Chương 15
Tác giả: Diana Wynne Jones
Đó là một ngày đầu thu rực rỡ, với mọi thứ trên đời đều xanh và vàng; nóng và yên lặng. Không có một sinh linh nào quanh đó, và không một âm thanh nhỏ bé nào, ngoài trừ duy nhất tiếng bước chân lạo xạo của Cat và Janet khi chúng bước vội qua khu vườn chính.
Đi được nửa đường tới vườn cây ăn trái, Janet nhận xét:
“Nếu như khu vườn mình muốn tới trông giống như phần lâu đài đổ nát, thì hiện giờ tụi mình đang dời xa nó.”
Cat có thể thề rằng chúng đã hướng thẳng đến khu vườn ấy, nhưng, điều khá chắc chắn là khi nó dừng lại và nhìn quanh những bức tường cao cũ kỹ ngập nắng đã ở ngay phía sau chúng. Trong khi đó, Cat nghĩ hoài và không thể nhớ ra ngày xưa của mình và Gwendolen đã tới đó bằng cách nào.
Hai đứa bèn quay trở lại và đi tới bức tường cao.
Nhưng tới nơi, chúng lại chỉ thấy một bức tường dài và thấp của vườn cây ăn trái. Không có cổng nào để vào đó, trong khi khu vườn cấm lại đang ở phía sau khu vườn này.
Hai đứa bèn đi dọc bức tường của vườn cây ăn trái, đến cánh cổng gần nhất. Ngay tức khắc, chúng lọt vào vườn hoa hồng, còn bức tường nát ngập nắng thì một lần nữa đã ở lại phía sau chúng, lừng lững phía bên trên vườn cây ăn trái.
“Chắc đây là một đạo bùa để ngăn người ta vào trong khu vườn cấm, đúng không?”
Janet nói khi chúng lại hì hục đi qua vườn cây ăn trái nữa.
“Em nghĩ chắc là vậy,” Cat nói.
Và một lần nữa hai đứa lại rơi vào khu vườn chính, với bức tường đổ nát ngập nắng của khu vườn cấm vẫn ở phía sau chúng.
“Cứ kiểu này thì có khi họ đi lễ về tụi mình vẫn chưa lần ra khu vườn cấm,” Janet lo lắng nói.
“Mình chỉ nhìn nó me mé và không tiến thẳng đến nó thử coi sao,” Cat đề nghị.
Chúng làm như thế, bước chênh chếch về phía hướng khu vườn cấm mà không nhìn thẳng vào nó. Khu vườn có vẻ giữ cự ly với chúng. Rồi bất thình lình, chẳng hiểu bằng cách nào mà chúng đã ra tới được phía sau vườn cây ăn trái, và bước vào một lối đi ngược dốc, có tường rào. Ở tuốt cùng trên cao của lối đi dốc là lừng lững bức tường cao cũ kỹ, với những bậc thang phủ đầy những cây thục quỳ và những bông hoa mõm chó rực đỏ, phả hơi ấm lên hai khuôn mặt lo lắng của Cat và Janet từ khối đá chênh vênh. Không đứa nào dám nhìn thẳng vào bức tường đổ nát cao ngút, mặc dù chúng vẫn hối hả chạy lên lối đi dốc. Khi hai đứa đến nơi thì bức tường vẫn ở nguyên đó, và cả chiếc thang đầy cỏ dại cũng thế.
Leo thang là cả một sự tra tấn thần kinh. Hai đứa phải trèo lên một chiều cao bằng gấp đôi căn nhà, nép mình vào những phiến đá nóng ran của bờ tường, trong khi mé bên trên kia lại là một bờ vực thẳng đứng. Những bậc thang cũ kỹ và lổn nhổn đến phát sợ và cứ mỗi lúc mỗi nóng hơn. Gần đến cuối, Cat phải giữ cho cái đầu của nó luôn luôn hướng lên những ngọn cây lơ lửng bên trên bờ tường nát, bởi lẽ bất cứ nơi nào khác cũng làm nó chóng mặt. Từ đây, Cat có thể nhìn thấy tòa lâu đài ở xa xa, với nhiều góc độ mà nó không ngờ. Và nó ngờ rằng bức tường đổ nát mà nó đang đứng đây hình như đang di chuyển.
Trên đỉnh bức tường có một khe hẹp, trông không có vẻ gì là một lối ra vào. Cat và Janet đu người chui vào đó, có vẻ bí mật và tội lỗi, và nhận thấy nền đất ở ngay phía sau khe mòn bị láng, như thể đã có người chui qua chui lại cái lối này từ hàng nhiều thế kỷ qua.
Có những cái cây lớn, âm u, mọc san sát nhau. Thật là dễ chịu đến tuyệt vời. Lối đi mòn láng ngoằn ngoèo dưới chân chúng. Janet và Cat rón rén đi theo lối đi đó. Khi chúng bước đi, những thân cây to cũng như chuyển động theo, tách ra những khoảng cách khác nhau, hệt như khi chúng đi giữa đồng cỏ và cỏ dạt sang hai bên. Nhưng Cat lại nghi ngờ đó chỉ là ảo giác.
Thế rồi một khoảng giãn bỗng mở ra một lũng nhỏ. Và chúng lọt vào trong lũng.
“Thật là hết xảy cái chỗ này!” Janet thì thào. “Nhưng sao nó kỳ quá.
Con dốc nhỏ phủ đầy hoa xuân. Thủy tiên vàng, hoa giọt tuyết, lan dạ hương và những bông uất kim cương be bé của tháng chín mọc bạt ngàn đến mức khó tin. Trong lũng hơi se lạnh, và đó cũng có thể là nguyên nhân của sự bạt ngàn nói trên. Janet và Cat cẩn trọng đi giữa những bông hoa, hơi run run vì lạnh. Hương vị mùa xuân phảng phất, mát rượi và say nồng, sạch sẽ và hoang dã, nhưng đậm đặc hơi hám phép thuật. Mới đi được hai bước, Cat và Janet còn cười nhè nhẹ. Thêm một bước nữa, chúng đã cười khanh khách.
“Ồ nhìn kìa!” Janet nói. “Một con mèo”.
