Chương 4 -3
Tác giả: YURI VASSILIEVITCH Bondarep
Khẩu đội phía trước đã băng qua được cái dốc đóng băng bị xe lăn, người giẫm, lấp lánh như gương, nó đã an toàn đi qua lòng khe và bây giờ các chiến sĩ đông như kiến bám lấy các khẩu pháo và xe kéo pháo, đẩy chúng từ phía sau để đưa pháo lên dốc bên kia, phía bên trên dốc, hàng quân bất tận ngoằn ngoèo tuôn dài, dài mãi trên thảo nguyên. Còn ở tít phía bên dưới, chuẩn úy Gô-lô-va-nốp trung đội trưởng trung đội chỉ huy, đứng ở giữa đường, vẻ chờ đợi, kêu lên bằng giọng căng thẳng và ra hiệu:
-Nào… nào, về phía tôi!…
-Cẩn thận đấy! Khéo kẻo gãy chân ngựa! Tất cả hãm xe lại!-Đrô-dơ-đốp-xki ra lệnh khi anh phi ngựa tới đầu dốc.-Các đồng chí trung đội trưởng! Nếu ta để ngựa chết thì chính chúng ta sẽ phải kéo pháo! Hãm xe lại! Thong thả hơn! Thong thả hơn!…
“Đúng thế, nếu ta làm ngựa gãy chân, ta sẽ phải kéo pháo!”-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ trong cơn phấn khích, đột nhiên anh ý thức được rằng bản than anh cũng như tất cả mọi người đều hoàn toàn phục tùng một ý chí nào đó, không ai có quyền chống lại nó và tất cả mọi người hòa hợp lại trong một cái gì đó vô cùng lớn lao không gì ngăn cản nổi, trong dòng thác của cái đó dường như không còn con người riêng biệt cùng với sự bất lực và mệt mỏi của nó. Và say sưa với sự hòa mình đó của mình với mọi người, anh nhắc lại mệnh lệnh:
-Giữ chặt, giữ chặt!… Tất cả mọi người giữ lấy pháo!-Và anh lao tới bánh xe của tất của chiếc xe kéo khẩu pháo thứ nhất, giữa một tốp chiến sĩ, còn anh em phụ trách khẩu pháo vẻ mặt dữ tợn, khản cả tiếng đều xúm vào giữ cái bánh xe của khẩu pháo đang lăn xuống cái dốc dựng đứng.
-Dừng lại, con nỡm!-Những người coi ngựa quát ngựa loạn xạ. Dường như họ mới hoàn hồn, họ la hét, miệng há to khủng khiếp giữa dây tua viền lạnh giá của những chiếc mũ lót.
Bị hãm chặt, bánh xe của cỗ xe kéo cũng như của khẩu pháo không quay được nhưng xích xe không bám được vào mặt đường đã bị giẫm phẳng lì và ủng của các chiến sĩ trượt trên dốc, không tìm được điểm tựa. Còn cái xe chở đầy đạn và khẩu pháo ngày càng đè nặng hơn, ngày càng lao nhanh từ trên cao xuống không kìm lại được. Trục gỗ của cỗ xe đập vào cẳng chân sau chùng lại của những con ngựa võng người xuống, hếch mõm lên trời; những người coi ngựa lại quát tháo ngoái nhìn anh em bằng cặp mắt vừa căm giận vừa khẩn khoản,-và cả một khối người thở ì ạch, bám lủng lẳng vào bánh xe lao xuống dốc mỗi lúc một nhanh hơn.
-Hãm lại!-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên, cảm thấy sức nặng của khẩu pháo đè lên vai, anh nhìn thấy cạnh mình khuôn mặt của U-kha-nốp bị dồn máu đỏ gay, anh ta đưa tấm lưng rộng ra đỡ chiếc xe kéo pháo; còn phía bên tay phải là cặp mắt đen của Nết-trai-ép lồi ra vì căng thẳng, cùng hàng ria trắng của anh ta. Và trong đầu óc nóng bỏng của anh bất chợt thoáng hiện ý nghĩ rằng anh đã quen biết họ từ lâu, có lẽ từ những tháng rút lui khủng khiếp ở Xmô-len-xcơ lúc anh còn chưa phải là trung úy, nhưng khi đó người ta cũng kéo pháo như thế này khi rút lui. Tuy nhiên lúc ấy anh không biết họ và anh ngạc nhiên về ý nghĩ này.-Chân, cẩn thận đôi chân…-Cu-dơ-nét-xốp kêu lên khe khẽ.
