Chương 13
Tác giả: Diana Wynne Jones
Cat và Janet được dẫn vào một phòng khách kín đáo của quán trọ White Hart. Lão Henry Nostrum trờ tới một cách vênh vang để đón tiếp chúng.
“Các bạn nhỏ thân mến của ta!”
Lão đặt tay lên đôi vai Janet và hôn nó. Janet dợm lui ra sau, làm trệch chiếc nón sang một bên tai. Cat hơi run. Đã lâu nó quên mất cái nhìn len lét, bần tiện của lão Nostrum và cả cái hiệu ứng quái dị ở con mắt trái nhìn đâu đâu của lão.
“Ngồi xuống đi, ngồi xuống đi!” Lão Nostrum nồng nhiệt nói. “Uống chút bia gừng đi chớ!”
Chúng ngồi xuống, nhấm nháp món bia gừng mà cả hai đứa đều không ưa chút nào.
“Ông tìm cháu và chị Gwendolen có việc gì ạ?” Cat hỏi.
“Đó là vì, “ lão Nostrum nói, “để đi thẳng vào vấn đề và không mất thì giờ lòng vòng, tất cả chúng ta đã nhận ra rằng, như đã lo ngại từ trước, chúng ta không cách chi sử dụng được ba chữ ký mà các cháu đã tử thế cho ta để đổi lấy những dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục. KẺ SỐNG TRONG LÂU ĐÀI ĐẰNG KIA, mà cái tên nếu nói ra thì thật đáng khinh, đã ký tên mình dưới những sự bảo vệ không thể phá vỡ nổi. Các cháu có thể hiểu là ông ta đã thận trọng như thế nào. Nhưng ta e rằng điều đó bắt buộc chúng ta phải sử dụng đến Kế hoạch Hai. Đó là lí do vì sao, Cat thân mến của ta, chúng ta đã mừng rỡ đến thế khi thu xếp được cho các cháu đến sống ở Lâu đài.”
“Kế hoạch Hai là gì ạ?” Janet hỏi.
Con mắt lé của lão Nostrum trượt sang một bên mặt của Janet. Có vẻ như lão không nhận ra nó không phải là Gwendolen. Có lẽ con mắt lan man của lão không nhìn được rõ lắm.
“Kế hoạch Hai là thứ mà ta đã mô tả cho con rồi đấy thôi, Gwendolen thân mến,” lão nói. “Chúng ta chẳng hề thay đổi nó tí ti nào cả.”
Jenet đành phải tìm cách khác để dò la xem lão đang nói chuyện gì. Nó đã trở nên thuần thục trong việc này.
“Nhưng cháu muốn ông phải mô tả kỹ cho Cat,” nó nói. “Nó chưa biết kế hoạch đó, và có lẽ nó cần được biết bởi vì… bởi vì cháu chẳng may đã bị họ truất hết phép thuật rồi.”
Lão Nostrum ve vẩy một ngón tay đùa đùa trước mặt Janet.
“Phải rồi, con bé hư đốn. Ta đã nghe được nhiều chuyện về con trong cái làng này. Mất phép thuật đúng là buồn thật đấy, nhưng hy vọng đó chỉ là tạm thời thôi. Giờ thì.. về chuyện giảng lại cho Cat…ta nên nói thế nào đây?”
Lão nghĩ ngợi, vuốt vuốt chỗ tóc mai xoăn xoăn, theo như thói quen. Cái lối lão vuốt tóc cho Cat biết rằng, dù lão Nostrum sắp sửa nói điều gì đi chăng nữa thì điều đó sẽ không chắc là sự thật. Việc đó thể hiện trong cử dộng của đôi tay lão Nostrum, và trong cả cái cách lão đeo chiếc đồng hồ dây chuyền bạc vào quanh chiếc cổ tay tròn trịa và cáu bẩn của mình.
“Tốt lắm, bạn nhỏ Chant,” lão Nostrum nói, “Đây là cốt lõi của vấn đề. Có một nhóm, một bè lũ, một tập hợp những kẻ được dẫn đầu bởi CHỦ NHÂN TÒA LÂU ĐÀI. Họ xử sự rất ích kỷ trong quan hệ pháp thuật. Họ giữ những thứ tốt nhất cho chính họ, và điều này dĩ nhiên làm cho họ trở nên rất nguy hiểm. Họ là mối đe dọa cho tất cả mọi phù thủy, và là một thảm họa tiềm tàng cho những người bình thường. Lấy ví dụ như máu rồng. Chắc cháu cũng biết rằng thứ đó bị cấm. Những kẻ đó, với NHÂN VẬT ĐÓ cầm đầu, đã cấm đoán thứ đó, nhưng trong khi đó – hãy ghi nhớ đấy nhé, bạn nhỏ Chant – bản thân họ sử dụng chúng hàng ngày. Và – đây là điều ta muốn nhấn mạnh – họ kiểm soát chặt chẽ những con đường để đến với các thế giới có máu rồng. Một thầy đồng bình thường như ta chỉ có thể lấy được máu rồng với rủi ro và chi phí rất lớn, và các nhà cung ứng hàng độc của chúng ta phải liều mạng sống mới kiếm được nó cho chúng ta. Cũng tương tự như thế với hầu hết các sản phẩm từ thế giới khác. Giờ thì ta hỏi cháu, bạn nhỏ Cat, làm vậy có công bằng hay không? Không hề. Và ta sẽ nói cho cháu biết tại sao lại không, bạn nhỏ Eric ạ. Không công bằng là ở chỗ những con đường đi đến các thế giới khác lại đang nằm trong tay của một số ít người. Đó chính là cốt lõi của vấn đề: những con đường đến với thế giới khác. Chúng ta muốn chúng được mở ra, tự do đi lại cho tất cả mọi người. Và đó là nơi mà cháu sẽ đến, bạn nhỏ Cat ạ. Con đường tốt nhất và dễ dàng nhất, CÁNH CỔNG RỘNG LỚN NHẤT ĐỂ ĐI ĐẾN NƠI KHÁC, nếu cho phép ta gọi nó như thế, là một khu vườn kín nào đó trong phạm vi của cái gọi là Lâu đài. Ta đoán rằng cháu cũng đã bị cấm bước vào đó…”
“Đúng rồi ạ,” Cat nói. “Chúng cháu đã bị cấm.”
