Chương 5
Tác giả: Diana Wynne Jones
Gwendolen không chịu nói cho Cat biết nó tính làm gì. Có nghĩa là Cat phải chịu đựng những chuỗi ngày thật buồn tẻ. Sau bữa ăn trưa bổ dưỡng với món củ cải Thụy Điển và thịt cừu luộc, hai đứa lại vô học tiếp. Sau đó, Gwendolen chạy vội đi, không cho Cat bám theo. Còn lại một mình, Cat không biết phải làm gì.
“Bạn có thích ra ngoài chơi không?” Roger hỏi.
Cat nhìn là biết ngay Roger chỉ mời cho có vẻ lịch sự.
“Không, cảm ơn.” Cat lịch sự đáp lại.
Nó buộc phải lang thang một mình trong khu vườn. Tuốt phía dưới xa có một khu rừng đầy những cây dẻ ngựa, nhưng những hạt dẻ ngựa thì hãy còn sống nhăn. Trong khi Cat đang cụt hứng nhìn lên một ngọn cây, thì nó thấy có một cái chòi ở khoảng lưng trừng, trông đúng là một căn chòi trên cây. Cat vừa định leo lên thì nó nghe có giọng nói và thấy chiếc váy của Julia thấp thoáng giữa những tán lá. Vậy là không được rồi. Đó là cái chòi trên cây của riêng Julia và Robert, và chúng đang ở trong đó.
Cat lại lang thang tiếp. Nó ra đến bãi cỏ, và ở đó nó thấy Gwendolen đang lom khom dưới một cây tuyết tùng, mải miết đào một cái hố nhỏ.
“Chị làm gì vậy?” Cat hỏi.
“Đi chỗ khác!” Gwendolen gắt.
Cat bỏ đi. Nó biết chắc rằng Gwendolen lại đang giở trò pháp thuật và điều này chắc hẳn là có liên quan đến việc dạy cho Chrestomanci một bài học. Nhưng dò hỏi Gwendolen thì chẳng hay ho chút nào một khi chị ấy đã tỏ ra bí mật như thế. Cat đành phải chờ đợi thôi. Nó chờ qua một buổi chiều kinh khủng nữa, rồi chờ qua một đêm rất dài, rất dài. Gwendolen tự giam mình trong phòng sau bữa chiều và bảo Cat cút đi khi nó đến gõ cửa.
Sáng hôm sau, Cat dậy sớm và lao ngay đến chiếc cửa sổ gần nhất trong ba chiếc. Nó thấy ngay lập tức Gwendolen đang làm gì. Bãi cỏ đã bị tàn phá. Không còn là một tấm thảm nhung mềm mại nữa, giờ chỉ còn một bãi đất lởm chởm đầy những hang chuột chũi. Mút tầm mắt của Cat là những ụ nhỏ xanh xanh, những đống đất nhỏ vừa xới, những luống dài đất thô và những đám cỏ xanh bị trói gốc. Cứ như thể có nguyên một đội quân chuột chũi đã làm việc suốt đêm hôm trước. Khoảng một chục bác làm vườn đang rầu rĩ gãi đầu, đứng láo nháo ở đó.
Cat khoác vội quần áo rồi chạy ào xuống nhà.
Gwendolen đang tựa vào thành cửa sổ trong bộ đồ ngủ vải bông có ren. Trông nó rạng rỡ vì tự hào.
“Nhìn kìa!” nó nói với Cat. “Tuyệt chưa! Cũng cả hécta đó chớ. Tối qua tao phải mất cả giờ mới phá hủy được hoàn toàn. Vụ này sẽ làm cho lão Chrestomanci phải suy nghĩ một chút đây!”
Cat tin chắc là như thế. Không biết phải tốn kém cỡ bao nhiêu để thay lại một bãi cỏ khổng lồ cỡ đó, nhưng nó nghĩ chắc cũng phải tốn bộn bạc. Nó lại lo rằng Gwendolen sẽ gặp rắc rối to.
Nhưng Cat đã vô cùng ngạc nhiên khi chẳng ai thèm đả động gì đến bãi cỏ. Euphemia bước vào một phút sau đó, nhưng chị ấy cũng chỉ nói,
“Hai cô cậu lại trễ bữa điểm tâm nữa cho coi!”