Khẩu pháo cùng với cỗ xe lăn trên sườn dốc xuống lòng khe, xích sắt rít lên trên tuyết, những con ngựa nhễ nhại mồ hôi trượt dốc, vó ngựa chà nát những mảnh băng nhọn hoắt, tiếng băng vỡ lạo xạo chói tai; những người coi ngựa ngả người ra đằng sau, khó khăn mới giữ được mình trên yên ngựa, kéo căng dây cương nhưng con ngựa bên phải bất chợt khuỵu xuống và khi cố sức đứng dậy nó khó nhọc cất đầu lên, lao xuống dốc, kéo theo những con ngựa đi giữa.
Người coi con ngựa bên trái vẫn ngồi trên yên, bị chao nghiêng về một bên, vẻ mặt khiếp đảm như điên, không đủ sức quát bảo con ngựa bên phải, con này loạng choạng trên mặt đường, lăn kềnh ra, kéo căng và rứt dây thắng ngựa. Cu-dơ-nét-xốp tuyệt vọng cảm thấy khi lăn xuống dốc, khẩu pháo đã đuổi kịp con ngựa bị ngã, anh trông thấy chuẩn úy Gô-lô-va-nốp từ phía dưới lao về phía con ngựa, lúc này Gô-lô-va-nốp nhảy tránh sang một bên rồi lại xông vào nó với ý định túm lấy dây cương.
-Hãm lại!…-Cu-dơ-nét-xốp thét lên.
Cảm thấy vai mìn nhẹ bỗng đi một cách kỳ lạ, anh hiểu ngay ra rằng cỗ xe cùng với khẩu pháo đã xuống tới chân dốc và được hãm lại trong lòng khe. Anh em chiến sĩ mệt mỏi văng tục, ưỡn thẳng lưng; họ rời khỏi khẩu pháo, xoa vai và nhìn cỗ xe ở phía trước.
-Con ngựa có làm sao không?-Cu-dơ-nét-xốp chật vật thốt lên, lảo đảo trên đôi chân cứng đờ như gỗ vì căng thẳng quá mức và chạy lại chỗ mấy con ngựa.
Gô-lô-va-nốp cùng với các chiến sĩ trinh sát, người coi ngựa Xec-gu-nen-cốp gầy gò, tái nhợt, với vẻ mặt sợ hãi của anh chàng mới lớn, với cánh tay dài nghêu, đưa mắt nhìn bất lực rồi bỗng nắm lấy dây cương, còn con ngựa non dường như hiểu anh muốn làm gì, nó rụt đầu, vùng vẫy, nghiêng nghiêng cặp mắt sáng ẩm ướt vằn đỏ vì kích động nhìn với vẻ khẩn cầu. Xec-gu-nen-cốp rụt tay lại rồi lại tuyệt vọng lặng lẽ nhìn, sau đó anh ngồi xổm trước con ngựa. Con ngựa ngọ ngoạy đôi sườn đẫm mồ hôi, vó sau cào trên mặt băng, nó ráng sức cố trỗi dậy một lần nữa nhưng không vươn dậy được và khi thấy đôi cẳng trước của nó co lại một cách không tự nhiên, Cu-dơ-nét-xốp hiểu rằng nó sẽ không thể đứng dậy được.
-Nện cho nó một phát, Xec-gu-nen-cốp! Sao lại đứng đực ra thế. Cậu không biết tính khí kỳ quái của con súc sinh hay vờ vịt này đấy!-Ru-bin, người lính trông coi những con ngựa chạy ở phía sau, khuôn mặt sạm nắng gió, thô lỗ, cáu kỉnh, xỉ vả và quất roi ngựa vào thân ủng của mình.