Đó là một con mèo vằn vện. Nó đứng lom khom vẻ nghi hoặc bên cạnh một bụi anh thảo, có vẻ đang lưỡng lự không biết mình có nên chạy hay không. Nó nhìn Janet. Nó nhìn Cat. Và Cat nhận ra nó. Dù đây chắc chắn và dứt khoát là một con mèo, nhưng dáng mặt nó làm người ta nghĩ ngay đến một cây đàn vĩ cầm. Cat bật cười. Mọi thứ ở đây làm nó sảng khoái quá.
“Con mèo già Vĩ Cầm mà,” nó nói. “Nó từ cây đàn vĩ cầm của em hóa ra đó. Nó làm gì ở đây vậy ta?”
Janet quỳ xuống, xòe bàn tay ra.
“Lại đây, Vĩ Cầm. Lại đây, meo meo.”
Tính cách của Vĩ Cầm hẳn đã dịu bớt nhờ sống trong cái lũng này. Nó để mặc cho Janet cạ cạ tay vào cằm và vỗ vỗ lên đầu nó. Rồi, không thể nào tin nổi, nó để cho Janet bế nó đứng lên và ôm vào lòng. Nó thậm chí còn rên gừ gừ. Khuôn mặt Janet rạng rỡ hẳn. Trông nó chẳng khác gì Gwendolen mỗi khi trở về nhà từ các buổi học phép thuật, có điều là nét mặt con bé hiền hòa hơn. Nó nháy mắt với Cat.
“Chị thích tất cả mọi loại Cat.”(1)
Cat cười lớn. Nó thò tay trái ra, vỗ vỗ lên đầu con Vĩ Cầm. Cảm giác của nó thật kỳ lạ. Nó cảm thấy như chạm vào phần gỗ của cây đàn vĩ cầm. Nó rụt tay lại thật nhanh.
Chúng đi tiếp qua một vùng rộng lớn, trắng muốt hoa thủy tiên tỏa hương thơm tựa như ở thiên đường, Janet vẫn bế theo Vĩ Cầm. Cho đến lúc đó vẫn không hề thấy những bông hoa trắng xuất hiện. Cat bắt đầu cảm thấy gần như chắc chắn rằng khu vườn đang tự xoay quanh chúng. Rồi khi Cat bước giữa những bông hoa chuông lá tròn, và sau đó là những bông uất kim cương lớn đỏ, thì nó tin điều này là hoàn toàn chắc chắn. Nó gần như nhìn thấy – tuy không hoàn toàn rõ ràng lắm – những thân cây đang nhẹ nhàng, êm ả trượt dọc theo bốn bên. Chúng trượt đi, đưa nó qua những bông mao lương vàng và những luống mùi tây, ra đến một khoảng rộng dông dốc và ngập nắng. Và nơi đây có những bông hồng dại vươn dây leo phủ lên những bông hoa hớn màu xanh. Giờ đây Cat đã cảm nhận rõ rành rành cái chuyển động trượt đó. Và cả hai đứa nó, không hiểu bằng cách nào, mà đang bị di chuyển vòng vòng và xoáy xuống dưới. Cat bắt đầu thấy buồn nôn chẳng kém gì khi nó ngồi trên xe. Nó nghĩ thà cứ để nó tiếp tục đi bộ và nhìn thì tốt hơn biết bao.
Khi chúng vượt qua đám cây cối, lướt đi giữa những bông hoa giữa độ hè, thì Janet cũng bắt đầu nhận ra điều đó.
“Hai đứa mình đang được đưa đi dạo một vòng chớp nhoáng xuyên bốn mùa hay sao vậy? nó nói. “Chị thấy y như đang chạy xuống một chiếc cầu thang cuốn…”
Nhưng hoàn toàn không phải là bốn mùa theo cách bình thường. Những cây sung, cây ô-liu và cây dừa già đưa chúng đi một vòng ra một sa mạc nhỏ, nơi có những cây xương rồng trông như những trái dưa chuột oặt oẹo và những chiếc ghế bành màu xanh lục đầy gai. Một số cây còn lại đeo những bông hoa rực rỡ. Mặt trời như đổ lửa. Nhưng hai đứa chưa kịp thấy khó chịu thì đám cây cối lại tiếp tục xoay quanh chúng, đưa chúng đến một vùng nhiều ánh sáng hơn mà buồn tẻ hơn, cùng với những bông hoa của mùa thu. Chúng vừa mới kịp quen thuộc với nơi này thì cây cối lại mở ra tiếp những quả mọng đang chuyển màu hổ phách và rụng lá. Chúng tiến đến một cây nhựa ruồi lớn, đầy những quả mọng đỏ. Không khí ở đây lạnh hơn. Vĩ Cầm không ưa nơi này. Nó vùng ra khỏi vòng tay của Janet và chạy đến những miền khí hậu ấm áp hơn.
“Cổng nào đi ra các thế giới khác đây?” Janet nói, chợt nhớ ra mục đích khiến tụi nó tới đây.
“Em nghĩ là sắp tới rồi,” Cat nói.
Nó cảm thấy chúng đang tiến vào trung tâm của khu vườn. Ít khi nào nó có được linh cảm về phép thuật mạnh mẽ như thế này.
Đám cây cối và bụi rậm quanh chúng giờ đây như bị ướp trong sương giá. Chúng nhìn thấy những quả mọng rực rỡ được bao trong những khối băng con sáng lóa trên cây. Tuy nhiên Janet chỉ mới vừa kịp run run, chà xát hai cánh tay vươn tới một ngọn cây, thì đã xuất hiện ngay trước mắt một khối đông giá những bông hoa màu hồng. Những cuống hoa nhài mùa đông thẳng đứng, vươn cao, xếp ngay hàng với những luống hoa sao nhỏ vàng vàng. Và rồi xuất hiện một thân cây hùng vĩ có gai đen, xoắn xít theo đủ mọi hướng. Nó vừa nhú ra một vài chiếc nụ trắng.
Khi hai đứa bước vào tán cây âm u của cái cây đó, Janet ngước nhìn lên những cành xoắn tít.
“Cây ở Glastonbury trông cũng giống như cây này,” nó nói. “Người ta bảo nó chỉ trổ hoa vào dịp Giáng sinh.”
