Chương 19
Tác giả: Mikhail Solokhov
Sớm bảnh mắt, Anđrây Radơmiốtnốp đã đến trụ sở xôviết để ký và gửi hỏa tốc lên huyện bản tổng kết vụ cắt cỏ và bản báo cáo về công tác chuẩn bị vụ gặt. Anh đang tập hợp những con số báo cáo của từng đội thì có tiếng gõ mạnh ở cửa.
Vẫn chúi mũi vào đống giấy má anh lớn tiếng nói:
- Cứ vào!
Hai người lạ mặt bước vào, và lập tức gian phòng cứ như là chật ních người. Một trong hai người ấy, người mặc áo đi mưa vải sơn mới toanh, dáng người trùng trục đẫy đà, mặt tròn vành vạnh râu ria cạo nhẵn, chẳng có nét gì đặc biệt, bước tới bên bàn mỉm cười chìa cho Radơmiốtnốp một bàn tay rắn như sắt nguội:
- Tôi là Pôliakarpơ Pêtơrôvits Bôikô, cán bộ tiếp phẩm ban đời sống công nhân mỏ Sakhơtư, còn đây, - và anh ta khinh khỉnh hất ngón tay cái qua vai chỉ người cùng đi với mình đang đứng cạnh cửa, - đây là người giúp việc tôi, tên là Khigiơnhiắc.
Anh chàng này nom có vẻ một anh dắt bò hoặc một lái buôn gia súc. Chiếc áo đi mưa vải sơn lem luốc có mũ trùm đầu, đôi ủng da bò ống rộng, chiếc mũ kêpi xám bẹp dúm và cái roi sang trọng có hai tua da cầm tay, tất cả những cái đó đều thầm lặng chứng minh nghề nghiệp của anh ta. Nhưng vẻ mặt anh ta lại chẳng phù hợp chút nào với cách ăn mặc ấy: đôi mắt thông minh sắc sảo, một nét hóm hỉnh bên khóe môi mỏng, lông mày trái dướn lên như đang nghe ngóng, một cái gì có vẻ trí thức trên dáng mặt, đối với một người có con mắt nhận xét thì tất cả những cái đó nói lên một cách hùng hồn rằng anh chàng này hoàn toàn xa lạ với việc thu mua gia súc và với mọi nhu cầu của kinh tế nông thôn. Radơmiốtnốp nhận xét thầm trong bụng thấy ngay như vậy. Thực ra anh cũng chỉ nhìn nhác qua khuôn mặt của Khigiơnhiắc thôi, rồi nhìn ngay xuống đôi vai bè bè quá khổ của anh ta, rồi bất chợt mỉm cười nghĩ bụng: “Cán bộ thua mua gì những ông mãnh này! Tướng giặc thì có… Hai ông tướng này thì chỉ có đêm đêm phục dưới gầm cầu rình những anh cán bộ thương nghiệp xỉa cho một nhát là đúng thôi…”. Cố giữ vẻ mặt nghiêm trang, anh hỏi:
- Các đồng chí đến có việc gì?
- Chúng tôi đi thu mua gia súc riêng của bà con nông trang viên: đại và tiểu gia súc có sừng, và cả lợn nữa, còn gà vịt thì tạm thời chúng tôi chưa cần. Có thể sang mùa đông này sẽ thu mua cả gà vịt, nhưng trước mắt thì chưa. Chúng tôi mua theo giá của nông trang, và tùy từng con mà có thêm tiền thưởng công vỗ béo. Đồng chí chủ tịch ạ, đồng chí cũng thừa hiểu lao động thợ mỏ là lao động nặng nhọc, và phải nuôi công nhân mỏ chúng ta tử tế.
Radơmiốtnốp gõ nhẹ xuống bàn:
- Cho xem giấy.
Hai anh tiếp phẩm đặt lên bàn giấy công tác. Giấy tờ hợp lệ cả: tiêu đề, chữ ký, dấu má, đủ tất, nhưng Radơmiốtnốp cứ xem xét mãi hồi lâu một cách soi mói mấy tờ giấy, không để ý thấy anh chàng Bôikô quay lại nháy mắt với anh giúp việc của mình rồi cả hai mỉm cười vụng với nhau.
- Đồng chí tưởng giấy tờ giả mạo? – Bôikô hỏi, lần này đã mỉm cười cởi mở, và chẳng đợi mời, ngồi luôn xuống chiếc ghế đặt bên cửa sổ.