Roger và Julia không nói năng gì cả. Hai đứa nó lẳng lặng nhận món mứt cam cùng con dao của Cat chìa ra cho chúng, và câu duy nhất mà chúng mở miệng nói là khi Julia vụng về đánh rơi con dao của Cat và vụng về nhặt nó lên. Con bé nói,
“Chán thật!”.
Và khi thầy Saunders gọi bọn trẻ vào học, thầy chỉ nói về những điều xung quanh bài học. Cat tự nhủ, chắc chưa ai biết Gwendolen gây ra vụ chuột chũi. Chắc họ chưa hình dung nổi chị ấy là một phù thủy mạnh cỡ nào.
Ngày hôm đó chúng không phải học sau bữa trưa. Thầy Saunders giải thích là chiều thứ tư nào chúng cũng được nghỉ học. Đến giờ ăn trưa, tất cả những đống đất bị chuột chũi đào đều biến đâu mất cả. Khi chúng nhìn ra ngoài cửa sổ phòng chơi thì bãi cỏ đã trở lại là một tấm nhung.
“Không thể tin nổi!” Gwendolen thì thầm với Cat. “Chắc là ảo ảnh thôi. Họ đang cố làm cho tao cảm thấy mình nhỏ bé đây mà.”
Sau bữa trưa, chúng ra ngoài để dò la. Làm việc này, chúng phải khá thận trọng vì thầy Saunders đang trải qua buổi chiều nhàn rỗi trên một chiếc ghế xếp dưới mấy ngọn tuyết tùng. Một cuốn sách bìa vàng có vẻ đang làm thầy khoái chí ghê gớm. Gwendolen thong dong tản bộ ra giữa bãi cỏ, giả đò như ngắm nghía lâu đài. Giả bộ cúi xuống cột lại dây giày, nó chọc mấy ngón tay xuống đám cỏ.
“Tao không thể hiểu nổi!” nó nói.
Là một phù thủy, nó biết rõ đám cỏ mềm mại, sát kề này không hề là ảo ảnh.
“Đúng là cỏ thật rồi! Sao lại thế nhỉ?”
“Chắc họ trải một thảm cỏ mới trong khi tụi mình đang học,” Cat gợi ý.
“Đừng có nói ngu!” Gwendolen chặn họng. “Thảm cỏ mới thì phải còn khoanh từng ô chứ, thảm cỏ này đâu có vậy.”
Thầy Saunders cất tiếng gọi chúng.
Trong tích tắc, Gwendolen hốt hoảng chưa từng thấy. Nhưng con bé che giấu điều đó khá tốt và tỉnh khô tiến lại bên chiếc ghế xếp. Cat thấy cuốn sách màu vàng được in bằng tiếng Pháp. Cười được với một thứ bằng tiếng Pháp thì đúng là ghê gớm thật. Thầy Saunders hẳn phải là một phù thủy uyên bác chứ không đơn thuần chỉ là một phù thủy pháp thuật cao cường.
Thầy Saunders đặt úp cuốn sách xuống thảm cỏ đã trở lại tươi đẹp, rồi ngước nhìn hai đứa, mỉm cười.
“Hai em lỉnh đi nhanh quá, chẳng để tôi có kịp thời gian phát tiền tiêu vặt cho các em. Phần các em đây.”
Ông chìa ra cho mỗi đứa một đồng bạc lớn. Cat nhìn đồng bạc của nó. Đó là một đồng crown – cả năm bảng Anh lận. Trong đời, nó chưa bao giờ có nhiều tiền để tiêu xài đến thế. Thầy Saunders càng khiến nó thêm ngạc nhiên khi nói,
“Mỗi thứ tư các em đều được nhận chừng đó. Tôi không biết các em thuộc loại tiết kiệm hay tiêu hoang. Julia và Roger thì thường xuống làng tiêu hết vào khoản kẹo.”
“Cảm ơn thầy nhiều ạ,” Cat nói. “Mình có xuống làng không, chị Gwendolen?”
“Xuống thì xuống,” Gwendolen đồng ý.
Nó đang giằng co giữa một bên là ý muốn ngang ngạnh ở lại lâu đài để đối mặt với bất cứ rắc rối nào về vụ chuột chũi, và bên kia là sự nhẹ nhõm do đã có cớ để mà chuồn.
“Tao đoán lão Chrestomanci thể nào cũng cho gọi tao ngay khi lão biết đó là do tao làm,” Gwendolen nói với Cat khi hai đứa đi trên con đường giữa hai hàng cây.