“Cháu thấy có bất công không nào!” Lão Nostrum nói. “CHỦ NHÂN CỦA NƠI ĐÓ thì sử dụng cánh cổng đó hàng ngày và đi du lịch đến bất cứ nơi đâu ông ta thích. Cho nên điều mà ta muốn cháu làm, bạn nhỏ Cat ạ, và cũng là toàn bộ nội dung của Kế hoạch Hai, đó là đi vào khu vườn ấy vào lúc chính xác hai giờ ba mươi phút chiều chủ nhật. Cháu có thể hứa với ta sẽ làm điều đó không?”
“Làm như thế thì có gì tốt ạ?” Cat hỏi.
“Nó sẽ phá món bùa niêm phong mà những kẻ hiểm độc đó dán lên CÁNH CỔNG ĐỂ ĐI ĐẾN NƠI KHÁC,” lão Nostrum đáp.
“Cháu chưa hiểu rõ lắm,” Janet nói với một nếp nhăn rất “ra trò” trên vầng trán, “Nếu Cat chỉ đơn giản đi vào khu vườn thôi thì bằng cách nào nó phá được lá bùa niêm phong đó?”
Lão Nostrum trông có vẻ hơi bực.
“Bằng cách để một chú bé ngây thơ bình thường đi vào, dĩ nhiên rồi. Gwendolen thân mến của ta ơi, ta đã nhấn mạnh với cháu không biết bao nhiêu lần tầm quan trọng của việc phải có một chú bé ngây thơ ở trung tâm Kế hoạch Hai. Cháu phải hiểu chứ.”
“Ồ, cháu hiểu, cháu hiểu mà,” Janet vội nói. “ Và điều đó có phải là nhất thiết vào lúc hai giờ rưỡi chiều Chủ nhật này không ạ?
“Chắc chắn rồi,” lão Nostrum nói và mỉm cười trở lại. “ Đó là một thời khắc rất mạnh. Cháu có chịu làm việc đó cho chúng ta không, bạn nhỏ Cat? Cháu có chịu, bằng hành động đơn giản đó, giúp chị của cháu và những người như chị ấy được tự do làm những gì họ cần trong việc thực thi phép thuật không?”
“Cháu sẽ gặp rắc rối nếu như cháu bị tóm,” Cat nói.
“Họ sẽ xem đó như một chút trò nghịch ngợm trẻ con thôi mà. Vả lại, cháu đừng có sợ, chúng ta sẽ lo cho cháu sau đó,” lão Nostrum cố thuyết phục.
“Cháu nghĩ sẽ cố ạ,” Cat nói. “Nhưng ông có thể giúp cháu một chút để đổi lại không ạ? Theo ông nghĩ, anh của ông có thể hào hiệp cho chúng cháu vay hai mươi bảng trước thứ Tư tới không?”
Một ánh mắt mơ hồ, mặc dù vẫn niềm nở, xuất hiện trên con mắt trái của lão Nostrum. Con mắt đó hiền từ chĩa vào góc xa của phòng khách.
“Bất cứ thứ gì miễn cháu thích, cậu bé thân mến ạ. Chỉ cần cháu đi vào khu vườn đó thì những trái cây của tất cả thế giới sẽ tha hồ cho cháu hái.”
“Cháu cần biến thành bọ chét trong nửa giờ nữa, và vào hôm thứ Hai thì cháu muốn có bề ngoài như là người làm được phép thuật,” Cat nói. “Đó là tất cả những gì cháu cần, ngoài hai mươi bảng kia ra.”
“Bất cứ điều gì, bất cứ điều gì! Miễn cháu vào khu vườn đó cho chúng ta,” lão Nostrum hào phóng nói.
Có vẻ như Cat và Janet buộc phải hài lòng với những lời nói suông ấy. Cat đã thực hiện nhiều nỗ lực để buộc lão Nostrum phải hứa dứt khoát, nhưng tất cả những gì lão nói chỉ là “Chỉ cần cháu vào trong khu vườn đó”. Janet nhìn Cat rồi hai đứa đứng lên để ra về.
“Mình nói chuyện tầm phào chút đi,” lão Nostrum đề nghị. “Ta có ít nhất hai vật lý thú cho các cháu.”
“Chúng cháu không có thời giờ,” Janet nói dối một cách cứng cỏi. “Đi thôi, Cat.”
Lão Nostrum đã quen với sự cứng cỏi tương tự của Gwendolen. Lão bèn đứng dậy, tiễn hai đứa ra cửa quán trọ như những bậc vương giả, rồi vẫy chào chúng khi chúng bước ra khu công viên.
“Hẹn gặp lại các cháu hôm Chủ nhật,” lão gọi với theo chúng.
“Không có vụ đó đâu!” Janet thì thào.
Vẫn giữ đầu cúi gằm để chiếc nón rộng của Gwendolen che nó trước cặp mắt lão Nostrum, Janet thì thầm với Cat.
“Cat à, nếu em làm cái việc mà một kẻ bất lương không thể tưởng tượng nổi như thế muốn em làm, thì đúng là em điên mất rồi! Chị biết lão ta đã xổ ra với em một tràng dối trá. Chị không biết lão ấy thực sự muốn gì, nhưng chị xin em đừng làm theo lão ta.”
“Em biết…”
Cat vừa định nói thì lão Baslam đã đứng dậy từ băng ghế bên ngoài quán trọ White Hart và lóng ngóng chạy theo chúng.
“Đợi chút!” lão ta hổn hển nói, phả cả hơi bia lên hai đứa.
“Con gái, con trai, ta hy vọng các cháu vẫn lưu tâm những gì ta đã nói với các cháu, thứ Tư đấy nhé. Đừng quên thứ Tư đấy.”
“Ông đừng lo. Điều đó vẫn ám ảnh những giấc mơ của cháu,” Janet nói. “Làm ơn nhé. Chúng cháu đang bận, ông Bustle ạ” (Bustle:Bất-xồn, Janet luôn gọi nhầm tên lão Baslam!)