-Có cậu là đồ súc sinh ấy,-Xec-gu-nen-cốp thét lên bằng giọng kim the thé.-Cậu không trông thấy gì đây à?
-Có cái gì mà trông? Tôi biết con ngựa này: nó chúa là hay đá hậu! Chỉ dùng để giỡn chơi là tốt thôi. Cho nó một roi là nó tỉnh người ra ngay đấy!
-Câm mồm đi, Ru-bin, chán tai lắm!-U-kha-nốp hích vai vào anh ta vẻ đe dọa.-Ăn nói phải suy nghĩ chứ.
-Con ngựa này chắc cũng chả đi được tới mặt trận đâu,-Tri-bi-xốp thở dài thương hại,-Rõ khổ…
-Phải rồi, hình như nó bị đau hai chân trước,-Cu-dơ-nét-xốp nói, đi vòng quanh con ngựa.-Các anh đã làm cái trò gì thế hở các anh coi ngựa? Thế mà cũng đòi cầm dây cương!
-Biết làm sao được hả trung úy?-U-kha-nốp thốt lên.-Thế là hết đời con ngựa cái. Chỉ còn lại ba con kéo pháo. Ngựa dự trữ lại không có.
-Thế nghĩa là chúng ta phải cõng pháo ở trên lưng à?-Nết-trai-ép hỏi, nhấm nhấm ria mép.-Tôi đã mơ ước được làm thế từ lâu, từ dạo bé cơ đấy.
-Kìa, tiểu đoàn trưởng đến…-Tri-bi-xốp sợ sệt nói.-Đồng chí ấy sẽ phân xử.
-Có chuyện gì thế, trung đội một? Tại sao lại trùng trình thế?
Đrô-dơ-đốp-xki cưỡi con ngựa Mông Cổ đi xuống khe, lại gần tốp bộ đội giãn ra trước mặt anh, đưa mắt lướt nhìn con ngựa đang nặng nề trở mình, Xec-gu-nen-cốp vẫn lom khom ngồi xổm trước mặt nó. Khuôn mặt thanh tú của Đrô-dơ-đốp-xki dường như đanh lại một cách bình thản, sự phẫn nộ cố nén chỉ lóe lên trong tròng mắt của anh.
-Tôi… đã bảo trước… các đồng chí, trung đội một!-Anh dằn tứng tiếng và giơ roi ngựa chỉ vào lưng Xec-gu-nen-cốp đang lom khom.-Sao lại cuống quít tít mù lên thế hả? Mắt các anh để đi đâu? Đồng chí cầu kinh đấy à, đồng chí coi ngựa? Con ngựa làm sao?
-Thì đồng chí cũng thấy đấy, trung úy.-Cu-dơ-nét-xốp nói.
Như một người mù, Xec-gu-nen-cốp ngước mắt nhìn Đrô-dơ-đốp-xki, những giọt nước mắt từ dưới những hàng mi lạnh giá chảy trên cặp má trẻ thơ của anh. Anh lặng lẽ lấy lưỡi liếm những hạt nước sáng trong đó và tháo bao tay, trìu mến thận trọng vuốt ve mõm ngựa. Con ngựa không vật vã nữa, không có ý định đứng dậy mà phình bụng nằm im, vươn cổ một cách thảm hại, ra chiều hiểu biết, tì đầu trên lòng đường, thở phì phò vào ngón tay Xec-gu-nen-cốp, đôi môi mềm của nó chạm vào những ngón tay đó. Có một cái gì vô cùng sầu não, hấp hối trong ánh mắt ẩm ướt, nghiêng nghiêng của nó nhìn anh em chiến sĩ. Và mãi tới lúc này, Cu-dơ-nét-xốp mới nhận thấy trên lòng bàn tay Xec-gu-nen-cốp có nắm lúa mạch mà có lẽ anh đã giấu từ lâu ở trong túi. Nhưng con ngựa đói khát không ăn, chỉ rung rung lỗ mũi ẩm ướt, hít hít lòng bàn tay người coi ngựa, yếu ớt dùng môi tợp và làm rơi vãi những hạt lúa ướt trên mặt đường. Có lẽ nó đã đánh hơi được cái hương vị của lúa đã bị lãng quên từ lâu trên những thảo nguyên tuyết trắng này nhưng đồng thời nó cũng đã cảm thấy một cái gì khác không cưỡng lại được phản chiếu trong ánh mắt và tư thế của Xec-gu-nen-cốp.
