Chương 11
Tác giả: YURI VASSILIEVITCH Bondarep
Tiếng động cơ gào rú mãnh liệt ở trên đầu, át hết mọi âm thanh trên mặt đất, rung lên, xói vào tai. Bầy máy bay đầu tiên đã thay đổi đội hình rõ rệt, vươn dài ra, xếp thành hình vòng tròn và Cu-dơ-nét-xốp trông thấy những trái hỏa tiễn của bọn Đức phụt ra những chùm ánh sáng xanh đỏ ở đằng sau những ngồi nhà trong làng. Rồi như để đáp lại, một trái hỏa tiễn phụt ra từ chiếc máy bay đi đầu, bùng lên đỏ lòe, để lại sau lưng một vệt khói, nhạt màu dần đi, rơi nhanh và tắt lụi trong không trung đang ửng hồng. Bọn Đức bắn pháo hiệu từ mặt đất và trên không xuống để xác định khu vực bỏ bom nhưng lúc này Cu-dơ-nét-xốp không còn phải tính toán xác định xem chúng sẽ bỏ bom ở đâu vì việc này đã rõ ràng. Những chiếc “Gioong-ke” lần lượt xếp thành một vòng tròn lớn, vòng quanh khu làng, toàn bộ khu bờ sông, các hào giao thông của bộ binh, các khẩu đội pháo ở bên cạnh,-tất cả các vị trí tiền tiêu của ta đã bị siết chặt trong cái vòng đai trên không trung đó, tưởng chừng như giờ đây không có thể nào thoát được ra khỏi vòng đai đó, trong khi ấy ở bờ sông bên kia thảo nguyên mênh mông đã sáng lóe lên dưới ánh mặt trời mới mọc, các điểm cao bình thản bắt nắng lúc sớm mai…
-Báo động!… Báo động!…-Người ta thét lên một cách vô nghĩa và đứt quãng trong đại đội và ở đâu đó mé dưới bờ sông.
Cu-dơ-nét-xốp đứng ở bên trái khẩu pháo, trong hào giao thông vùng với U-kha-nốp và Tri-bi-xốp, cái hào này chật chội đối với ba người. Họ cảm thấy đất rung lên ở dưới chân, tiếng gào rú của động cơ máy bay làm rung chuyển không trung, những mảnh đất cứng rơi lả tả từ thành công sự. Cu-dơ-nét-xốp nhìn thấy rất gần cặp mắt khiếp đảm đen như chì trên khuôn mặt lưỡi cày của Tri-bi-xốp đang ngẩng lên trời với vẻ nặng nề choáng váng, anh trông thấy sát cạnh mình cái cằm nghển lên, đôi mắt sáng hung dữ của U-kha-nốp đang đảo lia lịa đếm máy bay địch. Toàn thân anh co dúm lại thật chặt như trong một giấc mơ nặng nề khi người ta không thể nào nhúc nhắc rời khỏi chỗ trong khi có mối nguy cơ lớn lao, không tránh được đổ ập lên đầu. Chẳng hiểu sao anh sực nhớ tới chiếc cặp lồng đựng thứ nước thơm thơm lạnh buốt răng do Tri-bi-xốp lấy ở hố nước trên băng về và anh lại cảm thấy miệng khô cứng, khát đến cháy họng.
-Bốn mươi tám,-cuối cùng U-kha-nốp đã đếm được số máy bay địch, anh cảm thấy nhẹ nhõm và anh đưa đôi mắt trong sáng, chừng như không thông cảm nhìn Tri-bi-xốp, dùng vai khẽ hích vào bên vai đang co dúm của bác ta.-Sao run bần bật như cầy sấy thế bố già? Chẳng có cái gì khủng khiếp hơn cái chết đâu. Run rẩy như thế cũng chẳng ăn thua gì…
-Có phải tôi không biết đâu…-Tri-bi-xốp cố run rẩy mỉm cười.-Ấy thế nhưng… tự nhiên nó cứ run lên.. Giá như tôi có thể… tôi không thể trấn tĩnh được, cổ họng nghẹn lại…-Và bác chìa cổ họng ra.
-Bác cứ nghĩ là sẽ không có chuyện gì cả. Còn nếu như có xảy ra chuyện gì, thì cũng chả làm sao hết. Ngay cả sự đau đớn,-U-kha-nốp nói và không nhìn lên trời nữa, anh dùng răng rút găng tay ra, lấy túi đựng thuốc.-Làm một điếu, bác. Cho nó bình tĩnh lại. Tôi cũng hút cho bình tĩnh. Hút đi, trung úy. Sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.
-Tôi không thích.-Cu-dơ-nét-xốp gạt túi thuốc ra.-Giá có cặp lồng nước… Tôi muốn uống.