Chug đi nhanh qua khu vực công viên. Người sống duy nhất mà chúng thấy ở đây là Will Suggins. Anh ta bước ra từ sân sau tiệm bánh mì để nhìn theo chúng đầy ác ý.
“Em nghĩ chắc em lãnh đủ quá,” Cat nói.
“Đừng nghĩ vậy,” Janet nói. “Tuy vậy, chị phải công nhạn rằng tụi mình cũng chẳng có thể làm gì khác hơn được.”
“Chỉ còn một cách là bỏ trốn,” Cat nói.
“Vậy thì tụi mình làm vậy đi…làm ngay đi,” Janet nói.
Chúng không hẳn là chạy. Chúng chỉ nhanh chân bước khỏi làng, hướng ra con đường mà Cat nghĩ sẽ về lại được trấn Wolvercote là nơi mà bất cứ ai trong lâu đài cũng sẽ nghĩ phải tìm kiếm trước tiên, Cat bèn giải thích cho nó là bà Sharp có những “mối lớn” ở Luân Đôn. Nó biết bà Sharp sẽ lén lút đưa chúng đi đâu đó, và sẽ chẳng có ai hỏi được. Nó thấy rất nhớ nhà khi nhắc đến bà Sharp. Nó nhớ bà khủng khiếp. Nó lê bước trên con đường quê, ước sao đó là phố Coven và ước sao Janet đừng đi bên cạnh nó mà nhai nhải phản bác.
“Thôi được, biết đây em có lý,” Janet nói, “vả lại chị cũng chẳng biết nơi nào khác hơn để mà đến. Làm cách nào tụi mình đến được Wolvercote đây? Quá giang hả?”
Vì Cat không hiểu thế nào là quá giang, Janet phải giải thích cho nó hiểu rằng điều đó có nghĩa là được cho lên xe nhờ ngoắc ngoắc ngón tay cái.
“Làm vậy sẽ đỡ phải đi bộ nhiều,” Cat đồng ý.
Lối đi mà nó chọn nhanh chóng rẽ ra một con đường quê chính hiệu đầy vết lún của bánh xe và cỏ lang, hai bên đường là hai hàng dậu cao, lủng lẳng như trái mọng đỏ tươi. Không có một phương tiện giao thông nào trên đường.
Janet cố không can gián gì Cat.
“Chỉ một điều này thôi,” nó nói. “Nếu tụi mình tìm ra được đúng đường từ chỗ này, em phải hứa với chị không bao giờ được nhắc đến KẺ MÀ EM BIẾT LÀ AI.”
Do Cat không hiểu, Janet phải giải thích:
“Thì là cái người mà lão Nostrum gọi là NHÂN VẬT ĐÓ hay CHỦ NHÂN TÒA LÂU ĐÀI đó mà… Em biết rồi kia mà!”
“Ồ,” Cat thốt lên, “Ý chị nói là Chrest…”
“Im!” Janet nạt. “Đúng là chị muốn ám chỉ ông ta, và em không được nhắc tên ông ta. Ông ta là thầy bùa và ông ta luôn luôn xuất hiện mỗi khi em nhắc đến ông ta, ngốc ạ! Cứ nhì cái cách lão Nostrum sợ cứng cả người không dám nhắc tên ông ta thì biết ngay chứ gì.”
Cat suy nghĩ điều này. Mặc dù rầu rĩ và nhớ nhà, nó vẫn không dễ dàng đồng ý với bất cứ điều gì Janet nói. Dù sao con bé cũng không thực sự là chị nó. Ngoài ra, lão Nostrum đã không nói sự thật. Và Gwendolen cũng chưa bao giờ nói rằng Chrestomanci là một thầy bùa. Nếu nghĩ ông ấy là thầy bùa thì Gwendolen chắc chắn đã chẳng đời nào dám làm tất cả những phép thuật linh tinh.
“Em không tin chị,” nó nói.
“Tốt thôi. Thì em đừng có tin,” Janet nói. “Chỉ cần em đừng nói tên ông ta ra.”
“Thế nào cũng được,” Cat nói. “Dù sao em cũng hy vọng đừng bao giờ còn gặp lại ông ta.”
Chúng càng đi tới thì con đường quê càng rộng dần ra. Đó là một buổi chiều hanh nóng. Hai bên hàng dậu đầy những trái dẻ, và những bụi lớn toàn trái mâm xôi. Chúng đi chưa hết một dặm đường thì Cat đã chợt thấy những cảm xúc của nó hoàn toàn đổi khác. Nó đã được tự do. Những rắc rối của nó đã bị bỏ lại phía sau. Nó và Janet hái những trái dẻ vừa chín tới và cười giỡn rất vui khi đập hạt dẻ. Janet tháo chiếc nón của nó ra – nó đã lặp đi lặp lại với Cat rằng nó rất ghét đội nón – và chúng bỏ trái mâm xôi vào đầy nón để dành còn dùng về sau. Và hai đứa lại cười rũ rượi khi nước trái mâm xôi rỉ ra từ chiếc nón, rơi tong tỏng xuống bộ váy của Jannet.
“Em nghĩ đi trốn như thế này thiệt là vui,” Cat nói.
“Cứ đợi qua đêm trong một vựa lúa đầy chuột rồi hẵng nói,” Janet nói. “Cọt kẹt, cọt kẹt này… Trong thế giới phù thủy này thì có yêu tinh không?.. Ố ố…, coi kìa! Có xe đang đi tới! Ngoắc ngón cái đi… không, phải vẫy mới được. Có lẽ ở đây ngoắc ngón cái họ không hiểu.”
Chúng rối rít vẫy chiếc xe lớn màu đen đang rầm rì và xóc nẩy tiến về phía chúng trên con đường đầy vết lún. Chiếc cửa sổ gần nhất được xoay xuống. Cả hai đứa bị một cú sốc nặng nề khi Julia thò đầu ra ngoài.
Julia trông tái mét và bồn chồn.
“Ôi, làm ơn trở lại đi!” nó nói. “Tôi biết các bạn trốn đi là do lỗi tại tôi, nhưng tôi đã hối hận lắm rồi! Tôi thề sẽ không làm thế nữa đâu!”
Roger thò đầu ra từ cửa sổ phía sau.