-Chân nó, trung úy ạ,-Xec-gu-nen-cốp thốt lên giọng yếu ớt, anh vẫn dùng lưỡi liếm những giọt nước mắt bên khóe miệng.-Trông kìa… nó đau đớn y như người vậy… Mà nó lại phải kéo ở bên phải… Nó sợ hãi cái gì ấy… Tôi đã kìm nó lại đấy chứ… con ngựa hãy còn non. Thiếu kinh nghiệm…
-Phải giữ chặt lấy nó, đồ đần độn ạ! Chứ không phải là tơ tưởng tới các cô gái!-Anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin hằn học nói.-Bay giờ còn nỉ non cái gì?… Đồ thò lò mũi!… Ban nãy mọi người ào ào lao xuống dốc còn hắn vẫn chễm chệ trên mình con ngựa bé bỏng… trông mà tởm! Phải bắn cho nó một phát để khỏi đau đơn,-và thế là xong!
Toàn bộ cái dáng người vuông vức, chậm chạp, khoác sù sụ trên mình nào áo bông, áo choàng, quần bông, với chiếc thân ủng giả đeo trên chân phải, khẩu súng trường khoác sau lưng, cái vẻ kiên quyết hằn học của anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin bất chợt làm cho Cu-dơ-nét-xốp khó chịu. Tiếng “bắn cho một phát” vang lên như bản án tử hình đối với người vô tội.
-Có lẽ cũng phải thế thôi,-có người thốt lên.-Tiếc con ngựa thật.
Khi rút quân ở Rô-xláp, Cu-dơ-nét-xốp đã có lần trông thấy anh em chiến sĩ vì thương hại đã nã súng bắn chết những con ngựa bị thương không dùng làm sức kéo được nữa. Nhưng ngay hồi ấy anh cũng thấy việc làm này là trái tự nhiên và tàn bạo một cách không thể bào chữa được.
-Tôi không cho làm thế đâu!-Xec-gu-nen-cốp thét lên bằng giọng kim của mình và bật dậy, bước lại phía Ru-bin.-Anh đề nghị thế nào hở quân đồ tể? Anh đề nghị thế nào? Tôi không để các anh giết ngựa của tôi đâu! Nó có tội gì nào?
-Hãy chấm dứt cái trò lên cơn thần kinh ấy đi! Phải suy nghĩ từ trước chứ. Ngoài anh, không ai có lỗi cả. Anh hãy trấn tĩnh!-Đrô-dơ-đốp-xki buột nói và giơ roi ngựa chỉ vào cái ranh bên đường.-Hãy kéo con ngựa khỏi lòng đường để lấy lối đi. Tiếp tục xuống dốc! Về vị trí!
Cu-dơ-nét-xốp nói:
-Phải tháo khẩu pháo thứ hai khỏi xe kéo và khênh nó xuống dốc. Như thế chắc chắn hơn.