Cat chợt hiểu ra chúng đã ở ngay tâm của khu vườn. Chúng đang ở trong lòng chén nho nhỏ của một bãi đất trũng. Tất cả cây cối đều ở phía trên, xung quanh miệng chén, chỉ trừ có một cây duy nhất ở chính giữa. Và đây mới có vẻ chính xác là mùa trong năm, bởi lẽ những trái táo chỉ vừa chín tới trên ngọn cây duy nhất này. Cái cây nghiêng nghiêng đứng giữa tâm bãi đất trũng, đổ bóng lên cái bãi hoang tàn đổ nát này.
Khi Janet và Cat lặng lẽ đi tới chỗ một cái cây, chúng thấy có một mạch nước nhỏ gần rễ cây táo. Mạch nước như sùng sùng tràn lên từ hư vô rồi sùng sùng biến vào lòng đất hầu như ngay tức khắc. Janet nghĩ con suối trong này trông ánh vàng một cách khác thường quá. Điều này làm nó nhớ đến dòng nước từ vòi tắm hồi chữa cháy cho Cat.
Hai bên một cái vòm nứt nẻ là những di tích đổ nát. Có một phiến đá có vẻ rơi xuống từ đỉnh vòm, nằm gần gốc cây. Không có một vết tích nào khác của một cánh cổng.
“Em nghĩ là nó đấy,” Cat nói.
Nó cảm thấy buồn khi sắp phải ra đi.
“Chị cũng nghĩ thế,” Janet nói bằng giọng sợ sệt, nghèn nghẹt. “Chuyện ra đi này làm chị thấy rầu quá. Tụi mình đi bằng cách nào đây?”
“Để em thử rắc một rúm máu rồng vào cổng vòm coi sao,” Cat nói.
Nó rút ra từ trong túi chiếc hũ bọc trong khăn tay. Nó ngửi thấy mùi hôi của máu rồng và hiểu rằng nó đang làm điều sai quấy. Sai quấy khi mang món vật tác hại này đến một nơi mạnh về phép thuật đến như thế, theo một cách khác thường đến như thế.
Nhưng, do không biết phải làm gì khác hơn, nên Cat đành thận trọng dùng ngón trỏ và ngón cái bàn tay mặt bốc một dúm bột nâu nặng mùi. Nó gói chiếc hũ trở lại bằng bàn tay trái. Với vẻ thận trọng và tội lỗi, nó rắc chỗ bột ấy giữa những cột đá nứt nẻ.
Không khí giữa các cây cột đột nhiên trở nên lung linh giống như khi được nung nóng. Phần bãi đất trũng ngập nắng mà chúng thấy bỗng trở nên mờ ảo, rồi nhờn nhợt trắng đục, rồi tối đen. Bóng tối tan đi chậm chạp, lui ra các góc của không gian, và chúng chợt nhận thấy trước mặt là cả một căn phòng khổng lồ, trông rộng dễ đến cả hécta. Toàn bộ căn phòng được phủ một tấm thảm như những lá bài tây khá xấu xí, với ba màu đỏ, xanh và vàng. Phòng đầy nghịt người, trông cũng như những con bài tây, bởi lẽ họ mặc những bộ đồ chật cứng, kềnh càng, toàn là những màu sắc tẻ nhạt. Tất cả bọn đang đi đi lại lại, hướng này hay hướng nọ, bộ dạng trông quan trọng và kích động. Không khí giữa họ và khu vườn vẫn lung linh, và tự nhiên Cat có cảm giác rằng hai đứa nó không thể nào vào được căn phòng khổng lồ đó.
“Không ổn rồi,” Janet nói. “Đây là đâu?”
Cat vừa định nó nó chả biết gì cả thì bất chợt nhìn thấy Gwendolen. Con bé đang được kiệu ngang qua, rất gần, trên một cái giống như giường nhưng có tay nắm. Tám người kiệu chiếc giường đó mặc những bộ đồng phục màu trắng và vàng kềnh càng. Chiếc giường bằng vàng, với trướng bằng vàng và các gối cũng bằng vàng. Gwendolen mặc một bộ đồ thậm chí còn kềnh càng hơn những người khênh giường, và tóc của con bé được vấn cao lên bằng một bộ trùm đầu trông như một vương miện.
Cứ nhìn cung cách của Gwendolen thì con bé chắc chắn là một nữ hoàng. Gwendolen gật đầu với vài nhân vật quan trọng và họ háo hức nhảy ngay đến cạnh giường của nó để lắng nghe những gì nó nói với vẻ sốt sắng am hiểu. Nó phất tay với vài người khác, và họ liền chạy đi thi hành. Nó ra dấu với một người nữa và ông ta lập tức quỳ gối xuống, như thể van xin nó tha thứ. Ông ta còn đang van nài thì một người khác nữa đến lôi ông ta đi. Gwendolen mỉm cười như thể điều đó làm cho nó thích thú. Vào lúc đó, chiếc giường vàng đã ở ngay cạnh chiếc cổng vòm, và không gian như náo loạn bởi những người chạy tới chạy lui để làm những việc mà Gwendolen muốn.
Thế rồi Gwendolen trông thấy Cat và Janet. Qua biểu hiện ngạc nhiên và hơi khó chịu trên khuôn mặt Gwendolen, Cat biết con bé đã thấy chúng. Có thể Gwendolen đã làm một phép thuật nào đó, hay cũng có thể đơn giản là phép thuật của máu rồng đã phát huy hiệu lực, chỉ biết rằng chiếc cổng vòm nứt nẻ bỗng lại tối mịt trở lại, rồi chuyển màu trắng đục, rồi chuyển tiếp màn sương. Cuối cùng, chẳng còn lại gì ngoài bãi đất trũng với mấy cây cột, và không khí cũng không còn lung linh nữa.
“Đó là Gwendolen đấy,” Cat nói.
“Chị cũng mới nghĩ thế,” Janet nói, vẻ không ưa. “Chị ấy sẽ mập ù ra nếu cứ để họ kiệu đi như thế suốt cả ngày.”
“Chị ấy đang sung sướng,” Cat buồn bã nói.
“Chị thấy rồi,” Janet nói. “Nhưng tụi mình làm sao tìm ra đường về thế giới của chị đây?”
“Hay là tụi mình thử đi vòng ra phía bên kia cánh cổng vòm coi sao?” Cat nói với vẻ không chắc lắm.
“Nghe có lý đấy,” Janet tán đồng.
Nó dợm bước, toan đánh vòng qua mấy cây cột, nhưng bất chợt khựng lại.