“Tôi đã nói với chị ấy hoài rồi, rằng thể nào các bạn cũng bỏ trốn,” nó nói. “Nhưng chị ấy có chịu tin tôi đâu. Các bạn trở về đi. Làm ơn đi mà.”
Đến đó, cánh cửa chỗ tay lái mở ra. Bà Millie đi bọc quanh chiếc mui xe dài, hối hả lao tới. Trông bà giản dị hơn rất nhiều so với thường lệ, bởi lẽ các tay áo của bà đã được xắn lên để tiện lái xe. Bà lại mang đôi giày chắc khỏe, đội một chiếc nón cũ. Bà cũng bồn chồn chẳng kém gì Julia. Khi bước tới chỗ Janet và Cat, bà quơ tay ôm lấy hai đứa và mừng rỡ ghì chúng mạnh đến mức Cat sém chút nữa ngã ngửa.
“Các con tội nghiệp! Lần sau, nếu các con cảm thấy không vui thì phải đến nói với ta ngay tức khắc! Mà các con cũng liều lĩnh quá đi mất! Ta đã sợ các con gặp rắc rối qua chừng. Sau đó Julia nói với ta rằng đó là lỗi tại nó. Ta giận nó vô cùng. Một cô gái đã từng làm như vậy với ta hồi còn nhỏ và ta biết điều đó làm cho ta khốn khổ đến cỡ nào. Giờ thì, làm ơn đi các con, làm ơn trở lại đi. Ta có một bất ngờ đang chờ đón các con ở Lâu đài.”
Cat và Janet chẳng còn biết làm gì khác hơn là leo vào xe và để bà đưa về Lâu đài. Chúng cảm thấy khốn khổ. Nỗi khốn khổ của Cat càng tăng lên khi nó bắt đầu cảm thấy muốn ói vào lúc bà Millie lái chiếc xe long xòng xọc lùi lại trên con đường huyện để ra đến một cánh cổng, nơi bà có thể trở đầu xe. Mùi trái mâm xôi từ chiếc nón mềm nhũn của Janet càng khiến nó cảm thấy thêm tồi tệ.
Bà Millie, Roger và Julia nhẹ nhõm ra mặt vì đã tìm được hai đứa kia. Ba mẹ con hớn hở huyên thuyên suốt dọc đường. Mặc dù đang muốn bệnh, Cat vẫn có cảm giác rằng, dù không người nào trong bọn họ nói ra, điều khiến họ đặc biệt vui mừng là họ đã tìm ra được Janet và Cat trước khi Chrestomanci biết được tin bọn chúng bỏ trốn. Cảm giác đó không làm cho cả Cat lẫn Janet cảm thấy dễ chịu hơn chút nào.
Trong năm phút, chiếc xe đã rầm rì đi ra con đường lớn và dừng lại trước cổng chính của tòa lâu đài. Bác tổng quản mở cửa xe cho mọi người. Cat buồn rầu nghĩ, đó chính là điều mà chị Gwendolen từng mong muốn. Thêm vào đó, bác tổng quản còn long trọng đón lấy chiếc nón rỉ nước của Janet.
“Tôi sẽ cho mang đến chỗ ông bếp trưởng,” bác nói.
Bà Millie nói với Janet rằng chiếc váy của nó trông không đến nổi nào và giục giã hai đứa đến chỗ được gọi là Phong Khách Nhỏ.
“Dĩ nhiên gọi như thế có nghĩa là nó chỉ rộng có vỏn vẹn bẩy mươi bộ vuông,” bà nói. “Vào đi. Người ta sẽ mang trà tới cho các con.”
Chúng bước vào. Ở giữa căn phòng lớn vuông vức, một người phụ nữ gầy gò, mong manh, mặc bộ đồ màu đen đính cườm đang căng thẳng ngồi trên mép một chiếc ghế mạ vàng. Bà ta giật mình, quay ngoắt lại khi cánh cửa mở ra.
Cat quên cả cơn say xe.
“Bà Sharp!” nó hét lên và nhào tới ôm lấy bà.
Tuy trông rất căng thẳng, nhưng bà Sharp mừng khôn xiết.
“Cat của bà đây rồi! Lại đây, lùi ra chút để bà nhìn con chút coi, và cả con nữa, Gwendolen, cưng của bà. Trời đất! Các con mặc đồ đẹp thế này để chơi đùa đấy sao? Con mập ra đó, Cat. Còn con thì ốm đi, Gwendolen ạ. Bà biết tại sao mà, các con ạ, tin bà đi! Các con hãy nghĩ thử coi người ta đã mang đến cho ba bà cháu mình bữa tiệc trà như thế nào nè!”
Đó là một bữa tiệc trà tuyệt diệu, thậm chí còn ngon hơn cả bữa tiệc trà trên bãi cỏ. Bà Sharp, với cái tật tham lam cố hữu, xà ngay vào, ních càng đầy cái bụng càng tốt, và nói năng một cách khó nhọc.
“Phải, lão Nostrum và bà đã đón tàu ngày hôm qua. Sau khi bà nhận được bưu thiếp của các con, Cat ạ, bà thấy không thể nào yên được cho đến khi ngó được hai con, và cũng nhận tiện để xem các mối giao tiếp của bà và những thứ khác có được thanh toán tốt hay không. Bà cảm thấy bà còn mắc nợ điều đó. Họ đã đối xử với bà như bà hoàng khi bà mới vừa tới trước cửa đây. Bà không thể bới móc được gì họ. Nhưng có lẽ bà cũng không sao ưa nổi cái cuộc sống trong tòa lâu đài này. Nói bà xem, Gwendolen cưng, con có cảm thấy giống như bà không vậy?”
“Nhưng bà cảm thấy như thế nào ạ?” Janet thận trọng hỏi.