-Tùy các anh, khiêng trên vai cũng được!-Đrô-dơ-đốp-xki đáp, qua chỏm đầu Cu-dơ-nét-xốp, nhìn anh em chiến sĩ đang lúng túng kéo con ngựa sang lề đường và nhăn mặt.-Bắn chết nó ngay đi! Ru-bin…
Con ngựa dường như hiểu được ý nghĩa của mệnh lệnh phát ra. Tiếng hí nhát gừng, rền rĩ của nó xé toang bầu không khí giá lạnh. Như một tiếng kêu đau thương cầu xin sự che chở, tiếng rít rung lên đó xói vào tai Cu-dơ-nét-xốp. Anh hiểu rằng người người ta đang làm khổ con ngựa khi kéo nó lúc hãy còn sống bị gãy chân xuống rãnh và anh chuẩn bị nheo mắt lại khi trông thấy nỗ lực cuối cùng của nó muốn vươn dậy tựa hồ như để chứng minh rằng nó hãy còn sống và không cần phải giết nó. Anh chiến sĩ coi ngựa Ru-bin nhe hàm răng rắn chắc, mặt đỏ bừng giận dữ đứng trước con ngựa, vội vã lên đạn, nòng súng đu đưa không ngắm, chĩa vào đầu con ngựa ẩm ướt, đẫm mồ hôi cố nghóc lên với đôi môi run rẩy vì tiếng hí cầu khẩn cuối cùng.
Phát súng nổ đanh gọn. Ru-bin nguyền rủa, nhìn con ngựa và lắp viên đạn thứ hai vào hộp. Con ngựa không hí nữa mà lặng lẽ quay đầy từ phía này sang phía kia, giờ đây nó không tự vệ, lỗ mũi run run, chỉ thở phì phì.
-Đồ cẩu thả, bắn cũng không nên hồn!-U-kha-nốp đứng gần Xec-gu-nen-cốp đang sững sờ lặng người đi, anh tức điên lên quát và xông lại phía Ru-bin.-Anh mà làm việc ở lò sát sinh thì hay gớm đấy!
Anh giật khẩu súng trường từ tay Ru-bin vằ ngắm cẩn thận, bắn gần như thẳng vào đầu con ngựa đang vục mõm xuống tuyết. Mặt trắng bệch ra ngay, anh đẩy cái vỏ đạn rơi cắm xuống đỉnh đụn tuyết và ném súng trả Ru-bin.
-Này cầm lấy gậy, anh hàng thịt! Làm gì mà nhếch mép cười như một thằng ngốc thế? Ngứa mũi hả?
-Có anh là đồ hàng thịt thì có, tuy anh là dân thành phố, chữ nghĩa nhiều.-Ru-bin giận dỗi làu bàu, tuy vậy anh vẫn cúi tấm thân vuông vức, mập mạp, nhặt khẩu súng lên, lấy tay áo gạt tuyết khỏi súng.
-Liệu cái mồm đấy nhé, tớ là tay lắm chữ nghĩa, hãy nhớ lấy!-U-kha-nốp thốt lên và quay về phía Xec-gu-nen-cốp, vỗ vai anh một cách hơi thô bạo.-Thôi được. Chưa mất hết cả đâu. Ta sẽ kiếm ngựa chiến lợi phẩm ở Xta-lin-grát, chú mình ạ. Mình xin hứa như vậy.
-Bọn Đức gọi ngựa là pác-sê-rôn,-chuẩn úy Gô-lô-va-nốp nhận xét.-Chúng ta sẽ kiếm!
-Không phải pác-sê-rôn mà là péc-sê-rôn,-U-kha-nốp sửa lại.-Đã đến lúc phải biết! Thế nào, cậu chiến đấu mới năm đầu tiên hả?
-Ai mà phân biệt được những tiếng ấy.
-Vẫn phải phân biệt chứ!
-Cho khẩu thứ hai xuống dốc!-Đrô-dơ-đốp-xki ra lệnh rồi cưỡi ngựa rời khỏi khẩu pháo, nói thêm:-Đúng lắm, U-kha-nốp ạ.
-Ấy, đừng khen tôi, đồng chí trung úy-U-kha-nốp đáp với vẻ chế giễu trâng tráo. Ánh mắt hừng hực, như muốn gây sự vẫn chưa nguội tắt. Hãy còn sớm đấy… Đồng chí nhầm rồi. Tôi không phải là kẻ giết ngựa.