“Lần này tụi mình phải xác định cho đúng, Cat ạ. Em chỉ có thể thử một lần này nữa mà thôi. Tại mình không biết lần thử vừa rồi có làm em bị mất mạng nào không?”
“Em không cảm thấy gì cả…” Cat nói.
Thế rồi lão Nostrum đột ngột xuất hiện trong chiếc cổng vòm nứt nẻ. Lão ta đang cầm tấm bưu thiếp mà Cat gửi cho bà Sharp. Trông lão ta có vẻ cáu kỉnh và bức xúc.
“Bạn nhỏ thân mến của ta,” lão nói với Cat, “Ta đã bảo cháu là hai giờ rưỡi kia mà, có phải là giữa trưa đâu. May mắn tay vẫn còn nắm trong tay chữ ký của cháu. Hy vọng rằng mọi sự chưa hỏng hết.”
Lão ta quay lại, gọi ai đó sau lưng, như là hét vào bãi đất trũng trống trơn:
“Lại đây đi, anh William. Cậu bé đáng ghét này hình như đã hiểu sai em rồi, nhưng món bùa rõ ràng là có tác dụng. Đừng quên mang theo… ơ… cái thiết bị ấy nhé.”
Lão ta bước ra từ giữa những cây cột, và Cat đã lùi lại từ trước. Mọi thứ có vẻ như biến mất một cách êm ả. Những chiếc lá của cây táo không hề bị xáo động, và dòng suối nhỏ đang từ chỗ kẽ sùng sục bỗng chỉ còn rỉ ra chầm chậm. Cat tự nhiên nghi ngờ rằng nó và Janet đã làm một việc gì đó cực kỳ khủng khiếp. Janet đang đứng phía sau chiếc cổng vòm, hai tay bưng lấy miệng, vẻ hãi hùng. Và bất chợt thân hình to lớn của lão William Nostrum lừ lừ không biết từ đâu bỗng hiện lên giữa hai cây cột, che khuất mắt nó. Lão ta mang theo một cuộn dây thừng cuốn trên một cánh tay, và trong túi áo choàng của lão thòi ra những vật sáng bóng. Cặp mắt lão đảo liên hồi với vẻ kích động. Lão thở hơi gấp.
Lão William Nostrum khệ nệ bước ra ngoài, đứng dưới gốc táo cạnh người em mình. Mặt đất hơi rung lên. Khu vườn rất im ắng. Cat lùi lại nữa và nhận thấy dòng suối nhỏ đã ngừng chảy. Chẳng có gì còn lại, ngoài một lỗ nhơm nhớp bùn. Giờ thì Cat biết chắc chắn rằng nó và Janet đã làm việc gì đó rất khủng khiếp.
Phía sau hai anh em lão Nostrum, những người khác hối hả xông ra từ chiếc cổng vòm nứt nẻ. Người đầu tiên đi tới là một trong những Phù thủy được chứng nhận ở phố Coven, với khuôn mặt tím ngắt, trông có vẻ rất bàng hoàng. Bà ta vừa đi lễ về trong bộ đồ chủ nhật đẹp nhất: một chiếc nón quái đản có hoa quả gắn bên trên, và một bộ váy bằng vải xa-tanh đen và đỏ. Hầu hết những người theo sau bà cũng đều diện những bộ đồ chủ nhật đẹp nhất: mấy pháp sư mặc đồ bằng vải xéc và đội nón cứng, đám phù thủy mặc những bộ đồ bằng lụa và bằng vải chéo go với những chiếc nón đủ mọi hình thù, kích cỡ, bọn thầy đồng mặc áo choàng giống như lão William Nostrum, các thầy phép ốm yếu mặc đồ đen, và lác đác có những đại phù thủy mặc áo khoác ngoài như để đi lễ hay mặc quần chơi gôn.
Họ kéo đến đông nghẹt giữa hai cây cột, thoạt tiên là từng hai hay ba người một, rồi sau đó là từng nhóm sáu bảy người, tất thảy đều trông hơi vội vã và bàng hoàng. Trong số họ, Cat nhận ra phần lớn các phù thủy và thầy bói ở phố Coven, mặc dù nó không thấy bà Sharp lẫn cô Larkins – nhưng điều này có thể nói chỉ đơn giản là do nó chưa kịp nhìn gì cả thì đã bị xô đẩy hết bên này sang bên nọ giữa đám người đông đúc và liên tục gia tăng.
Lão William Nostrum hét gọi từng nhóm người đang vội vã đi ngang:
“Tản ra đi, lên bớt bãi đất trũng đi! Vây lấy cánh cổng ở đó! Không được để lối nào cho nó thoát!”
Janet len lỏi giữa đám đông, chộp lấy cánh tay Cat.
“Cat! Tụi mình đã làm gì vậy? Tất cả đám này không phải là phù thủy và pháp sư đấy chứ?”
“A! Gwendolen thân mến của ta!” Lão Henry Nostrum thốt lên. “Kế hoạch Hai đang tiến hành đấy.”
Đúng vào lúc đó, những bờ dốc của bãi đất trũng đã chật kín phù thủy và pháp sư. Mặt đất rung lên do bước chân của họ và không gian rì rầm những lời trò chuyện rôm rả. Họ có đến hàng trăm người, tạo thành một tụ điểm của những chiếc nón lòe loẹt và những mũ chóp cao bóng lộn, giống như các khán giả trong buổi khai mạc một phiên chợ.
Vừa khi một thầy đồng cuối cùng xông vội ra từ giữa các cây cột, lão Henry Nostrum đặt một bàn tay nặng trịch của mình lên vai Cat. Cat khó chịu tự hỏi, liệu có phải là do tình cờ mà cũng chính bàn tay đó đã từng cầm tấm bưu thiếp mà nó gửi cho bà Sharp hay không. Nó thấy Pháp sư Thiện chí, trong bộ đồ chủ nhật bó sát, đứng kế một trong những cây cột nứt nẻ, trông rạng rỡ như mọi khi với chiếc cằm xanh xanh những chân râu. Lão William Nostrum nép mình tối đa phía sau chiếc cột bên kia, và, không hiểu vì sao, lão ta lại rút ra sợi dây chuyền – đồng hồ bằng bạc và cầm một tay huơ huơ nó.
“Giờ thì, Gwendolen thân mến của ta,” lão Henry Nostrum nói, “cháu có muốn được vinh dự triệu tập Chrestomanci không nào?”