“Bà cứ căng thẳng suốt,” bà Sharp nói. “Bà cảm thấy yếu ớt và dễ giật mình như một con mèo con – nhắc đến đó bà mới nhớ, Cat ạ, nhưng bà sẽ nói chuyện với con sau. Ở đây quá im ắng. Bà cứ nghĩ mãi nó như thé nào trước khi các con đến – và các con đã ở đây lâu rồi, các con yêu quý - rồi cuối cùng bà cũng đã hiểu ra. Nó đã được yểm bùa, thế đấy, mà là một món bùa mạnh khủng khiếp, nhằm chống lại cánh phù thủy chúng ta. Bà tự nhủ, “Lâu đài này không ưa phù thủy, đích thị là như vậy!” và bà thấy cảm thông với con, Gwendolen ạ. Con hãy ép ông ta gửi con đi học nơi nào khác đi. Như vậy con sẽ hạnh phúc hơn.”
Bà Sharp tiếp tục huyên thuyên. Bà rất mừng được gặp lại cả hai đứa, và bà luôn dành riêng cho Cat những ánh mắt đầy tự hào và triều mến. Cat nghĩ bà đã tự huyễn hoặc rằng chính bản thân bà đã nuôi nấng nó từ khi nó còn là em bé. Nhưng dù sao đi nữa, bà cũng đã biết nó từ lúc nó mới sinh.
“Kể chúng con nghe về tình hình ở phố Coven đi,” nó háo hức đề nghị.
“Bà sắp kể đến đó nè,” bà Sharp nói. “Con có nhớ cô Larkins không? Cô gái nóng nảy có mái tóc đỏ vẫn hay đoán mệnh đó? Bà thì bà không quan tâm tới cô ấy. Nhưng có người lại quan tâm. Cô được một khách hàng mang ơn cô đưa vô làm ở một Cửa hiệu sang trọng trên phố Bond. Phố Coven không đáng kể đối với cô ta nữa. Sao mà có những người hên vậy? Nhưng bản thân bà cũng có một lần hên đấy nhé. Bà đã kể cho con trong thư…, đúng không, Cat nhỉ… về việc bà được trả năm bảng cho cái con mèo già mà con đã biến ra từ chiếc đàn vĩ cầm của bé Cat, có nhớ không Gwendolen. Thế này nhé, người mua nó là một ông nhỏ thó rất là vui tính. Trong khi bà và ông ấy rình bắt con mèo già – các con cũng biết nó chả đời nào chịu đến khi ta muốn bắt nó – cái ông nhỏ thó đó cứ bám riết lấy bà, nói huyên thuyên về chứng khoán rồi cổ phiếu rồi vốn đầu tư và những thứ đại loại như thế. Toàn những điều bà chả bao giờ hiểu nổi. Ông ấy dặn bà cần phải làm gì với chỗ tiền năm bảng mà ông ấy đưa cho bà , và ông ta làm cho đầu của bà cứ quay cuồng hết cả lên. Tốt thôi, bà không nghĩ ngợi nhiều về chuyện đó, nhưng bà nghĩ cứ thử đi coi sao. Và, theo như bà nhớ, bà đã làm y như lời ông ta. Rồi các con biết không, năm đồng bảng đó đã mang lại một trăm! Ông ta đã đem lại cho bà những một trăm bảng cơ đấy!”
“Ông ta hẳn phải là một đại phù thủy tài chánh,” Janet nói.
Nó chỉ nghĩ đó là câu nói giỡn để nó tự khuây khỏa, và có rất nhiều lý do khiến nó cần khuây khỏa. Nhưng bà Sharp đã hiểu câu đó theo đúng nghĩa đen.
“Chính xác, cưng của ta ạ! Con quả thật lúc nào cũng thông minh. Ta biết ông ta là một đại phù thủy tài chánh bởi lẽ ta có nói chuyện với lão Nostrum, và lão Nostrum đã làm chính xác những gì ta đã làm với năm bảng của ông ta – hay có khi còn hơn nữa – và lão ta đã mất sạch chẳng còn một xu nào. Và còn một chuyện nữa…”
Cat quan sát bà Sharp trong lúc bà tiếp tục huyên thuyên. Nó thấy lo lắng và buồn. Nó vẫn yêu mến bà Sharp như xưa. Nhưng nó biết rằng bỏ trốn đến chỗ bà sẽ chẳng được tích sự gì. Bà là một người yếu đuối, không lương thiện. Bà sẽ chẳng đời nào giúp chúng. Bà sẽ gửi chúng ngược trở lại Lâu đài và tìm cách moi tiền Chrestomanci vì việc làm đó. Và những mối quen biết ở Luân Đôn mà bà đang ba hoa lúc này cũng chỉ toàn là những lời ba hoa. Cat thắc mắc không hiểu mình đã biến đổi nhiều tới cỡ nào – và vì sao lại biến đổi như thế – để tới mức có thể biết rõ tất cả những điều này. Nó nhìn bà Sharp đang thao thao bất tuyệt nói về bản thân trong chiếc ghế mạ vàng mà bực mình.
Thanh toán xong các thứ đồ ăn, bà Sharp bắt đầu lộ vẻ rất căng thẳng. Có lẽ Lâu đài làm bà mất tinh thần. Sau một hồi lâu, bà đứng dậy, lón xón bước những bước căng thẳng đến một cửa sổ ở phía góc xa, đãng trí cầm theo luôn tách trà.
“Lại đây giới thiệu cho bà khung cảnh này đi,” bà gọi. “Nó hoành tráng quá bà không thể nào hiểu được.”
Cat và Janet miễn cưỡng đi lại chỗ bà. Ngay sau đó bà Sharp đã vô cùng sửng sốt khi phát hiện mình đang cầm trên tay một tách trà không.
“Ồ, nhìn này,” bà nói, run lên vì căng thẳng, “Bà mà không cẩn thận thì bà mang cả nó đi theo đấy.”
“Tốt nhất là bà đừng mang theo,” Cat nói. “Nó chắc là đã bị yểm bùa. Mọi món đồ bà mang ra ngoài đều sẽ la toáng lên là chúng xuất xứ từ đâu.”
“Thật sao?”
Toàn thân run rẩy, bà Sharp đưa cho Janet chiếc tách của bà, vẻ vô cùng bẽn lẽn, và cùng với đó là hai chiếc muỗng bạc và chiếc kẹp đường mà bà lấy ra từ túi xách.
“Đây nữa nè, cưng ạ. Con làm ơn mang trả lại bàn giúp bà, được không con?”