Cu-dơ-nét-xốp ra lệnh tháo xe kéo khỏi khẩu pháo thứ hai
Lệnh dừng chân được phát ra sau khi mặt trời lặn, lúc hàng quân tuôn vào một làng đã bị đốt cháy trụi. Tại đây mọi người hình như ngạc nhiên khi thấy những đám tro tàn đầu tiên ở ven đường, những khung lò sưởi đơn độc bị cháy thành than dưới chân những cây liễu nhô lên nhọn hoắt dọc bờ sông băng giá, trên sông hơi nước đỏ quạch độc hại từ các hố băng bốc lên mù mịt như sương. Trên mặt đất và trên chân trời phía Tây ánh lên ráng chiều tháng Chạp đỏ như máu, lạnh buốt như một cơn đau nhói đến nỗi tưởng chừng như khuôn mặt của chiến sĩ, những cỗ pháo bị băng phủ, bờm ngựa, những chiếc xe dừng bên lề đường, tất cả đều bị xiềng cứng lại dưới ánh sáng lạnh ngắt, chói chang như kim loại của nó tỏa trên các đụn tuyết.
-Anh em ơi, cánh ta đi đâu thế nhỉ? Bọn Đức ở đâu?
-Đây là một làng nào đó. Cậu nhìn xem, chả có ngôi nhà nào. Thế nghĩa là thế nào? Đến dự đám cưới ông A. hóa ra lại đến đám ma ông X.!
-Khéo chọn lúc để mà nỉ non chuyện đám ma, rồi cánh mình sẽ còn được tới Xta-lin-grát. Các cấp chỉ huy chắc biết rõ hơn…
-Cuộc chiến đấu ở đó diễn ra từ bao giờ nhỉ?…
-Có lẽ lâu rồi.
-Phải tìm chỗ nào sưởi cho ấm lên một tí chứ hả? Kẻo không cánh ta tê cóng hết trước khi đến mặt trận.
-Thế cậu hãy nói cho mình biết mặt trận ở đâu nào?
Lúc cách làng chừng ba ki-lô-mét, ở một ngã tư đường trên thảo nguyên, hàng quân phải dừng lại ít phút để nhường chỗ cho một đoàn dài gồm nhiều xe tăng T-34 mới tinh sơn trắng đi qua, tiến về phía mặt trời lặn. Một quả đạn của địch bắn dò dẫm nổ tung, lóe sáng như ngôi sao chổi giữa không trung, phía trên các xe tăng, rải một lớp bụi đen lên đám tuyết ven đường. Thoạt đầu không ai nằm xuống cả, vì không rõ quả đạn đó bay lạc đi đâu, họ chỉ nhìn những chiếc xe tăng ngáng đường hàng quân. Nhưng những chiếc T-34 vừa đi qua thì nghe rõ ở đâu đó phía đằng sau vang lên tiếng súng trầm trầm của các khẩu đội pháo ở xa, những quả đạn đại bác tầm xa rít lên rất lâu, xuyên qua không trung rồi nổ tung như bom ở bên phải và bên trái ngã tư đường. Ai cũng nghĩ rằng bọn Đức đã trông thấy ngã tư này và mọi người mệt mỏi nằm xuống ngay lề đường, chẳng ai còn hơi sức chạy xa khỏi đường. Cuộc nã pháo đó kết thúc nhanh chóng. Không ai việc gì, hàng quân lại tiếp tục tuôn đi. Mọi người cất bước, chật vật lê đôi chân qua những cái hố lớn nóng hổi do đạn pháo vừa đào lên, mùi thuốc nổ của Đức từa tựa mùi hành tỏa khắp không trung. Cái mùi vị có thể đem lại chết chóc đó không nhắc nhở mọi người nhớ tới nỗi hiểm nguy mà nhắc nhở tới Xta-lin-grát giờ đây không thể đi đến được, tới những tên Đức vô hình đang bắn từ những hỏa điểm xa xôi, bí mật của chúng.
Và Cu-dơ-nét-xốp lại khi thì rơi vào trạng thái mơ mơ màng màng, khi thì nghe thấy tiếng bước chân mình và sự chuyển động sít liền nhau của hàng quân, anh chỉ nghĩ tới một điều: “Khi nào thì được nghỉ? Khi nào nghỉ?”.