“Cháu… Chắc là không đâu ạ,”Janet nói.
“Thế thì ta sẽ đích thân làm việc đó,” lão Henry Nostrum nói, vẻ vô cùng hể hả. Lão đằng hắng rồi hét lên bằng một giọng nam cao the thé: “Chrestomanci! Chrestomanci! Hãy đến đây gặp ta!”
Ngay lập tức, Chrestomanci xuất hiện giữa hai cây cột.
Chrestomanci hẳn là đang trên đường trở về từ Nhà thờ. Một tay ông cầm chiếc nón cao màu xám, tay kia đang làm động tác nhét cuốn sách kinh vào trong túi của bộ đồ đẹp màu xám trang nhã. Đám phù thủy và thầy đồng đón tiếp ông bằng một dạng âm thanh rền rĩ. Chrestomanci nhìn quanh quất bọn họ với vẻ hòa nhã và bối rối nhất của ông. Ông trở nên thậm chí còn ngơ ngác và bối rối hơn nữa khi nhận ra Cat và Janet có mặt trong đám.
Cat há miệng để hét gọi cho Chrestomanci chạy đi. Nhưng Pháp sư Thiện chí đã chồm lên Chrestomanci ngay lúc ông vừa xuất hiện. Gã Pháp sư đang giận dữ. Những móng tay của hắn mọc dài thành những chiếc vuốt và răng hắn biến tất cả thành nanh.
Chrestomanci nhét nốt cuốn sách kinh vào túi rồi hướng ánh mắt ngơ ngác vào Pháp sư Thiện chí. Pháp sư Thiện chí chợt bất động trên không và co rúm lại. Hắn co rút nhanh đến mức phát ra một âm thanh vo vo. Và rồi hắn trở thành một con ấu trùng bướm màu nâu nhỏ xíu. Hắn rơi xuống cỏ và ngoe ngẩy ở đó. Nhưng, trong khi hắn đang tiếp tục co rút, lão William Nostrum xông ra từ phía sau cây cột bên kia, khéo léo quấn nhanh sợi dây chuyền – đồng hồ quanh cánh tay mặt của Chrestomanci.
“Coi chừng đằng sau!”
Cat và Janet hét lên, nhưng đã quá muộn.
Chỉ sau có một lần ngo ngoe, con ấu trùng bướm đã lớn phổng lên từ bãi cỏ, trở lại thành Pháp sư Thiện chí, có phần hơi xốc xếch, nhưng rất hài lòng về bản thân. Hắn lại chồm tới Chrestomanci. Về phần Chrestomanci, rõ ràng là sợi dây chuyền – đồng hồ bằng một cách nào đó đã hoàn toàn vô hiệu hóa được ông. Khoảng chừng một giây đấu tranh dữ dội đã diễn ra trong cổng vòm, khi gã Pháp sư Thiện chí cố gắng tóm lấy Chrestomanci bằng cả hai cánh tay lực lưỡng, Chrestomanci thì cố dùng tay trái gỡ sợi dây chuyền – đồng hồ khỏi cổ tay phải, còn lão William Nostrum cố níu giữ bàn tay này lại một cách hung hãn. Không ai trong họ dùng phép thuật, và Chrestomanci xem ra chỉ có khả năng hích vai Pháp sư Thiện chí, yếu ớt đẩy hắn sang một bên. Sau hai nỗ lực, Pháp sư Thiện chí bẻ quặt được hai cánh tay Chrestomanci ra phía sau, còn lão William Nostrum rút ra từ trong túi một cặp còng khóa bạc, khóa nó đánh cách một cái quanh hai cổ tay của Chrestomanci.
Một tiếng reo hò đắc thắng vang lên phía trên những chiếc nón gật gù của đám khán giả - một tiếng reo hò thực sự ma quái, làm cho ánh mặt trời cũng run rẩy. Chrestomanci, thậm chí còn xộc xệch hơn cả Pháp sư Thiện chí, bị lôi ra từ vị trí giữa mấy cái cột. Chiếc nón xám cao cao của ông lăn đến gần chân Cat, và lão Henry Nostrum dậm lên nó với một vẻ hả hê cao độ. Cat định vùng ra khỏi bàn tay lão Henry Nostrum lúc lão ta mải lo đạp chiếc nón. Nhưng nó chợt thấy nó không thể cử động được. Lão Nostrum đã trù liệu chuyện này bằng chiếc bưu thiếp của bà Sharp. Cat phải đối diện với thực tế là nó cũng bất lực chẳng khác gì Chrestomanci.
“Hóa ra là đúng!”
Lão Henry Nostrum hoan hỉ nói trong khi Pháp sư Thiện chí xô Chrestomanci về phía cây táo.
“Sự tiếp xúc với bạc đã khuất phục được Chrestomanci – Chrestomanci vĩ đại thế đấy!”
“Phải. Điều đó có làm phiền gì tới ai không?”Chrestomanci bình luận.
Ông bị lôi tới cây táo và ép sát vào đó. Lão William Nostrum bước vội đến chỗ người em của mình, rút sợi dây chuyền – đồng hồ từ chiếc áo chẽn kềnh càng của lão Henry ra. Hai sợi dây chuyền – đồng hồ của hai anh em phì nộn như thế là quá đủ để trói Chrestomanci vào cây táo. Lão William Nostrum vội vã xoắn hai đầu sợi dây chuyền, tạo thành hai chiếc nút được yểm bùa, rồi lùi lại xoa xoa hai bàn tay. Từ đám khán giả tuôn ra những giọng cười và những tiếng vỗ tay ma quái. Chrestomanci trùng xuống như thể ông đã quá mệt mỏi. Tóc của ông lòa xòa trên khuôn mặt, cà-vạt của ông vắt vẻo dưới tay trái, và bộ đồ màu xám nhã nhặn của ông bết một màu xanh xanh của vỏ cây. Cat cảm thấy có gì đó xấu hổ khi phải nhìn ông trong tình trạng này. Nhưng Chrestomanci vẫn có vẻ rất tao nhã.
“Giờ thì các người đã trói được ta hoàn toàn bằng dây bạc rồi đó, các người định làm gì ta nào?” ông nói.
Cặp mắt của lão William Nostrum loáng lên, thích thú.