Janet bước đi, băng qua những sải thảm dài sọc. Và khi nó vừa ra ngoài tầm nghe, bà Sharp liền cúi xuống, thì thầm.
“Lão Nostrum đã nói chuyện với con chưa vậy Cat?”
Cat gật đầu.
Bà Sharp lập tức trở nên căng thẳng một cách chân thực hơn hẳn. “Đừng làm những gì ông ta nói, cưng ạ,” bà thì thào. “ Không làm bất cứ giá nào. Con nghe bà nói không? Đó là một sự ô nhục trơ trẽn, đồi bại nhất, và con không được làm điều đó!”
Rồi, khi Janet chậm rãi quay về – chậm rãi vì nó thấy bà Sharp có chuyện gì đó muốn nói riêng với Cat – bà Sharp bỗng lớn giọng một cách giả tạo.
“Ồ, nhìn những cây sồi lớn lâu năm đằng kia kìa! Chúng chắc còn nhiều tuổi hơn cả bà nữa đấy!”
“Chúng là thủy tùng chứ ạ,” Cat chĩ nghĩ ra được bấy nhiêu để mà nói.
“Thôi được, bữa tiệc trà ngon lắm, các con ạ, và bà thật dễ chịu được gặp lại các con,” bà Sharp nói. “Bà cũng mừng là con đã cảnh báo cho bà về mấy chiếc muỗng đó. Những tài sản yểm bùa là trò thâm độc, xấu xa, bà luôn nghĩ như vậy. Giờ thì bà phải đi đây. Lão Nostrum đang đợi bà.”
Rồi bà Sharp ra về, băng qua tiền sảnh của Lâu đài và bước xuống đường với một tốc độ cho thấy rõ ràng rằng bà đã vui mừng được ra về.
“Chắc em cũng thấy hả, Lâu đài đúng là đã làm bà ấy bối rối.”
Janet nói, nhìn theo thân hình màu đen của bà Sharp đang lón xón bước đi.
“Bà ấy nói ở đây yên lặng quá… Chị hiểu bà ấy muốn nói gì. Nhưng chị nghĩ lâu đài cũng vui đấy chứ… hoặc nó sẽ vui nếu như mọi thứ khác không thê lương như vầy. Cat à, bỏ trốn đến chỗ bà ấy sẽ chẳng hay ho chút nào đâu, chị sợ là như vậy đấy.”
“Em biết chứ,” Cat nói.
“Chị cũng nghĩ là em biết,” Janet nói.
Nó muốn nói nhiều hơn nữa, nhưng hai đứa đã bị Roger và Julia ngắt ngang. Julia rất ăn năn hối lỗi và cố hết sức để tỏ ra thân thiện, đến mức cả Janet lẫn Cat đều không thể đang tâm mà làm ngơ. Thế là cả bốn đưa lấy mấy chiếc gương soi mà ra chơi. Roger lôi ra chiếc gương bị cột vào kệ sách của Cat, rồi nhập lại cùng với chiếc gương của nó, của Julia v à cả của Gwendolen. Julia thắt một nút thắt thật chắc trên chiếc khăn mùi xoa của nó, làm cho cả bốn chiếc gương nổi bềnh bồng trong phòng chơi. Bọn trẻquay cuồng trong phòng cho đến tận bữa tối, đùa giỡn rât vui vẻ, đó là chưa nói chuyện chạy lên chạy xuống dọc hành lang bên ngoài.
Bữa ăn tối hôm đó được dọn ngay trong phòng chơi. Lại có khách khứa đến dùng bữa ở dưới. Roger và Julia biết chuyện đó, nhưng chẳng ai nhắc chuyện đó với Cat và Janet do lo ngại khả năng Gwendolen có thể phá bữa tiệc lần nữa.
“Họ bao giờ cũng tiệc tùng giải trí tưng bừng một tháng trước Lễ hội Ma.”
Julia nói khi chúng ăn xong món bánh mứt trái mâm xôi mà anh bếp trưởng đã đặc biệt làm ra từ nắm trái trong chiếc nón của Janet.
“Giờ thì mình chơi đánh trận nhé, hay lại chơi gương tiếp?”
Janet đã ra hiệu có vẻ rất bức bách rằng nó có chuyện khẩn muốn nói, cho nên Cat buộc lòng phải từ chối.
“Xin lỗi, tiếc quá đi, nhưng tụi này phải bàn bạc về một số điều bà Sharp đã dặn. Và đừng nói là Gwendolen nắm đầu tôi đấy nhé. Hoàn toàn không phải như vậy đâu.”
“Tụi này bỏ qua cho bạn,” Roger nói. “Có thể tụi này cũng bỏ qua cho cả Gwendolen nữa đấy.”
“Tụi này sẽ quay lại khi nào bàn bạc xong,” Janet nói.
Hai đứa đi vội về phòng Gwendolen, rồi Janet chốt cửa lại để phòng trường hợp Euphemia bước vào.
“Bà Sharp nói bằng mọi giá em không được làm những gì lão Nostrum dặn,” Cat nói với Janet. “Em nghĩ bà ấy đến đây đặc biệt là để căn dặn em điều đó.”
“Đúng rồi, bà ấy thương em lắm đó,” Janet nói. “Ô… Ô…Ô… Hừ!”
Nó chắp tay sau lưng rồi bước qua bước lại với cái đầu vênh lên. Trông nó giống thầy Saunders đang giảng bài đến mức Cat cũng phải bật cười.
“Dỏm,” Janet nói tiếp. “Dỏm, dỏm, dỏm, dỏm, dỏm dỏm dỏm dỏm dỏm!”
Nó bước thêm vài bước nữa.
“Bà Sharp là một kẻ cực kỳ bất lương, cũng tệ hại gần như chẳng kém gì lão Nostrum, mà có thể còn tệ hơn cả lão Bistro, cho nên nếu bà ấy nghĩ em không được làm điều đó, thì hẳn lời khuyên này không hay rồi. Em cười cái gì vậy?”
“Chị vẫn cứ nói sai cái tên của ông Baslam,” Cat đáp.
“Lão ta đâu xứng đáng để được gọi đúng tên,” Janet nói, tiếp tục bước đi.