“Theo chị có phải thầy Saunders đã làm bãi cỏ hồi phục lại không?” Cat hỏi.
Gwendolen cau mày.
“Không thể là ổng được. Ổng mắc dạy tụi mình mà.”
“Hay mấy người làm vườn?” Cat gợi ý. “Trong đám họ dám có người là phù thủy lắm chớ. Nhớ không, cứ mỗi khi mình hó hé là họ xuất hiện nhanh khủng khiếp, ngăn cấm chúng mình đủ thứ chuyện.”
Gwendolen cười khinh miệt:
“Mày nghĩ là tay Pháp sư Thiện chí làm chớ gì!”
Đúng là Cat nghĩ đến anh ta, tuy có hơi hồ nghi. Chàng Pháp sư Thiện chí thật ra không tài ba gì hơn bà Sharp. Anh ta thường được thuê làm những việc khuân vác nặng, hoặc làm sao cho một con ngựa yếu giành được chiến thắng trong các cuộc đua.
“Nhưng mà,” nó cãi lại, “biết đâu họ là phù-thủy-loại-chuyên-làm vườn?”
Gwendolen lại chỉ cười.
Ngôi làng nằm ngay bên ngoài những cánh cổng lâu đài, sát dưới chân ngọn đồi mà lâu đài ngự tòa. Đó là một chốn đẹp mắt, nằm lọt giữa một vòng đai xanh rộng lớn. Băng qua một vườn hoa tươi mát là đến những cửa hàng: một cửa hàng bánh mì xinh xắn với mặt tiền khum khum, một cửa hàng kẹo kiêm nhà bưu điện trông cũng thích mắt chẳng kém. Cat muốn tạt vào cả hai nơi ấy, nhưng Gwendolen chỉ dừng lại ở cửa hàng thứ ba – cửa hàng lạc xoong. Cat cũng chả phản đối gì việc ghé vào cửa hàng này. Nhưng Gwendolen đã lắc đầu quầy quậy, vẻ kích động. Nó chặn một thằng bé dân làng đang tha thẩn gần đó.
“Tôi nghe nói có một ông tên Baslam sống trong làng này. Bạn có thể cho tôi biết ông ấy sống ở đây không?”
Thằng bé xịu mặt xuống.
“Ông đó hả? Ổng không tốt đâu. Nếu các bạn thực sự muốn biết thì ổng ở đằng kia kìa, ngay cuối con đường này.”
Rồi thằng bé đứng đó nhìn hai đứa với vẻ mặt của một kẻ mong kiếm được sáu đồng penny để bù cho những khó nhọc của mình.
Cả Cat lẫn Gwendolen đều không có xu lẻ nào ngoài mấy đồng crown. Chúng buộc lòng phải bỏ đi mà không cho được thằng bé chút gì. Thằng bé hét lớn sau lưng hai đứa:
“Đồ phù thủy con hống hách! Đồ pháp sư con keo kiệt!”
Gwendolen chẳng thèm bận tâm, song Cat thì thấy xấu hổ đến mức nó chỉ muốn quay lại để mà thanh minh.
Lão Baslam sống trong một căn nhà tranh tồi tàn có một tấm biển ghi trật lấc dựng ở một cửa sổ: HẰNG QUỶ HIẾM (Exotic Supplies, tạm dịch là “hàng quý hiếm”, viết sai thành Eggsotik Serplys) . Gwendolen vừa nhìn tấm bảng với vẻ thương hại, vừa giộng cánh cửa bằng chiếc vòng gỗ xin xỉn. Cánh cửa mở ra, lão Baslam xuất hiện hình hài một lão béo với chiếc quần cũng rích, xệ cả xuống nhường chỗ cho chiếc bụng phệ, và đôi mắt chù hụ như của loài chó St Bernard. Thấy hai đứa bé, lão tính sập cửa lại.
“Hôm nay không được.” Lão Baslam nói, nồng nặc mùi bia.
“Ông Nostrum cử cháu đến,” Gwendolen nói. “Ông William Nostrum.”
Cánh cửa ngưng đóng lại.
“A,” lão Baslam thốt lên. “Thế thì hai cháu vào đây. Lối này này.”
Lão dẫn đường cho chúng bước vào một căn phòng chật chội, có bốn chiếc ghế, một chiếc bàn và hàng chục chiếc hộp đựng những con thú nhồi bông. Chúng được bố trí hết sức lộn xộn, hộp này chồng lên hộp kia, chiếc nào chiếc nấy đều rất bụi bặm.