“Ồ, điều tồi tệ nhất chúng tôi có thể làm thì chúng tôi sẽ làm thôi, ngài thân mến của tôi ạ,” lão nói. “Hãy an tâm chuyện đó đi. Chúng tôi đã chán ngấy việc ngài áp đặt những hạn chế lên chúng tôi, ngài thấy đấy. Tại sao chúng tôi không thể ra đi, chinh phục các thế giới khác? Tại sao chúng tôi không được dùng máu rồng? Tại sao chúng tôi không thể xấu xa như chúng tôi muốn? Trả lời tôi đi, thưa ngài!”
“Các người có thể tự tìm câu trả lời nếu các người chịu khó suy nghĩ.”
Chrestomanci nói. Nhưng giọng nói của ông đã bị chìm nghỉm giữa tiếng la hét của đám phù thủy và thầy đồng. Trong khi họ hò hét, Janet mon men đến cây táo. Nó nghĩ Cat không dám cục cựa do bị bàn tay lão Henry Nostrum đè lên vai, và nó cảm thấy phải có ai đó làm việc này.
“Ồ, phải rồi,” lão Henry Nostrum nói, rạng rỡ vì khoái trá. “Chúng ta đang nói về những nghệ thuật phù phép mà từ nay sẽ nằm trong tay bọn ta. Thế giới này sẽ là của bọn ta kể từ đêm nay. Khi Lễ hội Ma tới, thưa ngài thân mến, chúng ta sẽ ra đi chinh phục mọi thế giới mà chúng ta biết. Chúng ta sắp hủy diện ngài rồi đấy, ông bạn thân mến ạ, và cả các quyền năng của ngài nữa. Nhưng trước khi chúng ta làm điều đó, dĩ nhiên chúng ta phải hủy hoại khu vườn này cái đã.”
Chrestomanci trầm ngâm nhìn xuống hai cánh tay xuội lơ trong cặp còng bằng bạc.
“Ta nghĩ các người không nên làm điều đó đâu,” ông nói. “Khu vườn này có những thứ từ buổi bình minh của tất cả các thế giới. Nó mạnh hơn ta rất nhiều. Các ngươi sẽ phải đánh vào tận gốc rễ của pháp thuật – và các ngươi sẽ thấy rằng nó khó bị hủy hoại một cách đáng kinh ngạc.”
“A,” lão Henry Nostrum thốt lên. “Nhưng, ngài quỷ quyệt của tôi ơi, chúng ta biết chúng ta chỉ có thể hủy diệt được ngài chừng nào chúng ta hủy diệt được khu vườn. Và chớ có tưởng lầm rằng chúng ta không biết cách hủy hoại khu vườn này.”
Rồi lão ta nhấc bàn tay còn lại lên, vỗ vào vai bên kia của Cat.
“Phương tiện chính là đây.”
Đúng lúc đó, Janet vấp phải phiến đá nằm trên cỏ, gần chỗ cây táo.
“Chết tiệt!”
Nó kêu lên và ngã ngoài qua phiến đá. Đám khán giả chỉ chỏ, la hét và cười cợt, làm nó giận kinh khủng. Nó nhìn quanh một vòng cả cái đám áo xống, mũ mãng ngày Chủ nhật ấy.
“Đứng dậy đi, Gwendolen thân mến,” lão Henry Nostrum hân hoan nói. “Giờ là tới phiên bạn nhỏ Cat ra tay rồi đây.”
Lão ta quàng tay qua cậu bé Cat bất lực, nhấc nó khỏi mặt đất và bế nó lại phiến đá. Lão William Nostrum rạng rỡ hẳn lên, tháo cuộn dây thừng của mình ra. Pháp sư Thiện chí cũng nhào tới, đầy thiện chí giúp đỡ.
Cat hoảng sợ đến mức, cuối cùng, không biết bằng cách nào đó mà nó đã xoay xở phá vỡ được món bùa. Nó vùng ra khỏi hai tay của lão Henry Nostrum, chạy chối chết về phía hai cây cột, vừa chạy vừa cố rải nốt chỗ máu rồng của mình ra. Chỉ vài bước chân nữa là thoát. Nhưng dĩ nhiên, tất cả bọn phù thủy, pháp sư, thầy đồng và đại phù thủy ở đó lập tức niệm thần chú. Mùi phép thuật nồng nặc cuồn cuộn khắp xung quanh bãi đất trống. Hai chân Cat bỗng nặng trịch như hai chiếc cột bằng chì. Trái tim nó đập thình thịch. Nó cảm thấy tự nhiên mình chạy chậm, chậm dần rồi chậm dần, giống như một món đồ chơi dây cót sắp hết cót. Nó nghe tiếng Janet gọi nó chạy đi, nhưng nó không thể nào chuyển động được nữa. Nó khựng lại ngay trước chiếc cổng vòm mục nát và người nó cứng đơ ra như khúc gỗ. Nó chỉ còn thở được mà thôi.
Hai anh em lão Nostrum và gã Pháp sư Thiện chí chặn đó nó lại rồi quấn sợi dây thừng quanh cơ thể cứng đờ của nó. Janet cố hết sức ngăn họ lại.
“Ôi, làm ơn dừng lại đi! Các ông làm gì vậy?”
“Nào, nào, Gwendolen,” lão Henry Nostrum nói, vẻ phật ý. “Cháu biết quá rõ rồi còn gì. Ta đã giải thích cho cháu một cách chi li nhất rằng khu vườn này phải được giải bùa bằng cách cắt cổ một đứa bé vô tội trên phiến đá đó. Cháu đã chẳng đồng ý phải như thế rồi mà.”
“Cháu không đồng ý! Đó không phải ý kiến của cháu!” Janet nói.
“Bình tĩnh đi!” Chrestomanci nói vọng tới từ cây táo. “Con có muốn bị thay vào vị trí của Cat không vậy?”
Janet nhìn ông, rồi cứ thế mà há hốc miệng nhìn, khi đã hiểu ra và bị sốc vì ý nghĩa của câu nói ấy. Trong khi nó nhìn thì Cat, cứng đờ như một xác ướp và cuốn trong dây thừng, bị Pháp sư Thiện chí bê đi và quẳng khá mạnh xuống phiến đá. Cat căm giận nhìn Pháp sư Thiện chí. Thế mà trước đây hắn luôn có vẻ thân thiện. Ngoài chuyện đó ra, Cat không hoảng sợ như đúng ra nó phải đã hoảng sợ. Dĩ nhiên Gwendolen đã biết là nó có những mạng sống để dành. Nhưng nó vẫn hy vọng rằng cổ của nó sẽ chóng lành sau khi bị bọn kia cắt. Nó đã sẵn sàng cho một tình trạng cực kỳ không thoải mái cho đến khi mọi việc hoàn tất. Nó đảo mắt nhìn lên Janet, mục đích là gửi đến con bé một cái nhìn trấn an.