“Ôi, cái bà Sharp lộn xộn! Lúc thấy rằng bà ấy chẳng được tích sự gì cho mình, chị đã tuyệt vọng tới mức tự nhiên tìm ra một lối thoát lý tưởng, thế mà bà ấy tìm cách ngăn nó lại. Em thấy đó, nếu khu vườn ấy là một con đường để đi đến các thế giới khác, vậy thì chị em mình có thể trở về với thế giới của chị và em sẽ sống với chị ở đó. Em nghĩ đó có phải là ý tưởng hay không? Em sẽ thoát khỏi Chrestomanci và lão Baalamb, và chị tin chắc rằng Will Suggins không thể biến em thành con ếch ở đó được, đúng chưa?”
“Không đâu,” Cat nói một cách thiếu tin tưởng. “Nhưng em không nghĩ lão Nostrum nói thật với tụi mình. Chuyện nào lão nói cũng có thể là chuyện xạo.”
“Chị không cần biết?” Janet nói. “Nhất là là sau khi đã gặp bà Sharp rồi. Ba má chị cũng là một trở ngại khác. Nhưng chị nghĩ ba má sẽ mến em khi hai người hiểu ra. Lúc này ba má chắc là đang lúng túng ghê gớm với Người Thế Chỗ thân mến của chị. Và chị quả thật đã từng có một em trai bị chết khi mới ra đời, cho nên có thể ba má sẽ nghĩ em là Người Thế Chỗ thân mến của em trai chị.”
“Thật là kỳ lạ!” Cat nói. “Em cũng sém nữa chết khi mới sinh ra đời!”
“Thế thì em đúng là nó rồi,” Janet nói, quay ngoắt lại khi sải bước trong phòng. “Ba má sẽ vui lắm cho coi… chị hy vọng là thế. Và điều hay nhất trong chuyện này là Gwendolen sẽ bị lôi trở lại nơi đây để mà lãnh hậu quả và cư xử cho phải lẽ! Mọi việc toàn là do lỗi của chị ấy.”
“Không, không phải đâu,” Cat nói.
“Phải, đúng là như thế!” Janet nói. “Chị ấy làm phép thuật mặc dù đã bị cấm, rồi chị ấy đưa cho cái ông Blastoff đồ bỏ ấy đôi bông tai để đổi lấy thứ mà chị ấy không được phép có, rồi sau đó lại lôi chị tới đây, biến Euphemia thành con ếch, rồi lại đẩy em vào cái mớ rắc rối còn tệ hại hơn cả các rắc rối của chị. Em làm ơn ngừng lại và suy nghĩ một chút đi, đừng có tỏ ra trung thành qua mức như thế chứ!”
“Nổi giận như vậy là không tốt đâu,” Cat nói, rồi thở dài.
Nó thấy nhớ Gwendolen thậm chí còn hơn cả hồi nó nhớ bà Sharp.
Janet cũng thở dài, nhưng là thở dài chọc tức. Nó ngồi phịch xuống trước bàn trang điểm và nhìn vào khuôn mặt bực bội của chính mình. Nó đẩy chiếc mũi lên và làm hai mắt lé. Nó vẫn làm như vậy trong những phút rảnh rỗi. Điều đó làm giảm bớt chút đỉnh những cảm xúc ghét bỏ của nó đối với Gwendolen.
Cat vẫn đang nghĩ ngợi.
“Em nghĩ đó là một ý kiến hay,” nó ủ rũ nói. “Tụi mình cứ đến khu vườn ấy đi. Nhưng em vẫn nghĩ phải có một dạng phép thuật nào đó mới đến được thế giới khác.”
“Thứ này thì tụi mình bí,” Janet nói. “Nó rất nguy hiểm, và dù sao thì tụi mình cũng không thể nào làm được. Thế nhưng sao họ đã truất phép thuật của Gwendolen mà chị ấy vẫn làm được? Bằng cách nào vậy nhỉ? Câu hỏi này làm chị bối rối thiệt đấy.”
“Em đoán là chị ấy đã dùng máu rồng,” Cat nói. “Chị ấy vẫn còn thứ đó. Thầy Saunders thì có một vại máu rồng ở trong phòng làm việc của thầy ấy.”
“Tại sao em không nói sớm?”
Janet la lên, quay phắt lại. Lúc này trông nó mới thực sự giống Gwendolen. Nhìn thấy khuôn mặt dữ dội của Janet, Cat thấy nhớ Gwendolen hơn bao giờ hết. Nó thấy oán Janet. Chị ấy cứ sai khiến nó suốt ngày. Rồi chị ấy lại tìm cách giải thích rằng tất cả đều do lỗi của Gwendolen. Cat bướng bỉnh nhún vai và nói một cách rất thiếu hợp tác.
“Tại chị có hỏi gì em đâu!”
“Nhưng em có thể lấy được máu rồng không?”
“Có thể. Nhưng…” Cat nói thêm, “Em thực sự không muốn đi đến thế giới khác.”
Janet hít một hơi thật khẽ, thật dài và cố không hét lên với Cat rằng nó cứ việc ở lại để rồi sau đó biến thành con ếch. Janet nhìn vào gương, cố tạo nên một khuôn mặt thật chân thành và đếm cho đến mười. Xong nó thận trọng nói.
“Cat, ở đây tụi mình thực sự rơi vào một mớ bòng bong mà chị không thấy được con đường nào khác để thoát ra. Em có thấy được như thế không?”
“Không,” Cat miễn cưỡng thừa nhận. “Thì em đã nói là em phải đi mà.”
“Và cảm ơn chị, Janet thân mến, vì đã có lòng mời em, em xin ghi nhận…”
Janet nhại theo Cat. Nó nhẹ nhõm hẵn khi thấy Cat nhoẻn cười.
“Nhưng tụi mình sẽ phải cẩn thận ghê gớm về chuyện trốn đi này,” Janet nói. “Bởi vì chị nghĩ rằng nếu như Chrestomanci không biết tụi mình làm gì thì bà Millie sẽ lại biết.”
“Bà Millie ấy hả?” Cat hỏi.
“Phải, bà Mille,” Janet nói. “Chị nghĩ bà ấy là một phù thủy.”
Nó cúi đầu xuống và chải tóc nhè nhẹ bằng chiếc lược bọc vàng.