“Ngồi xuống đi,” lão Baslam nói với giọng khá miễn cưỡng.
Cat nhẹ nhàng ngồi xuống và cố không hít thở quá sâu. Ngoài mùi bia tỏa ra từ lão Baslam, nơi đây còn thoang thoảng một mùi thối rữa và một mùi như dưa chua. Cat nghĩ rằng có lẽ có một vài con thú nhồi bông đã không được bảo quản đúng cách. Nhưng những mùi này có vẻ không phiền hà gì đến Gwendolen. Nó ngồi đó, như một bé gái hoàn hảo ở trong tranh. Bộ váy màu kem phủ thành nếp quanh mình và chiếc nón rộng tô điểm mái tóc vàng trông rất hợp. Nó nhìn lão Baslam bằng cặp mắt xanh nghiêm nghị.
“Cháu nghĩ tấm bảng của ông viết sai chính tả rồi.”
Lão Baslam cụp mắt chó St Bernard xuống và phác vài động tác như thể đó chỉ là một trò đùa.
“Ta biết. Ta biết chớ. Nhưng ta không muốn bị coi là nghiêm túc, thế có đúng không nhỉ? Không nghiêm túc ngay từ ngưỡng cửa. Giờ thì nói xem các cháu muốn gì nào. Lão William Nostrum không cho ta biết gì nhiều về các kế hoạch của lão. Ta cũng chỉ là một nhà cung cấp quèn thôi mà.”
“Vâng, cháu muốn có một số hàng.” Gwendolen nói.
Cat khá chán chường lắng nghe cuộc mặc cả của Gwendolen để mua các vật liệu pháp thuật. Lão Baslam loay hoay phía sau mấy hộp đựng thú nhồi bông rồi lôi ra những món này món nọ bọc trong những tấm giấy báo: mắt sa giông, lưỡi rắn, bạch đậu khấu, cây trị đen, xác động vật ướp, axit nitric, hạt giống cây moly và nhiều loại nhựa cây khác – có lẽ đó là những thứ đã góp phần làm nên cái mùi khó chịu. Lão muốn bán với giá cao hơn giá Gwendolen có thể trả. Nhưng con bé đã quyết định chỉ bỏ ra năm bảng Anh mà thu về nhiều lợi nhất. Lão Baslam hình như cũng cảm thấy điều này.
“Cháu có biết mình muốn gì không?” lão cáu kỉnh nói.
“Cháu biết giá cả mọi thứ,” Gwendolen đáp.
Nó giở nón ra, cẩn thận nhét những dúm giấy báo nhỏ vào chóp nón rồi đội ngay ngắn trở lại lên đầu.
“Cuối cùng, có lẽ cháu muốn có một ít máu rồng,” nó nói.
“Ồồồ!!!” Lão Baslam thốt lên, ảm đạm lắc đầu chiếc đầu tới mức hai má thõng xuống của lão vỗ bành bạch vào nhau.
“Máu rồng bị cấm sử dụng, cô bé ạ. Cháu phải biết điều đó chứ. Ta khong biết có xoay được cho cháu món đồ đó hay không nữa.”
“Ông Nostrum – cả hai ông Nostrum – bảo cháu rằng ông có thể kiếm được mọi thứ,” Gwendolen nói. “Họ bảo rằng ông là nhà cung cấp tốt nhất mà họ biết. Vả lại cháu cũng chưa cần máu rồng ngay bây giờ. Cháu chỉ đặt hàng thôi.”
Lão Baslam có vẻ hể hả vì được hai anh em lão Nostrum khen ngợi, nhưng lão vẫn nghi hoặc.
“Chỉ có một món bùa mạnh ghê gớm mới cần tới máu rồng,” lão lầm bầm nói. “Một cô bé trẻ như cháu thế này thì không thể làm món bùa nào mạnh tới cỡ đó”.
“Cháu cũng chưa biết nữa,” Gwendolen nói. “Nhưng cháu nghĩ cháu làm được. Ông biết đấy, cháu học đến lớp pháp thuật nâng cao rồi cơ mà. Và cháu muốn có máu rồng chỉ để phòng hờ khi nào cháu cần đến.”
“Sẽ đắt tiền lắm đấy,” lão Baslam cảnh báo. “Đó là hàng quý mà. Cháu biết đấy, cần phải chi trả cho rủi ro nữa chứ. Ta thì không muốn dính líu đến pháp luật.”