- Không, tôi không cho là giả… Nhưng tại sao các đồng chí lại chọn nông trang chúng tôi? – Radơmiốtnốp không ăn giọng nói đùa, vẫn giữ vẻ nghiêm trang.
- Đâu phải chúng tôi chọn nông trang các đồng chí. Chúng tôi không chỉ đến nông trang các đồng chí mà thôi. Chúng tôi đã đi sáu nông trang quanh vùng, đã thu mua được năm chục đầu con, trong đó có ba đôi bò già, bê, bò cái hết sữa, cừu và khoảng ba chục lợn…
- Ba mươi bảy, - anh chàng vai bè bè vẫn đứng bên cửa, đưa con số cụ thể nhắc thủ trưởng của mình.
- Đúng, ba mươi bảy đầu lợn, và với giá phải chăng. Xong ở đây, chúng tôi còn đi một số trang ấp khác.
- Trả tiền ngay chứ? – Radơmiốtnốp hỏi.
- Tiền trao cháo múc! Nói thực thì chúng tôi không đem theo nhiều tiền mặt đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, đồng chí biết đấy, thời buổi nhiễu nhương, chả nêm đem mỡ nhử miệng mèo… Để thanh toán chúng tôi có tín phiếu.
Radơmiốtnốp ngả người ra lưng ghế, cười khà khà:
- Các anh mà cũng sợ bị móc túi à? Có các anh lộn túi và lột áo người ta thì có!
Bôikô kín đáo cười. Trên đôi má hồng hào như má con gái của anh ta hiện ra hai lúm đồng tiền. Khigiơnhiắc thì vẫn tỉnh bơ như không, lơ đãng nhìn ra cửa sổ, Radơmiốtnốp mới để ý thấy má trái của anh ta có một vết sẹo sâu, kéo dài từ cằm đến dái tai. Anh hỏi:
- Chiến tranh để lại cho anh cái dấu trên má ấy đấy à?
Khigiơnhiắc quay phắt lại, khẽ nhếch mép cười:
- Đâu phải chiến tranh! Sau chiến tranh tôi mới vớ được nó…
- Tôi cũng đoán thế, nom không có vẻ một nhát kiếm chém. Chắc là chị ấy cào hả?
- Không, cô ấy lành lắm. Đó là một lần say rượu, một ông bạn cố tri chơi cho một nhát dao găm…
- Điển trai như anh thì tôi nghĩ là anh bị chị ấy vạc mặt ra, nhưng nếu không phải chị ấy thì chắc cũng là do chuyện gái, phải không? – Radơmiốtnốp làm ra bộ ngây thơ hỏi tiếp, vừa hỏi vừa vuốt ria cười.
- Đồng chí đoán giỏi lắm, đồng chí chủ tịch ạ.. – Khigiơnhiắc mỉm cười châm biếm.
- Nghề của tôi là phải biết đoán… Và vết sẹo của anh không phải do dao đâm, mà do kiếm chém, chuyện này thì tôi có kinh nghiệm. Và tôi còn thấy là anh không phải một anh tiếp phẩm, cũng như tôi không phải một lão thầy cả vậy… Cái mặt mũi anh không phải mặt mũi dân đen, tay anh cũng vậy: hai bàn tay xem ra bình sinh chưa túm vào cái sừng bò, hai bàn tay quý phái.. Có rắn đấy, nhưng trắng nõn.. Lẽ ra anh nên đem nó ra phơi nắng, cho đen đen đi một tí, và trát tí phân bò vào, như thế may ra tôi mới tin được anh là một anh tiếp phẩm. Còn như anh chỉ vung vẩy cái roi thế thôi thì vô ích, cái roi làm sao che được mắt tôi!