“Chị biết em nghĩ chị đang luẩn quẩn, và cái đầu đa nghi xấu xa của chị đâu đâu cũng chỉ thấy trò phù thủy, giống như em đối với Chrestomanci, nhưng chị thực sự biết chắc, Cat ạ. Có thể bà Mille ấy là một loại phù thủy ngọt ngào, dễ mến, nếu như em muốn. Nhưng dù sao vẫn là một phù thủy. Nếu không thì bà ấy làm sao mà biết được vụ chị em mình bỏ trốn chiều hôm ấy?”
“Đó là vì bà Sharp đến và họ đi tìm tụi mình,” Cat bối rối nói.
“Nhưng tụi mình cũng chỉ mới đi có chừng một giờ thôi, và tụi mình hoàn toàn có thể chỉ là đi hái trái mâm xôi thôi mà. Thậm chí tụi mình chẳng mang theo quần áo để mặc ban đêm,” Janet trình bày. “Giờ thì em đã thấy ra chưa?”
Mặc dù Cat quả thực tin chắc rằng Janet có một nỗi ám ảnh về thuật phù thủy và mặc dù nó vẫn hờn dỗi và không muốn hợp tác, Cat vẫn không thể không thừa nhận rằng Janet cũng có cái lý của chị ấy.
“Thế thì bà ấy phải là một phù thủy rất tốt bụng,” nó thừa nhận. “Như vậy có sao đâu?”
“Nhưng, Cat này, em có thấy bà ấy sẽ gây trở ngại như thế nào không?” Janet hỏi. “Không thấy hả? Em biết không, lẽ ra tên em phải là Mule (con la) chứ không phải là Cat (con mèo). Nếu em không muốn biết một việc gì đó, thì em chả quan tâm. Làm cách nào người ta lại đặt tên em là Cat được vậy nhỉ?”
“Đó chỉ là Gwendolen gọi giỡn chơi,” Cat nói. “Chị ấy luôn nói rằng em có tới chín mạng sống.”
“Gwendolen mà cũng biết giỡn sao?” Janet ngờ vực hỏi. Nó khựng lại, ánh mắt ngưng đọng, rồi quay ngoắt khỏi chiếc gương.
“Không thường xuyên lắm,” Cat nói.
“Lạy trời! Chị ngạc nhiên quá đấy!” Janet nói. “Ở chốn này, nơi mà hóa ra thứ nào cũng bị yểm bùa, thì biết giỡn là rất cần thiết. Nhưng trong trường hợp đó thì chắc kinh dị lắm!”
Nó đẩy tấm gương xoay ngược lên cho đến khi mặt gương đối diện với trần nhà. Rồi nó chợt bật dậy khỏi ghế, lao tới chiếc tủ quần áo, lôi ra chiếc hộp của Gwendolen và hối hả lục lội bên trong đó.
“Ôi! Chỉ mong rằng mình bị lầm! Nhưng chị gần như chắc chắn rằng có tất cả là chín.”
“Chín gì cơ ạ?” Cat hỏi.
Janet đã tìm ra tập thư gửi cho cô Caroline Chant. Tập diêm màu đỏ được đính bên trên đó. Janet cẩn thận rút tập diêm nhỏ ra, rồi tống các lá thư trở vào hộp.
“Chín que diêm,” nó nói trong khi lật tập diêm. “Và có cả thẩy… Ối! Chúa ơi! Cat! Năm que diêm đã bị cháy. Coi nè.”
Nó chìa tập diêm cho Cat. Cat thấy quả thật có chín que diêm trong đó. Cái đầu của hai que diêm đầu tiên bị cháy đen. Que thứ ba bị cháy xuống đến sát gốc. Que thứ tư cũng lại có cái đầu cháy đen. Nhưng que thứ năm đã bốc cháy mãnh liệt đến mức phần giấy bìa lót phía sau cũng bị nám và có hẵn một lỗ thủng ở phần giấy nhám phía dưới. Đáng ngạc nhiên là tại sao cả tập diêm lại không bốc cháy – hay ít ra là bốn que diêm cuối cùng. Ngược lại, chúng trông như còn mới. Những đầu diêm còn màu đỏ sáng, với phần thân giấy trơn láng màu vàng nhạt ở dưới, và dưới nữa là phần bìa cứng màu trắng sáng.
“Trông cứ như là một món bùa ấy.” Cat nói.
“Chị biết nó là gì rồi,” Janet nói. “Đây là chín mạng sống của em, Cat ạ. Làm sao em lại bị mất đi quá nhiều mạng sống như vậy chớ?”
Cat đơn giản là không thể tin được Janet. Nó cảm thấy bực bội và muốn cãi lại, suy diễn như thế thì thật là quá đáng.
“Mấy que diêm đó sao là mạng của em được,” Cat nói
Cho dù nó từng có chín mạng đi nữa, nó biết cùng lắm nó cũng chỉ có thể mất ba mạng mà thôi, và đó là kể cả cái lần Gwendolen gây cho nó những cơn chuột rút. Hai lần kia có lẽ là khi nó sinh ra và khi nó đi trên con tàu guồng. Nhưng, khi nghĩ tới đó, Cat nhận ra rằng nó đang nhớ lại bốn con ma xuất hiện từ chiếc chảo lửa để tham gia vào đám rước rùng rợn của Gwendolen. Một con là em bé, một con ướt sũng. Con tàn tật thì trông như đang bị những cơn chuột rút. Nhưng tại sao chỉ có bốn con trong khi có đến năm que diêm bị đốt cháy?
Cat bắt đầu run lên, và điều đó làm cho nó càng quyết tâm phải chứng minh rằng Janet đã lầm.
“Em đâu thể nào chết một đến hai lần trong một đêm mà không hề hay biết?” Janet thắc mắc.
“Dĩ nhiên là em không chết.” Cat với tay chộp lấy tập diêm. “Chị coi nè, em sẽ chứng minh cho chị thấy.”
Nó bứt que diêm thứ sáu ra, quẹt lên phần giấy nhám.
Janet chồm tới, hét bảo nó dừng lại. Que diêm bùng lên.
Thế là, gần như cùng một lúc, Cat cũng bốc cháy.