“Cháu trả được,” Gwendolen nói. “Cháu sẽ trả dần. Ông có thể lấy phần dư lại của năm bảng này, coi như khoản trả góp của cháu.”
Lão Baslam không thể nào kháng cự được trước khoản tiền đó. Cái cách lão nhìn đồng crown mà Gwendolen chìa ra làm Cat nhìn thấy ngay một cách sống động trong mắt lão hình ảnh một dãy dài những vại bia sủi bọt.
“Xong xuôi,” lão Baslam nói.
Gwendolen cười khoan dung và đứng dậy đi về. Cat cũng mừng rỡ bật dậy.
“Còn cháu thì sao, anh bạn nhỏ?” Lão Baslam hỏi, vẻ săn đón. “Có muốn thử nhúng tay vào một chút ma thuật không nào?”
“Nó là em của cháu ấy mà,” Gwendolen nói.
“Ồ… À… Hừm… Phải rồi,” lão Baslam nói. “Là em cháu, dĩ nhiên rồi, chúc hai cháu một ngày tốt lành. Nhớ đến nữa nhé, bất cứ lúc nào.”
“Khi nào thì ông có máu rồng?” Ra đến bậc cửa, Gwendolen hỏi.
Lão Baslam nghĩ ngợi. “Một tuần được không?”
Khuôn mặt Gwendolen sáng lên.
“Nhanh thế! Cháu biết ngay ông là nhà phân phối xịn mà. Ông lấy đâu ra mà nhanh quá vậy?”
“Giờ thì có thể nói được rồi, đúng không nhỉ?” Lão Baslam nói. “Nó đến từ một thế giới khác, còn thế giới nào thì đó là bí mật kinh doanh, cô bé ạ.”
Gwendolen vui ghê gớm khi hai đứa trở ra lại con hẻm.
“Một tuần lễ!” nó reo lên. “Tao chưa từng nghe vụ nào nhanh dữ vậy. Mày biết không, chắc máu rồng phải nhập lậu từ cái thế giới khác ấy. Muốn thế ổng phải lập những được dây cực tốt ở đó.”
“Hay ổng đã có sẵn rồi, bên trong một con chim nhồi bông chẳng hạn.”
Cat nói, nó thấy chẳng ưa ông Baslam chút nào.
“Nhưng chị muốn có máu rồng để làm chi vậy? Bà Sharp nói nó trị giá tới năm chục pound một ounce lận đó.” (Pound: đơn vị tiền tệ Anh, Ounce: đơn vị trọng lượng Anh, bằng 28g)
“Im nào,” Gwendolen nói. “Ồ, nhanh lên! Nhanh lên đi, Cat! Chui vào cửa hàng kẹo đó liền đi. Không được để mụ ấy biết tụi mình ở đâu đi ra.”
Ở bãi cỏ xanh ven làng, một mệnh phụ xách cây dù đang trò chuyện với một tu sĩ. Đó là bà vợ của Chrestomanci. Cat và Gwendolen chui tọt vào cửa hàng, hy vọng bà không nhìn thấy. Ở đó, Cat mua cho mỗi đứa một bịch kẹo bơ. Vì bà Millie vẫn chưa đi khỏi, nên nó mua tiếp cả kẹo cam thảo. Đến lúc này bà Millie vẫn chưa dứt chuyện với ông thầy tu, vì vậy nó lại mua cho Gwendolen một cái chùi viết và mua cho chính nó một tấm ảnh có hình tòa lâu đài. Bà Millie vẫn chưa đi, mà Cat thì không thể nghĩ ra có thể mua thêm thứ gì khác, thế nên hai đứa buộc lòng phải ra khỏi cửa hàng.
Millie vẫy hai đứa lại khi chúng vừa ló mặt.
“Lại đây chào cha sở kính mến đi các con.”
Ông cha sở già lắm rồi, ánh mắt ông yếu ớt nhìn đâu đâu. Ông run run bắt tay chúng và bảo rằng sẽ gặp lại chúng vào chủ nhật. Đoạn ông nói ông phải đi thôi.
“Chúng con cũng thế ạ,” bà Millie nói. “Nào các con, chúng ta cùng về lâu đài nhé!”