- Đồng chí đoán giỏi thật đấy, đồng chí chủ tịch ạ, - Khigiơnhiắc nhắc lại, nhưng lần này thì không cười ruồi nữa. – Nhưng mới giỏi một nửa thôi: sẹo của tôi đúng là sẹo kiếm chém, có điều là thừa nhận như thế nó cũng hơi phiền phiền, tôi không muốn. Xưa kia tôi đi bạch vệ, và bị đánh cái dấu này vào mặt đây. Chuyện ấy ai còn muốn nhắc đến làm gì. Còn chuyện tay thì tôi không phải dân dắt bò, tôi chỉ đi mua bò thôi. Công việc của tôi là đếm giấy bạc xì ra, chứ không phải việc túm đuôi bò. Đồng chí thắc mặc về cái bộ dạng của tôi hả đồng chí Radơmiốtnốp? Thì tôi cũng chỉ mới đi là tiếp phẩm ít lâu nay thôi mà. Trước, tôi làm kỹ sư nông nghiệp, nhưng vì cái tính nát rượu nên bị cách chức, đâm ra phải đổi nghề… Bây giờ đồng chí đã rõ chưa, hả đồng chí chủ tịch? Đồng chí buộc tôi phải nói thật, thì tôi cũng đành phải xưng tội với đồng chí…
- Tôi cần đến lời xưng tội của anh cũng như con chó cần có thêm chân thứ năm vậy. Để rồi GPU họ sẽ bảo anh xưng tôi, và giải tội cho anh nếu họ muốn, còn tôi thì không dính dáng gì vào chuyện ấy. – Radơmiốtnốp nói, rồi vẫn ngồi nguyên như thế, réo gọi: - Maria! Ra đây tôi bảo!
Cô trực nhật đang ở phòng bên rụt rè bước ra.
- Chạy gọi cho tôi anh Nagunốp. Bảo anh ấy ba chân bốn cẳng đến ngay trụ sở Xôviết, có việc rất cần. – Radơmiốtnốp ra lệnh, mắt nhìn chằm chằm đầu tiên là vào Khigiơnhiắc, rồi nhìn sang Bôikô.
Khigiơnhiắc ra ý phân vân, và tự ái nhún đôi vai rộng bè bè, ngồi xuống tấm ghế dài quay mặt đi. Còn Bôikô thì cố nhịn cười, toàn thân rung bần bật như cái lò xo, rồi cuối cùng thốt lên bằng giọng nam cao:
- Thế mới gọi là cảnh giác cao! Cái lối ấy là mình rất ưa! Chết chửa, đồng chí Khigiơnhiắc ơi? Chết thẳng cẳng như gà nhảy vào nồi cháo nhá!
Anh ta vỗ đôm đốp lên hai cái đầu gối nần nẫn của anh ta, cúi gập người xuống mà cười, nom hồn nhiên đến nỗi Radơmiốtnốp nhìn anh ta mà không dấu nổi ngạc nhiên:
- Anh béo này cười cái gì? Cười vừa chứ kẻo rồi lên huyện lại khóc hết nước mắt đấy! Các anh bực thì cũng mặc xác các anh, tôi cứ cho giải các anh lên huyện để xác minh ngay gian. Tôi ngờ các anh lắm, các đồng chí tiếp phẩm ạ.
Gạt hai giọt nước mắt vì cười mà ứa ra, và đôi môi dày mọng vẫn còn méo xệch vì chưa hết buồn cười, Bôikô hỏi:
- Thế giấy tờ của chúng tôi, đồng chí đã kiểm tra rồi đấy, và thừa nhận không phải là giả mạo kia mà?!
- Giấy tờ là một chuyện, nhưng đội lốt giấy tờ lại là chuyện khác. – Radơmiốtnốp cau mặt lại nói, rồi lấy thuốc lá từ tốn cuốn một điếu.
Lát sau thì Nagunốp tới. Chẳng chào ai, anh hất hàm về phía hai anh tiếp phẩm, hỏi Radơmiốtnốp:
- Những người nào đây?
- Hỏi người ta ấy!
Nagunốp bảo họ đưa xem công lệnh, hỏi họ vài câu rồi quay sang Radơmiốtnốp:
- Thế thì có chuyện gì nhỉ? Cậu gọi mình sang đây làm gì? Những người này đến đây thu mua gia súc, thì cứ để người ta mua.
Radơmiốtnốp sôi lên, nhưng vẫn nói bằng giọng khá bình tĩnh:
- Không, không mua bán gì cả, trong khi tôi chưa xác minh được ngay gian. Có chuyện gì hả? Có chuyện là tôi nom mặt không ưa hai cái anh này lắm! Tôi cho giải lên huyện kiểm tra lại xem sao đã, rồi muốn mua bán gì thì mua.