Nhưng trước sự sửng sốt của Cat, Janet bị kéo tuột ra sau, hút vào hư không. Thứ duy nhất còn lại thuộc về Janet là một tiếng kêu kinh ngạc. Tiếng kêu kinh ngạc đó vọng lên bốn bề xung quanh bãi đất trũng. Mọi người ở đó cũng sửng sốt chẳng kém gì Cat.
“Ồ, tốt lắm!” Gwendolen nói từ mé bên kia phiến đá. “Ta đã đến đúng lúc.”
Mọi người dán mắt vào nó. Gwendolen đến từ giữa hai chiếc cột, phủi máu rồng trên những ngón tay của nó bằng những tờ luận của Cat ở lớp học. Cat có thể nhìn thấy chữ viết của mình ở đầu một bài luận: Eric Emelius Chant, 26 đường Coven, thị trấn Wolvercote, nước Anh, Châu Âu, Thế giới, Hoàn vũ – đúng là chữ viết của nó. Gwendolen vẫn giữ mái tóc vấn lên trong bộ trùm đầu kỳ lạ, nhưng nó đã cởi bỏ bộ váy vàng đồ sộ. Nó đang mặc một bộ đồ mà trong thế giới mới của nó hẳn phải là đồ lót. Nhưng bộ đồ đó trông còn lộng lẫy hơn tất cả những bộ áo choàng của Chrestomanci.
“Gwendolen!” Lão Henry Nostrum thốt lên. Ông ta chỉ tay vào vùng không gian nơi Janet vừa tan biến.
“Đó là cái gì… Ai vậy…?”
“Chỉ là một người thay thế,” Gwendolen giải thích với vẻ khinh mạn nhất. “Ta vừa thấy con bé đó và Cat ở đây, cho nên ta biết…”
Nó nhận ra Chrestomanci bị trói xuội lơ vào cây táo.
“Ồ, tốt lắm! Các người đã tóm được hắn! Đợi chút đã!”
Nó tiến đến Chrestomanci rồi nâng bộ đồ lót hoàng kim lên để đá thật mạnh vào cả hai bên ống chân của ông.
“Này! Nữa này!”
Chrestomanci không thể làm bộ rằng những cú đá đó không đau đớn. Ông gập người lại. Mũi giày của Gwendolen nhọn như đinh.
Gwendolen quay lại, nói với hai anh em lão Nostrum.
“Ồ, phải rồi. Ta nghĩ rằng ta nên quay lại vì ta muốn xem cuộc vui này, và ta cũng nhớ ra rằng ta quên cho các ngươi biết Cat có đến chín mạng sống. Ta e rằng các ngươi sẽ phải giết nó nhiều lần.”
“Chín mạng!” Lão Henry Nostrum hét lên. “Đồ con gái điên!”
Sau đó, tiếng hò hét la ó của tất cả mọi phù thủy và pháp sư trong bãi đất trũng trở nên ầm ĩ tới mức không ai có thể nghe được gì khác. Từ nơi Cat nằm, nó có thể thấy lão William Nostrum nghiêng người về phía Gwendolen, mặt đỏ bừng, hai mắt đảo vòng vòng, giận dữ quát vào mặt nó, và Gwendolen cũng chồm ra trước để quát lại. Khi tiếng ồn lắng xuống đôi chút, Cat nghe tiếng lão William Nostrum nạt nộ.
“Chín mạng sống! Đồ con gái ngu ngốc! Nếu nó mà có chín mạng sống thì điều đó có nghĩa là bản thân nó cũng là một thầy bùa!”
“Ta không ngu đâu!” Gwendolen hét ngược lại. “Ta biết điều đó chẳng kém gì các ngươi! Ta đã sử dụng phép thuật của nó từ hồi còn là em bé. Nhưng ta đâu có thể tiếp tục sử dụng chúng nữa nếu các ngươi định giết nó, đúng không nào? Chính vì vậy mà ta mới phải ra đi. Ta nghĩ ta trở lại nói cho các ngươi biết đã là tốt lắm rồi. Chứ gì nữa!”
“Làm sao mi có thể sử dụng được phép thuật của nó?” Lão Henry Nostrum hỏi, thậm chí còn nóng nảy hơn cả ông anh.
“Ta chỉ sử dụng, có thế thôi,” Gwendolen nói. “Nó chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện ấy.”
“Em có quan tâm chứ,” Cat nói từ phiến đá không thoải mái của mình. “Em ở đây nè, chị biết mà.”
Gwendolen nhìn xuống nó như thể ngạc nhiên khi thấy nó ở đó. Nhưng trước khi con bé kịp nói gì với Cat, lão William Nostrum đã suỵt một tiếng lớn, yêu cầu im lặng. Lão ta đang rất kích động. Lão rút một vật dài bóng lưỡng ra khỏi túi rồi nóng nảy uốn cong nó lại.
“Im lặng!” lão ta nói. “Giờ đây chúng ta đã đi quá xa để có thể quay lại. Việc cần thiết bây giờ là chúng ta phải tìm ra cho được điểm yếu của thằng bé đó. Chúng ta chắc chắn không thể giết được nó nếu không thể tìm ra được. Thể nào nó cũng phải có một điểm yếu. Tất cả các thầy bùa đều vậy cả.”
Nói xong, lão William Nostrum vây lấy Cat và chĩa cái vật sáng bóng vào nó. Cat phát hoảng khi thấy đó là một con dao dài bằng bạc. Con dao chĩa vào mặt nó, mặc dù đôi mắt của lão William Nostrum thì không.
“Điểm yếu của mày là gì, thằng nhóc kia? Khai ra mau.”
Cat không nói gì cả. Trông như sắp chết đến nơi.
“Ta biết,” Gwendolen nói. “Ta đã làm điều đó. Ta đã đặt tất cả các mạng sống của nó vào một tập diêm. Làm như vậy, chúng sẽ dễ sử dụng hơn. Tập diêm đó ở trong phòng của ta tại Lâu đài. Có cần ta đi lấy nó không?”