Chả có việc gì để làm ngoài việc lủi thủi đi cạnh bà Millie dưới bóng cây dù, vượt qua những trảng cỏ xanh, rồi chui dưới những cánh cổng rào. Cat cứ nơm nớp lo sợ bà lại sắp vặn hỏi chúng vì cớ gì và ghé nhà lão Baslam. Gwendolen thì cầm chắc bà sắp hỏi nó về đám hang chuột chũi trên bãi cỏ. Nhưng điều mà bà Millie nói lại là,
“Các con thân yêu, ta rất mừng vì có cơ hội trò chuyện với các con. Ta chả có lúc nào rảnh rỗi để tìm hiểu các con đã thích ứng ra sao. Các con ổn cả chứ? Các con có thấy ở đây rất lạ lùng không?”
“Hơi… hơi hơi ạ,” Cat thú nhận.
“Những ngày đầu tiên bao giờ cũng là những ngày tồi tệ nhất, ở đâu cũng thế thôi,” bà Millie nói. “Ta tin chắc các con sẽ sớm thích hợp với nơi này. Và nếu các con thích thì đừng ngần ngại dùng đồ chơi trong phòng chơi nhé. Chúng là của chung đấy. Đồ chơi riêng thì đã ở trong phòng riêng mỗi đứa rồi. Các con có thích phòng các con lắm không?”
Cat kinh ngạc ngước nhìn bà. Bà đang nói cứ như thể chưa bao giờ có vụ chuột chũi và mấy trò ma thuật. Mặc dù đã có bộ váy xếp nếp sang trọng cùng với chiếc dù viền ren, trông bà vẫn cứ như một quý bà tốt bụng, hồn hậu, bình dân nhất. Cat thấy mến bà Millie. Nó làm an lòng bà bằng cách nói nó rất thích căn phòng, và cả phòng tắm của nó nữa – đặc biệt là vòi sen. Rồi nó tâm sự rằng trong đời nó trước đây chưa bao giờ nó có được một phòng tắm riêng cả.
“Ôi, ta mừng quá. Ta vẫn mong quá chừng rằng con sẽ thích nó,” bà Millie nói. “Cô Bessermer muốn sắp con ở cạnh Roger, nhưng ta nghĩ căn phòng đó quá chán – mà lại không có vòi sen nữa chứ. Khi nào con thử ngó qua đi, con sẽ hiểu ý ta muốn nói gì.”
Bà đã đi vào lối đi chính, miệng vẫn không ngớt chuyện, và Cat nhận ra rằng nó chính là người phải đảm nhận phần còn lại của cuộc đối thoại. Ngay khi đã rõ rằng bà Millie sẽ không đả động gì tới vụ thảm cỏ lẫn vụ mấy món hàng độc, Gwendolen bắt đầu có vẻ coi thường bà. Nó im lặng khinh khỉnh, để mặc cho Cat tiếp chuyện. Sau một lúc, bà Millie hỏi Cat cái gì trong lâu đài làm nó thấy lạ lùng nhất.
Cat bẽn lẽn nói, nhưng không hề do dự:
“Cách mọi người nói chuyện vào bữa chiều ạ.”
Bà Millie thốt lên một tiếng kêu thảm thiết đến mức làm cho Cat nhảy dựng lên và Gwendolen thì càng khinh khỉnh chưa từng thấy.
“Ôi, con yêu! Eric tội nghiệp của ta! Ta đã thấy cách nhìn của con rồi. Tệ hại lắm phải không con? Thầy Michael thì cứ cái kiểu nhiệt tình ấy, và thầy ấy có biết nói gì khác đâu. Một ngày nào đó cần phải dọn dẹp cái lối này đi mới được, như vậy chúng ta sẽ có lại những cuộc trò chuyện hợp lý và dăm câu chuyện đùa vui. Ta thích vui cười trong bữa ăn, con có vậy không nhỉ? Ta e rằng không gì có thể ngăn được ông Bernard đáng thương huyên thuyên về chứng khoán và cổ phần, nhưng con đừng để ý đến chuyện đó làm gì. Chẳng ai lắng nghe ông Bernard cả. Nhân tiện đây ta muốn hỏi, con có thích bánh kem dài không?”
“Có ạ,” Cat đáp.
“Ồ, tốt quá!” bà Millie nói. “Ta đã sai dọn trà cho cả nhà trên bãi cỏ vì đây là thứ tư đầu tiên của các con và ta không muốn bỏ phí một thời tiết đáng yêu như thế này. Tháng Chín hầu như bao giờ cũng đẹp trời, các con có thấy lạ không? Chỉ cần chui ra khỏi đám cây cối này là chúng ta sẽ ra đến thảm cỏ cùng lúc với món trà đấy.”