Bấy giờ Bôikô mới khẽ nói:
- Đồng chí Radơmiốtnốp, đồng chí bảo cô nhân viên kia ra ngoài đi. Tôi có việc muốn nói.
- Các anh với tôi thì có chuyện gì bí mật cần nói với nhau nhỉ?
- Tôi bảo thì đồng chí cứ làm đi, - Bôikô nhắc lại vẫn khẽ như thế, nhưng đã bằng giọng ra lệnh.
Và Radơmiốtnốp chịu thua. Khi chỉ còn mình họ trong phòng, Bôikô rút ở túi trong tấm áo vettông ra một tấm thẻ đỏ nhỏ, mỉm cười đưa cho Radơmiốtnốp:
- Đọc đi, ông tổ sư ranh! Đóng kịch với ông không xong thì phải mở bài ra với ông vậy. Đầu đuôi là thế này, các đồng chí ạ: hai chúng tôi là nhân viên công anh của khu được phái về đây truy lùng một kẻ thù chính trị nguy hiểm âm mưu phiến loạn, một tên phản cách mạng điên cuồng. Để khỏi lộ, chúng tôi phải đóng vai nhân viên tiếp phẩm. Như thế hoạt động dễ hơn: chúng tôi cứ la cà các nhà, chuyện trò với bà con, và chúng tôi hy vọng sớm muộn sẽ phát hiện được tung tích tên phản cách mạng ấy.
- Đồng chí Glukhốp ơi, sao đồng chí không nói ngay từ đầu cho chúng tôi biết các đồng chí là ai? Như thế có phải đã tránh được hiểu lầm nhau không! – Radơmiốtnốp thốt lên.
- Nguyên tắc hoạt động bí mật, Radơmiốtnốp thân mến ạ! Nói cho anh, cho Đavưđốp và Nagunốp biết thì chỉ một tuần sau là toàn Grêmiatsi Lốc này sẽ biết chúng tôi là ai. Lạy Chúa, các anh đừng tự ái, đây không phải là vấn đề chúng tôi không tin anh, nhưng đáng tiếc là vẫn thường xảy ra như vậy. Chúng tôi không được phép hành động bất cẩn trong một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn đối với chúng ta như vậy. – Bôikô-Glukhốp đút tấm thẻ đỏ vào túi sau khi Nagunốp đã xem qua, và giải thích bằng một giọng bề trên.
- Các đồng chí có thể cho biết đang truy lùng tên nào không? – Nagunốp hỏi.
Bôikô-Glukhốp không đáp, lục tìm trong chiếc ví to tướng, rồi cẩn thận đặt vào lòng bàn tay chuối mắn của anh một tấm ảnh cỡ chứng minh thư.
Radơmiốtnốp và Nagunốp cúi xuống mặt bàn xem. Trên mảnh giấy nhỏ hình chữ nhật, một người đàn ông đứng tuổi, vai ngang chằn chặn, cổ bạnh như cổ bò, đang hiền lành mỉm cười với các anh. Nhưng cái nụ cười làm ra hiền lành ấy chẳng ăn nhập gì với cái trán như trán chó sói, với đôi mắt quằm quặm sâu hoắm, với cái cằm bạnh của hắn ta. Nagunốp xem chỉ cười khẩy một cái, còn Radơmiốtnốp thì lắc đầu nhận xét:
- Ông anh nom hắc gớm nhỉ!