Từ tư thế không thoải mái của mình, Cat nhìn thấy khuôn mặt mọi người đều trông nhẹ nhõm hẳn đi trước những lời này.
“Thế thì tốt quá,” lão Henry Nostrum nói. “Nhưng nó có thể bị giết mà không đốt diêm không?”
“Ồ, được chứ,” Gwendolen nói. “Nó đã bị chết đuối một lần rồi.”
“Thế thì vấn đề là ở chỗ nó còn lại bao nhiêu mạng?” lão William Nostrum nói, vẻ nhẹ nhõm thấy rõ. “Thằng nhóc kia, mày còn bao nhiêu mạng?”
Con dao lại dí vào Cat lần nữa.
Và một lần nữa, Cat không nói gì cả.
“Nó không biết đâu,” Gwendolen sốt ruột nói. “Ta đã sử dụng vài que. Nó mất một mạng lúc mới sinh và một mạng nữa lúc chết đuối. Và ta đã dùng một mạng để đặt nó vào tập diêm. Không rõ vì sao việc này lại gây cho nó những cơn chuột rút. Rồi cái tên đáng ghét bị trói bằng dây bạc kia đã không chịu dạy ta học phép thuật và lại còn truất phép thuật của ta, cho nên ta phải lấy một mạng nữa của Cat vào ban đêm và buộc nó đưa ta đến thế giới mới tốt đẹp của ta. Cat phật ý chuyện này ghê gớm, nhưng nó cũng đã làm theo. Ồ, ta suýt nữa quên mất! Ta đã đặt mạng thứ tư của nó vào cây vĩ cầm mà Cat vẫn thường chơi để chuyển cây vĩ cầm đó thành một con mèo – con Vĩ Cầm ấy mà – có nhớ không, ông Nostrum?”
Lão Henry Nostrum vân vê hai dải tóc mai. Sự nhốn nháo lại bùng nổ quanh bãi đất trũng.
“Mi quả là đồ con gái điên! Ai đó đã đem con mèo đó đi rồi. Chúng ta không thể nào giết được nó nữa rồi!”
Trong một khoảnh khắc, Gwendolen trông rất thất vọng. Nhưng rồi một ý tưởng chợt nảy ra trong đầu nó.
“Nếu ta lại ra đi, các ngươi có thể sử dụng người thay thế của ta…”
Sợi dây chuyền – đồng hồ quanh Chrestomanci khua lách cách.
“Nostrum, ngươi chẳng việc gì phải bối rối. Chính ta đã cho người lấy đi con mèo Vĩ Cầm đó. Con vật đó đang quanh quẩn ở đâu đây, trong khu vườn này.”
Lão Henry quay ngoắt lại nhìn Chrestomanci vẻ nghi hoặc, tay vẫn nắm hai dải tóc mai, cứ như thể điều đó giữ cho đầu óc lão ta được minh mẫn.
“Tôi nghi ngờ ngài lắm. Ngài nổi tiếng là một kẻ xảo quyệt.”
“Ngươi làm ta hãnh diện đấy,” Chrestomanci nói. “Rủi thay ta không thể nói gì cả khi mà sự thật đang bị trói như thế này bằng những sợi dây bạc.”
Lão Henry Nostrum nhìn ông anh mình.
“Điều này thì đúng,” lão William nói, vẻ ngờ ngợ. “Bạc khống chế hắn không cho hắn nói ra những sự kiện. Và ta cũng đoán rằng mạng sống thất lạc của thằng nhóc ấy đang ở đâu đó quanh đây.”
Chừng đó là đủ cho Gwendolen, Pháp sư Thiện chí và hầu hết những phù thủy và thầy đồng xôn xao cả lên.
Gwendolen nói, “Vậy ta sẽ đi tìm nó.”
Đoạn thướt tha bước ra khỏi bãi đất trũng, hướng về phía những ngọn cây, cố đi nhanh nhất với đôi giày mũi nhọn, có Pháp sư Thiện chí hăm hở dẫn đường. Khi hai người rẽ đường băng ngang qua một phù thủy đội chiếc nón cao màu xanh, mụ phù thủy nói:
“Đúng đấy, cưng ạ. Tất cả chúng ta phải săn lùng con miêu đó.”
Mụ ta quay lại đám đông và hét lên bằng cái giọng the thé của phù thủy:
“Tất cả mọi người, hãy săn lùng con miêu đó!”
Tất cả chạy túa ra để săn lùng, cuộn vạt áo lên và tay thì giữ lấy những chiếc nón Chủ nhật. Bãi đất trũng trống trơn. Cây cối xung quanh rung lắc và gãy rạp. Nhưng khu vườn không để ai đi quá xa. Những phù thủy lòe loẹt đủ màu sắc, các đại phù thủy mặc áo choàng, các pháp sư vận đồ đen cứ bị văng ra khỏi các gốc cây, rơi trở lại bãi đất trũng.
Cat nghe Chrestomanci nói:
“Các bạn bè của ngươi có vẻ rất khờ khạo, Nostrum ạ. Con đường đi ra là men theo đám cây ngược chiều kim kia kìa. Có lẽ ngươi nên nói cho họ biết như thế. Con mèo chắc chắn đang ở trong khu vực mùa hè hay mùa xuân.”
Lão William lại ném sang ông em mình một ánh mắt đảo vòng vòng rồi bước vội ra, hét lớn:
“Cây ngược chiều kim, anh chị em ơi! Đám cây ngược chiều kim!”
“Tôi nói cho ngài biết nhé,”, lão Henry Nostrum nói với Chrestomanci, “ngài bắt đầu quấy rầy tôi khá nhiều rồi đấy.”
Lão ta đứng yên trong một giây. Nhưng khi đám người đông như thế, gồm cả Gwendolen và Pháp sư Thiện chí, bị những thân cây xô cho trở lại bãi đất trũng với vẻ rất tức tối, thì lão Henry Nostrum lại lạch bạch chạy đến chỗ họ, hét lên:
“Không phải, các bạn thân mến! Học trò thân mến của ta! Ngược chiều kim cơ! Các bạn phải men theo những cây ngược chiều kim.”
Còn lại Cat và Chrestomanci, lúc đó bị bỏ lại cạnh chiếc cổng vòm nứt nẻ và cây táo.