P 3 : Chương 19
Tác giả: Ted Brusaw và Siegfried Knappe
Trên đường đi nhận nhiệm vụ mới ở Pháp, tôi dừng lại 1 ngày ở Paris. Tôi đi thăm viếng Paris một lần nữa, nhưng tôi đi thang máy lên đỉnh tháp Eiffel lần này thay vì leo lên từng bậc thang như lần trước. Thành phố không cho tôi cảm giác phởn phơ như tôi đã cảm giác trước đây. Tôi cảm thấy ít nồng nhiệt hơn, có thể, vì tôi đã lớn hơn hay có thể vì cuộc thất bại vô nghĩa ở Stalingrad. Những kinh nghiệm ở Moscow và Stalingrad đã làm tôi trở nên già dặn đến mức ấy? Ở tuổi 26, tôi vẫn còn rất trẻ. Nhưng chứng kiến quá nhiều cái chết, và bây giờ thất bại, tôi không còn cảm thấy trẻ trung như tuổi của mình, và tôi cảm thấy không còn lý thú với Paris như lúc trước.
Tôi đóng tại một ngôi làng gần một thành phố Pháp Quimper, tỉnh Brittany, nơi đây chúng tôi tổ chức lại Tập Đòan Quân 6 mới. Quimper gần bờ biển Atlantic và hệ thống tường phòng thủ Alantic bảo vệ cuộc tấn công từ Anh của quân Đồng Minh.
Tôi trình diện với tiểu đoàn trưởng mới, Thiếu Tá Nickisch. Ông ta bị thương ở Stalingrad và được chuyển về điều trị phía sau trước khi TĐQ 6 bị bao vây. Ông ta rất nghiêm túc trong thời khoá biểu các công việc huấn luyện trước mặt, vì ông biết chắc chúng tôi sẽ được tung vào chiến đấu ở Nga trở lại sau khi chúng tôi được huấn luyện đầy đủ.
Pháo đội mới của tôi là Pháo Đội 9, TĐ 3, Trung đoàn 194, SĐ 94 BB. Người thượng sĩ nhất mới của tôi, Naumann, đã đến từ trước, và anh ta và tôi chuẩn bị đón tiếp người và ngựa. Sĩ quan pháo đội, Thiếu Úy Duestenberg, và sĩ quan tiền sát, Thiếu Úy Euringer, đến ngay sau đó, và cả 4 chúng tôi bận rộn khi người, ngựa, thiết bị bắt đầu đổ đến. Trong khi tôi tạo nên pháo đội mới, tôi vẫn nghĩ về pháo đội cũ tôi đã bỏ lại ở Nga - Lammers, Boldt với đôi lông mày rậm, người y tá thú y, người thợ rèn, có thể tất cả đã chết. Con người có thể sống sót bao lâu trong tình trạng chiến đấu liên tục?
Khoảng chừng 10 phần trăm binh lính là những cựu quân nhân từ TĐQ 6 cũ được phục hồi sau khi bị thương hay đang nghỉ phép khi Stalingrad bị bao vây. Những người còn lại đều là tân binh. May thay, Duestenberg, Euringer, và Naumann đều là những lính cựu đầy kinh nghiệm, làm cho công việc của tôi dễ dàng hơn rất nhiều. Cả 4 chúng tôi đều quen với công việc và chuẩn bị công việc phía trước.
Chúng tôi dùng những lính cũ để huấn luyện tân binh. Vì chúng tôi nghĩ là phải trở lại mặt trận ngay sau khi tân binh được huấn luyện, chúng tôi thi hành nhiệm vụ rất nghiêm chỉnh vì chúng tôi muốn binh lính được huấn luyện cẩn thận khi quay lại Nga. Công việc hàng ngày và hàng tuần tương đối giống như ở Plauen khi thuấn luyện, pháo thủ, lính giữ ngựa, và lính thông tin. Mỗi ngày bắt đầu từ 5 giờ sáng cho lính coi ngựa và 6 giờ sáng cho những người khác về tất cả các công việc mà tân binh phải học. Ngay cả cựu binh cũng phải tập luyện lại, vì họ phải học để làm việc với nhau và trở thành một đơn vị liên kết với nhau. Chúng tôi chỉ có thể dạy cho tân binh những thao tác và kỹ năng và hy vọng là những cựu binh trong số họ có thể dạy cho họ những gì đang chờ đón ở chiến trường. Bên cạnh việc huấn luyện, chúng tôi là lực lượng phòng thủ chính ở Bức Tường Atlantic nếu quân Đồng Minh tấn công từ Anh, nên chúng tôi đẩy mạnh việc huấn luyện đến giới hạn mà binh lính có thể chịu đựng được.
Khu vực Quimper chưa bị chiến tranh đụng đến. Tôi không nghĩ là có đơn vị nào được đưa đến đây trước đây, nên sự có mặt của quân đội là cái gì mới đối với dân chúng. Không xa lắm là bờ biển nơi có các công sự của Bức Tường Atlantic và các căn cứ tàu ngầm ở St. Nazaire và Lorient. Những nơi đó bị quân Đồng Minh ném bom, và dân chúng ở Quimper nhìn thấy máy bay ném bom bay ngang và nghe tiếng bom nổ, nhưng họ chưa trải qua trực tiếp những tàn bạo của chiến tranh.