- Chúng tôi đang lùng cái “ông anh” này đây, - Bôikô-Glukhốp trầm ngâm nói, rồi cũng cẩn thận như lúc giở ra, anh gói nó lại vào một tờ giấy trắng sờn mép và cất vào cái ví. Tên họ nó là Alếchxanđrơ Anhiximôvits Pôlốptxép. Nó nguyên là quan ba bạch vệ, trong đội quân tiễu phạt, đã tham gia trận tàn sát phân đội Pốtchenkốp và Krivôslưkốp. Sau này nó đội một tên giả, đi làm nghề dạy học, rồi về quê sống. Nó là một trong những phần tử hoạt động tích cực nhất chuẩn bị một cuộc nổi loạn chống Chính quyền xôviết. Theo các nguồn tin báo cáo của chúng tôi thì nó đang lẩn quất đâu đây trong huyện các đồng chí. Đây là tất cả những gì tôi có thể nói được với các đồng chí về tên ấy. Các đồng chí có thể truyền đạt lại cho Đavưđốp chuyện ta vừa nói, ngoài ra không được hé răng với ai điều gì. Tôi tin ở các đồng chí. Thôi, xin chào. Các đồng chí không nên gặp chúng tôi, tất nhiên là nếu không có việc gì cần, còn như nếu các đồng chí có tin gì hay cần báo cho chúng tôi thì cứ gọi tôi đến trụ sở xôviết vào lúc ban ngày, và chỉ ban ngày thôi, để bà con dân làng khỏi có ý gì nghi ngờ tôi. Một điều cuối cùng: các đồng chí nên mười phần cảnh giác! Nói chung là không nên đi đêm. Pôlốptxép không dám manh động, nó không muốn bị lộ, nhưng cảnh giác vẫn không phải thừa. Nói chung là các đồng chí không nên đi đêm, và nếu phải đi, không nên đi một mình. Vũ khí bao giờ cũng phải bất ly thân, tôi khuyên các đồng chí như thế mặc dù xem ra thì các đồng chí cũng chẳng để ly thân đâu. Đồng chí Radơmiốtnốp ạ, tôi nghe thấy đồng chí, trong khi lời đi tiếng lại với Khigiơnhiắc, hai lần quay ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi quần, có phải không?
Radơmiốtnốp nheo mắt lại quay đi làm như không nghe thấy câu hỏi. Nagunốp đỡ lời anh:
- Sau lần tôi bị chúng nó bắn, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng tự vệ.
Bôikô-Glukhốp mỉm cười tế nhị, nói:
- Chẳng những tự vệ mà tấn công nữa chứ nhỉ… Đồng chí Nagunốp ạ, tiện đây tôi nói đồng chí biết thằng Chimôphây Đamaxkốp tức Mũi toác mà đồng chí đã bắn chết, có một hồi cũng tham gia tổ chức của Pôlốptxép, và tổ chức ấy cũng có một số chân rết trong làng này. – Anh chàng “tiếp phẩm” cái gì cũng biết kia làm như tiện thể nói chơi. – Nhưng về sau chưa rõ vì lý do gì nó đã cắt đứt với bọn kia. Nó bắn đồng chí không phải theo lệnh Pôlốptxép, mà có lẽ vì lý do cá nhân thì đúng hơn…
Nagunốp gật gù tán thành, và Bôikô-Glukhốp nói tiếp một thôi dài, giọng đều đều và rành rọt như đọc thuyết trình:
- Việc việc thằng Chimôphây Đamaxkốp vì một lý do gì đã đã cắt đứt với nhóm của Pôlốptxép, biến thành một tên trộm cướp hoạt động lẻ, ta có một chứng cớ là nó đã không đưa cho bọn đồng đảng của Pôlốptxép khẩu đại liên mà nó đã giấu từ hồi nội chiến trong kho thóc nhà nó mà vừa rồi Đavưđốp đã phát hiện. Nhưng vấn đề không phải chuyện ấy. Tôi xin nói qua về nhiệm vụ của chúng tôi: chúng tôi có nhiệm vụ lùng bắt chỉ một thằng Pôlốptxép, và nhất thiết phải bắt sống. Trước mắt, ta đang cần một thằng Pôlốptxép còn sống. Cơ sở chân rết của nó ta sẽ chặt sau. Tôi phải nói thêm rằng Pôlốptxép chỉ là một khâu của cả một dây chuyền lớn, nhưng cái khâu ấy không kém phần quan trọng. Cho nên việc lùng bắt nó được giao cho chúng tôi chứ không giao cho anh em cơ quan an ninh huyện… Để các đồng chí khỏi còn điều gì bực với tôi, tôi xin nói rõ là việc chúng tôi về hoạt động ở huyện này chỉ có một mình đồng chí phụ trách GPU huyện được biết thôi. Ngay cả đồng chí Nextêrenkô cũng không biết. Đồng chí ấy là bí thư huyện ủy, và xét cho cùng thì hai anh tiếp phẩm tép riu có đáng gì cho đồng chí ấy phải bận tâm? Cứ để đồng chí ấy lo công việc của đảng bộ, còn chúng tôi sẽ lo công việc của chúng tôi… Và phải nói rằng tại các nông trang chúng tôi đã qua trước khi tới đây, chúng tôi đóng vai kịch của mình có kết quả mĩ mãn, và chỉ có mình anh thôi, Radơmiốtnốp ạ, đã nghi Khigiơnhiắc, và từ đó nghi cả tôi không phải nhân viên tiếp phẩm thực thụ. Và đó là một điều vinh dự cho anh đã có đầu óc nhận xét. Nhưng nếu chẳng xảy ra như vậy thì đằng nào cũng chỉ hai hôm nữa thôi, chúng tôi cũng phải để các đồng chí biết chúng tôi là ai, và lý do là: cái khiếu nghề nghiệp đã làm cho tôi đánh hơi thấy Pôlốptxép đang lẩn quất ở một xó xỉnh nào đó trong làng các đồng chí… Chúng tôi sẽ cố tìm cho ra những bạn đồng ngũ của hắn trong cuộc chiến tranh Nga – Đức và trong nội chiến. Chúng tôi biết rõ ngài Pôlốptxép trước kia là sĩ quan những đơn vị nào, và phần nhiều chắc chắn là ngài đang ẩn náu ở nhà những người lính cũ của ngài. Đó, tất cả tóm tắt là thế. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau trước khi chúng tôi rút khỏi đây, còn bây giờ, ta chia tay!