Nhưng sau nhiều giờ hành quân, lúc mọi người vào cái làng bị cháy, mệnh lệnh “nghỉ chân” bấy lâu chờ đợi rốt cuộc bật lên như một lời vẫy gọi, chẳng ai cảm thấy thể xác nhẹ nhõm. Những người coi ngựa chân tay tê cóng tụt xuống từ trên lưng những con ngựa bốc hơi ngùn ngụt, họ vấp chân, loạng choạng bước đi trên đôi chân cứng đờ như gỗ, nhích ra lề đường, rùng mình khi đi tiểu tiện. Còn các pháo thủ mệt bã người nằm lăn ra tuyết, đằng sau các xe tải và gần các khẩu pháo, lưng và sườn áp chặt vào nhau, họ buồn bã đưa mắt nhìn nơi trước đây là một xóm làng: bóng dáng lầm lì của những lò sưởi giờ trông như những mộ chí trên nghĩa địa, những đường viền xa xa đậm nét của hai kho lúa còn nguyên vẹn, hằn trên nền trời giá lạnh rực cháy ở phía Tây như hai dấu ấn đen.
Trên khắp khoảnh đất rực đỏ dưới ánh hoàng hôn đó ngổn ngang những ô tô, máy kéo, súng phóng hỏa tiễn “Ca-chiu-sa”, lựu pháo, xe tải. Tuy nhiên mỗi người đều cảm thấy việc nghỉ chân trên những ngõ ngách của một xóm làng chẳng còn tồn tại, không hơi ấm, không có bếp núc, không có cảm giác được ở gần mặt trận, việc nghỉ chân đó giống như một sự lừa dối, không hợp lý. Gió Tây đem lại những sợi tuyết lạnh giá như kim, tro tàn của các đám cháy bốc lên rầu rĩ.
Cố gượng để khỏi ngã, Cu-dơ-nét-xốp đi lại phía các chiến sĩ coi ngựa của khẩu pháo thứ nhất. Ru-bin mặt càng đỏ lựng hơn đang lầm lì cau có xem lại dây thắng của đôi ngựa sườn nhễ nhại mồ hôi đang bốc hơi ngùn ngụt. Anh chàng Xec-gu-nen-cốp lim dim cặp lông mày trắng xóa tỏ ra vẫn chưa nguôi vì chuyện đã qua, đứng gần con ngựa độc nhất còn lại của mình, chìa nắm lúa mạch trên lòng bàn tay về phía đôi môi của con ngựa mệt mỏi vẻ thèm khát tớp lấy tớp để, tay kia anh vuốt ve, vỗ vỗ cái cổ ấm cúi xuống của nó. Cu-dơ-nét-xốp thấy những người coi ngựa chả ai chú ý đến ai, anh định nói đôi lời hòa giải hai người nhưng anh không nói gì và đi về phía anh em pháo thủ với mong ước được nằm gần họ, tì lưng vào ai đó, lấy cổ áo che cho gió khỏi quất vào mặt, nằm, thở, làm cho ấm người lên.
… -Đứng dậy! Hết giờ nghỉ!-Tiếng hô kéo dài khắp hàng quân.-Chuẩn bị lên đường!
-Chưa kịp nhắy mắt đã hết nghỉ rồi à?-Những giọng nói bực bội trao đổi trong bóng tối.-Người ta lại giục đi.
-Phải có cái gì nhai chứ, thế mà cấm có thấy bóng dáng chuẩn úy với bếp đâu. Có lẽ ông ấy đang chiến đấu ở hậu phương!
“Thế là lại lên đường,-Cu-dơ-nét-xốp nghĩ, trong tiềm thức anh luôn luôn chờ đợi mệnh lệnh này, anh cảm thấy đôi chân mệt mỏi nặng trĩu đến run lên.-Thế mặt trận ở đâu nhỉ? Chuyển quân đi đâu?…”.