Tôi đến thăm Bức Tường Atlantic và căn cứ tàu ngầm Lorient trong một dịp cuối tuần. Những tàu ngầm được chứa trong các kiến trúc như một cái lô cốt lớn mà Hải Quân gọi là "pens" (tạm dịch là bến), và những cái bong bóng rất lớn được treo lơ lững phía trên để bảo vệ chúng khỏi bị máy bay bay thấp tấn công (máy bay địch có thể bắn hạ các bong bóng, nhưng làm như vậy họ sẽ phơi mình ra cho các súng phòng không). Quân Đồng Minh ném bom các "bến" tàu ngầm nhiều lần từ trên cao, nhưng không làm hư hại nhiều. Nếu họ có thể ném bom từ các cao độ thấp hơn thì kết quả đã khác hơn nhiều.
Brittany là một nời rất đẹp, với những ngôi làng xinh xắn. Chúng tôi làm nhiệm vụ chúng tôi, huấn luyện binh lính, ngày này sang ngày khác. Dân địa phương không cần thứ gì. Họ tự trồng trọt lấy, và họ cũng vui lòng bán cho chúng tôi bất cứ thứ gì chúng tôi muốn.
Mọi việc hình như yên ắng ở mặt trận phía tây, nên tôi xin nghỉ phép về đám cưới. Đề nghị được chấp thuận, và gia đình chúng tôi chuẩn bị cho lễ cưới.
Ở Đức vào lúc đó, một buổi tiệc mừng được tổ chức đêm trước ngày cưới cho gia dình và bạn bè cô dâu chú rể. Khác khứa, đem chén đĩa cũ để đập xống sàn nhà để chúc may mắn - và cô dâu phải dọn sạch các mảnh vỡ.
Tuy nhiên, khi tôi chuẩn bị đi phép, lệnh đưa ra hủy bỏ tất cả các cuộc đi phép vì tình trạng khẩn cấp. Tệ hơn nữa là tôi không thể gọi điện thoại hay đánh điện tín để báo cho Lilo, vì mọi việc đều bị giữ bí mật. Họ tiếp tục buổi tiệc đêm trước ngày tôi mà không có tôi, nghĩ rằng tôi không thể về vì lý do quân sự và tôi không thể báo cho họ.
Mười ngày sau, lệnh cấm nghĩ phép được hủy bỏ và tôi lên thời biểu đám cưới lại. Lần này, tôi thấy cô đẹp hơn, nhất là trong áo cưới. Chúng tôi làm nghi lễ dân sự rồi làm lễ ở nhà thờ. Buổi lễ ở nhà thờ được tổ chức ở ngôi nhà thờ lịch sử Thomas ở Leipzig, nơi Martin Luther rao giảng bài thuyết giáo đầu tiên của ông ta, nơi nhạc sĩ nỗi tiếng Richard Wagner rửa tội, và nơi Johann Sebastian Bach chơi đàn organ suốt 27 năm và viết hầu hết các bản nhạc của ông. Lilo mặc bộ đồ cưới thật đẹp và tôi mặc lễ phục và mang kiếm. Trung đoàn bộ binh đóng ở Leipzig cho mượn một xe ngựa để đưa chúng tôi đến nhà thờ làm lễ và đưa đến khách sạn cho buổi tiếp tân. Chúng tôi không đi đâu cho tuần trăng mật, vì thời giờ quá ngắn. Cũng không cần thiết, vì chúng tôi đã có thứ mà chúng tôi muốn - có nhau.
Rất mau, tôi phải trở lại với công việc huấn luyện ở Pháp. Từ biệt Lilo bây giờ là người vợ thật khác với những lần giả biệt trước, nhưng ít ra lần nay tôi không phải trở lại ngay đến với chiến trường.
Tháng 6 năm 1943, sau hơn 3 tháng huấn luyện cật lực, các đơn vị của Tập Đoàn Quân 6 bắt đầu thao diễn, tập trận, thực tập phòng thủ chống quân Đồng Minh đổ bộ vào bãi biển. Rommel đến để quan sát cuộc tập trận. Đây là lần đâu tiên tôi gặp lại ông ta kể từ khi ông chỉ huy ở Trường kriegschule Pótdam, và cũng là lần cuối cùng tôi thấy ông.
Tháng 7 năm 1943, sau khi cuộc tập trận chấm dứt, tôi nhận được 3 tuần nghỉ phép. Lilo đang có bầu đứa con đầu lòng, và tôi rất nóng lòng trở về. Cô vẫn xinh đẹp và vui vẻ. Một lần nữa, chúng tôi lại đi coi phim, kịch, hoà nhạc - cố gắng tận hưởng những thời gian ngắn chúng tôi có bên nhau.
Một đêm khi Lilo và tôi đang coi hoà nhạc, mẹ tôi nhờ người đến kêu tôi về ngay lập tức vì cha tôi bị đau tim. Ông đã chết khi tôi về đến nhà. Ông được 58 tuổi và bị tim đã một thời gian. Tôi nghĩ cái chết của em trai tôi Fritz đã làm cái chết đến nhanh hơn. Cha tôi đã đau đớn tột cùng khi nhìn Fritz đau đớn hàng ngày suốt 7 tháng ròng rã, và tôi nghĩ nó đã làm tổn thương đến sức khoẻ của ông. Vết thương lòng để lại bởi chuyện đó trở thành vĩnh viễn, và biết rằng đứa con trại duy nhất còn lại gần chắc chắn sẽ chết vì cuộc chiến trở thành gánh nặng về tình cảm, nó quá nặng để cha tôi gánh vác. Và nó đã vật đổ cha tôi tháng 7 năm 1943.
Tôi đã ở Quimper 5 tháng, từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 8 năm 1943. Chúng tôi được lệnh lên đường.