15(a)
Hồi 15(b)
Hồi 16(a)
Hồi 16(b)
Hồi 17(a)
Hồi 17(b)
Hồi 18(a)
Hồi 18(b)
Hồi 19(a)
Hồi 19(b)
Hồi 20(a)
Hồi 20(b)
Hồi 21(a)
Hồi 21(b)
Hồi 22(a)
Hồi 22(b)
Hồi 23(a)
Hồi 23(b)
Hồi 24(a)
Hồi 24(b)
Hồi 25(a)
Hồi 25(b)
Hồi 26(a)
Hồi 26(b)
Hồi 27(a)
Hồi 27(b)
Hồi 28(a)
Hồi 28(b)
Hồi 29(a)
Hồi 29(b)
Hồi 30(a)
Hồi 30(b)
Hồi 31(a)
Hồi 31(b)
Hồi 32(a)
Hồi 32(b)
Hồi 33()
Hồi 34(a)
Hồi 34(b)
Hồi 35(a)
Hồi 35(b)
Hồi 36(a)
Hồi 36(b)
Hồi 37(a)
Hồi 37(b)
Hồi 38(a)
Hồi 38(b)
Hồi 39(a)
Hồi 39(b)
Hồi 40(a)
Hồi 40(b)