Ra đến ngưỡng cửa rồi, Bôikô-Glukhốp còn quay sang nhìn Nagunốp:
- Cậu muốn biết tin cô ấy không?
Hai gò má Maka đỏ tía lên từng mảng và mắt anh tối sầm lại. Anh hắng giọng, hỏi nhỏ:
- Các anh biết hiện nó ở đâu à?
- Biết.
- Ở đâu?
- Ở thành phố Sakhơtư.
- Nó làm gì ở đấy? Nó chả có một mống bà con thân thuộc nào ở đấy cả.
- Cô ấy đi làm.
- Làm vương làm tướng gì thế không biết? – Maka chua chát cười khẩy.
- Làm mỏ, đẩy xe goòng. Cộng tác viên của chúng tôi đã giúp cho cô ấy kiếm được việc làm. Nhưng tất nhiên là cô ấy không hề ngờ ai đã kiếm giúp việc làm cho cô ấy… Và phải nói rằng cô ấy làm việc rất tốt, có thể nói là hết sức tốt mữa kia! Thái độ rất đúng mực, không bắt thêm một quan hệ mới nào, còn những người quan hệ cũ thì cho tới nay không thấy ai đến thăm.
- Còn ai là người đến thăm nó nữa? – Nagunốp khẽ nói.
Bề ngoài nom anh hoàn toàn thản nhiên, duy chỉ có mi mắt trái anh cứ rung rung.
- Thiếu gì ai… Hãy cứ nói bè cánh thằng Chimôphây thôi. Cậu định hoàn toàn loại trừ khả năng ấy sao? Mình thì mình cho là cô ấy đã suy nghĩ lại, đang làm lại cuộc đời, và Nagunốp ạ, cậu có thể yên tâm về cô ấy.
- Thế dễ anh tưởng tôi lo cho nó đấy phỏng? – Nagunốp hỏi vặn lại, giọng nghe càng nhỏ hơn, và đứng dậy, người hơi ngả về đằng trước và hai bàn tay dài chống xuống mép bàn.
Mặt anh tái nhợt như mặt người chết, hàm anh nghiến nổi cuộn lên dưới hai gò má. Chọn từng lời, anh nói chậm rãi hơn thường lệ:
- Này, anh đồng chí lắm lời ơi, anh đến đây làm nhiệm vụ phỏng? Vậy đi mà làm đi, không việc gì phải động viên an ủi tôi, tôi không cần đến những lời an ủi của anh. Và những lời dặn dò của anh nữa, chúng tôi cũng không cần: nên đi đêm hay đi ngày, đó là việc của chúng tôi. Chẳng cần những lời dạy bảo ngây ngô ấy và chẳng cần vú già, chúng tôi vẫn cứ sống được như thường! Anh rõ chưa? Anh xéo đi cho được việc. Anh mà còn cứ lẩm nhẩm, trong bụng có gì dốc ra sạch, thế mà cũng tự xưng với tôi là nhân viên GPU, tôi không hiểu nổi: anh có phải một cán bộ có trọng trách của cơ quan an ninh khu không, hay khéo lại đúng là một anh buôn bò thật, một anh mối lái, hoặc như chúng tôi ở đây thường gọi, một dân cò mồi…
Anh chàng Khigiơnhiắc ít nói cứ cười thầm trong bụng mà nhìn thủ trưởng của mình đứng ngây tán tàn. Còn Nagunốp thì rời khỏi bàn, sửa lại thắt lưng áo varơi rồi đi ra cửa, người ưỡn thẳng như thường lệ, và có lẽ anh đã làm điệu bộ hiên ngang nhà võ cũng hơi quá đáng một tí.