-Chúng nó bay tới đay! Ngay trên đầu chúng mình!…
Tiếng la thét đó và cặp mắt ngây dại, nhớn nhác của Tri-bi-xốp khiến Cu-dơ-nét-xốp bất chợt ngẩng đầu lên. Tựa hồ như ngay lúc ấy hơi lửa từ trên trời phả thẳng vào mặt anh. Một vật gì đó rất to, lóe sáng với hình thập tự đen trắng trông khá rõ-Chả lẽ đó là chiếc “Gioong-ke” đi đầu?-Như thể đứng lại trong giây lát, chiếc máy bay khựng lại trong không trung rồi tàn bạo xòe những cái móng đen ngòm, tiếng gào rú như sắt nện trên sắt, nó lao hầu như thẳng đứng xuống dưới, lao thẳng vào tròng mắt Cu-dơ-nét-xốp, khối kim loại nặng hàng tấn đang lao nhanh xuống làm anh lóe mắt, nhìn từ dưới lên, chiếc máy bay bị chìm trong những tia nắng đỏ rực của vầng dương còn chưa nhô lên khỏi chân trời. Từ khối thép sáng lóe đang gào rú đó phụt ra những vật đen dài dài nặng nề rơi xuống mặt đất, tiếng rít chói tai át cả tiếng gào rú của chiếc “Gioong-ke”. Những quả bom rơi băng băng xuống mặt đất, vào các vị trí của khẩu đội, to dần lên rất rõ trước mắt mọi người, nặng nề đu đưa trong thinh không như những súc gỗ được bào nhẵn. Tiếp theo chiếc thứ nhất, chiếc “Gioong-ke” thứ hai tách ra khỏi vòng bay lao xuống phía bờ sông. Cu-dơ-nét-xốp thấy rùng mình ớn lạnh ở chỗ da bụng căng thẳng, anh tụt xuống chiến hào. U-kha-nốp vẫn theo dõi bom rơi, chốc chốc lại cúi đầu xuống như thể tránh những viên đá ném ra vung vãi.
-Nằm xuô-ống!-Cu-dơ-nét-xốp không nghe thấy tiếng rít kéo dài trong giọng nói của mình, anh chỉ cảm thấy mình đã dùng hết lực các ngón tay túm lấy tà áo choàng của U-kha-nốp kéo xuống.
U-kha-nốp ngã đè lên người anh, che khuất bầu trời và ngay lập tức một cơn bão lốc đen ngòm trùm lên chiến hào, giội hơi nóng từ phía trên xuống. Chiến hào ngả nghiêng, vặn vẹo, rung lên tưởng chừng như nó cất vó dựng đứng và chẳng hiểu sao nằm bên cạnh anh lại không phải là U-kha-nốp-bom nổ hất anh ra khỏi người Cu-dơ-nét-xốp-mà là khuôn mặt tái xám như đất với cặp mắt sững sờ của Tri-bi-xốp, miệng bác vẫn đang thều thào: “Chỉ mong sao nó đừng rơi vào đây, đừng rơi vào đây, lạy Chúa…”-và tựa hồ như từng sợi râu dựng đứng lên trên đôi má râu ria tua tủa của bác. Bác nằm lăn ra, hai cánh tay đè lên ngực Cu-dơ-nét-xốp, vai và lưng bác nép vào khoảng không gian chật hẹp không hề có giữa Cu-dơ-nét-xốp và vách hào đang đu đưa, bác rú lên cầu nguyện:
-Lũ con tôi!… Tôi còn có đàn con… Tôi không có quyền chết. Không!… Lũ con tôi!…
Cu-dơ-nét-xốp bị sặc vì mùi thuốc nổ giống như mùi hành tỏi, vì bị cánh tay Tri-bi-xốp đè nặng, anh muốn thoát ra, hớp không khí trong lành, thét lên: “Bác hãy im đi!”-nhưng hơi bom độc hại làm anh ho sặc sụa, cổ họng đau nhói. Anh chật vật gỡ tay Tri-bi-xốp ra, hất chúng khỏi ngực mình. Chiến hào ngập khói dày đặc, ngột ngạt, che lấp bầu trời. Bầu trời đen ngòm, đầy tiếng gào rú sôi sục, chỉ lờ mờ và thấp thoáng thấy thân hình những chiếc “Gioong-ke” nghiêng nghiêng, lóe sáng đang lao xuống: những chiếc móng đèn ngòm xiêu vẹo lăm lăm thò từ trên xuống qua làn khói, trong tiếng bom bổ ầm ầm, chiến hào vặn mình, cong lại, mảnh bom văng tứ tung gieo rắc cái chết, lớp lớp đất trộn với tuyết sụt lở ầm ầm.
“Sắp chấm dứt rồi,-Cu-dơ-nét-xốp tự nhủ, cảm thấy đất lạo xạo trong hàm răng, anh nhắm mắt lại, tưởng chừng như làm thế thời gian sẽ trôi qua nhanh hơn.-Còn mấy phút nữa thôi… Nhưng các khẩu pháo… các khẩu pháo thế nào nhỉ? Chúng được đưa tới đây để đánh giặc… Mảnh bom sẽ làm vỡ kính ngắm mất…”.
Anh hiểu rằng phải lập tức nhổm dậy, ngó xem các khẩu pháo thế nào, phải làm một việc gì đó ngay lúc này nhưng thân thể nặng trĩu của anh đã co dúm lại, bị ấn chặt vào lòng chiến hào, anh thấy đau ở ngực, ở tai, còn tiếng rú lồng lộn của máy bay, tiếng rít chát chúa của những mảnh bom trong bầu không khí nóng bỏng càng ngày càng đè mạnh anh xuống đáy chiến hào mong manh. Bị ám ảnh bởi ý nghĩ cần phải làm một việc gì đó, anh mở mắt ra và trông thấy gờ lũy công sự bị mảnh bom xén phẳng. Những hòm xam xám rơi trên vách hào, tung tóe xuống lòng chiến hào, lăn lông lốc trên chiếc lưng gù cong lên của bác Tri-bi-xốp đang nằm sấp mặt xuống.