Anh đi rồi, trong phòng diễn ra một phút im lặng nặng nề.
- Có lẽ cũng không nên nhắc đến chuyện cô vợ với anh ta thì hơn, - Bôikô-Glukhốp gãi gãi sống mũi, nói. – Xem có vẻ anh ta vẫn còn đau vì chuyện cô ta bỏ đi…
- Đúng, không nên…, - Radơmiốtnốp đồng ý. – Cậu Maka chúng tôi là người dễ động lòng, và không thích bị ai giẫm chân bẩn vào trái tim trong sạch của cậu ấy…
- Không sao, rồi sẽ qua đi. – Khigiơnhiắc nói giàn hòa, miệng nói tay cầm lấy quả đấm cửa.
Để phá tan cái không khí nặng nề, Radơmiốtnốp hỏi:
- Đồng chí Glukhốp ạ, tôi thắc mắc muốn hỏi đồng chí: cái chuyện mua lợn bò thì thế nào? Đồng chí sẽ mua thật hay chỉ la cà các nhà, mặc cả xong bỏ đấy?
Câu hỏi thật thà quá làm Bôikô-Glukhốp tươi tỉnh lên và hai lúm đồng tiền lại hiện ra trên đôi má bánh đúc của anh:
- Đồng chí quả là một người có đầu óc làm ăn! Bò lợn chúng tôi cũng sẽ mua, và tiền cũng sẽ thanh toán sòng phẳng. Và về số phận của số bò lợn ấy, đồng chí có thể yên tâm: chúng sẽ được đưa về thành phố Sakhơtư, và thịt mổ ra anh em thợ mỏ sẽ chén thoải mái. Họ chén, và sẽ chẳng gửi lời cảm ơn chúng tôi đâu, vì họ sẽ chẳng rõ cơ quan cấp trên nào mà đã chạy cho họ được cái loại thực phẩm thượng hạng ấy. Vấn đề là thế đấy, người anh em ạ!
Tiễn khách xong, Ra còn ngồi hồi lâu bên bàn, xoạc rộng hai khuỷu tay chống lên má. Một ý nghĩ đã làm anh áy náy không yên: “Trong dân làng, kẻ nào mà lại đi bám đít cái thằng sĩ quan chó chết ấy nhỉ?”. Anh điểm qua lại trong đầu tất cả những dân kôdắc đứng tuổi trong ấp Grêmiatsi này, nhưng không có ai làm anh thấy đáng nghi cả…
Radơmiốtnốp rời bàn đứng dậy cho đỡ mỏi, đi đi lại lại ba lần từ cửa lớn đến cửa sổ, rồi bỗng đứng sững lại giữa phòng, cứ như va đầu vào một bức tường vô hình, và lo lắng nghĩ bụng: “Cái anh béo ấy tự nhiên lại đi khơi lại vết thương của cậu Maka! Việc đếch gì mà phải lôi chuyện con Luska ra nói với cậu ấy? Thế ngộ nhỡ hắn nhớ rồi lao đi Sakhơtư thăm ả thì sao? Ít lâu nay nom cậu ấy cứ bần thần, bề ngoài không để lộ ra, nhưng có vẻ là đêm nào cũng ngồi nốc rượu vụng một mình thì phải…”.
Liền mấy hôm Radơmiốtnốp cứ thấp tha thấp thỏm không biết rồi Maka sẽ giở trò gì? Rồi đến thứ bảy, vào buổi chiều, có mặt cả Đavưđốp, khi Maka cho biết đã báo cáo huyện ủy để đi đến làng Martưnốpxkaia tham quan một trong những trạm máy kéo đầu tiên của vùng sông Đông này thì Radơmiốtnốp kêu thầm trong bụng: “Hỏng to rồi! Hắn đi thăm con Luska! Ôi ông Maka ơi, lòng kiêu hãnh của ông để đâu mất rồi?..”.