Đúng như vậy, chúng đi theo và Millie ra khỏi đám cây rậm rạp và thấy đã có cả một đám ghế xung quanh chiếc ghế thầy Saunders ngồi ban nãy. Đám người hầu đang tất tả bày bàn và bưng đến những chiếc khay. Gần như cả Gia đình đã có mặt, đang đứng đây đó, quanh chỗ mấy cái ghế dựa. Gwendolen theo bà Millie và Cat tới chỗ đó. Trông Gwendolen bồn chồn và thách thức. Nó biết Chrestomanci sắp sửa nói chuyện với nó về vụ thảm cỏ. Và sự việc sẽ càng tồi tệ hơn nữa khi nó chẳng có cơ hội nào để lấy mấy món hàng độc ra khỏi chiếc nón trước khi ông ấy tịch thu.
Nhưng Chrestomanci không có mặt ở đó, mặc dù mọi người đều đã có mặt. Bà Millie len vào giữa Julia và ông Bernard chứng khoán-với-cổ phần. Bà băng qua các mệnh phụ lớn tuổi đeo găng tay hở ngón, rồi nghiêm khắc chỉa mũi dù vào thầy Saunders.
“Michael, tôi cấm thầy tuyệt đối không được nói chuyện về nghệ thuật trong bữa trà đấy,” bà nói, nhưng rồi ngay lập tức phá tan sự nghiêm khắc bằng một tràng cười.
Gia đình rõ ràng cũng cảm nhận y như Cat. Nhiều người trong số họ thốt lên:
“Nghe kìa nghe kìa!”
Còn Roger thì nói, “Mình bắt đầu được chưa, hả mẹ?”
Cat thưởng thức tiệc trà. Đây đúng là lần đầu tiên nó “thưởng thức” các món ăn kể từ khi nó đặt chân đến lâu đài. Có những chiếc bánh kẹp lát dưa chuột mỏng như giấy, những chiếc bánh kem dài to bự và xốp. Cat ăn uống thậm chí còn nhiều hơn cả Roger. Vây quanh nó là những câu chuyện rôm rả như mọi ngày của Gia đình, trên nền những tiếng rầm rì về chứng khoán và cổ phần. Ánh mặt trời tỏa ấm áp và sự thanh bình bao trùm lên thảm cỏ xanh trải dài. Cat thấy mừng rằng cuối cùng, bằng cách chi đó, cũng có người đã hồi phục lại giúp cái thảm cỏ. Nó thích có thảm cỏ mềm mại như thế này hơn. Nó bắt đầu nghĩ rằng, chỉ cần tập dợt thêm một tí thôi thì mình gần như có thể coi là hạnh phúc được.
Gwendolen chẳng hề vui như thế. Mớ bọc giấy báo trĩu nặng trên đầu nó. Mùi của chúng làm mất mùi vị của món bánh kem dài. Và nó biết rằng nó sẽ phải chờ đến tận bữa chiều Chrestomanci mới nói chuyện với nó về vụ bãi cỏ.
Bữa tối hôm đó diễn ra muộn hơn do đã có tiệc trà. Hoàng hôn buông xuống, nhả những tia sáng cuối cùng vào phòng ăn. Những ngọn nến đã thắp sẵn được bày trên chiếc bàn bóng lộn. Qua dãy cửa sổ dài ngay trước mặt, Cat nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của những ngọn nến và những đồ vật khác. Cat còn thấy bóng một người hầu bàn đang đi tới. Vì vậy lần này nó không bị bất ngờ khi người này chìa qua vai nó chiếc khay đựng món cá nhỏ và bắp cải chua. Và vì giờ đây đã bị cấm dùng tay mặt, Cat cảm thấy rất đàng hoàng khi đổi bên đám muỗng nĩa mà người ta sắp sẵn cho nó. Nó bắt đầu cảm thấy hòa nhập.
Do không được phép nói chuyện về nghệ thuật trong bữa tiệc trà, thầy Saunders tỏ ra hùng biện hơn bình thường vào bữa tối. Thầy cứ nói, nói miết. Thầy cố lôi cuốn sự chú ý của Chrestomanci, và nói chuyện với Chrestomanci. Chrestomanci trông mơ màng và tươi tỉnh, lắng nghe rồi gật gù. Và Gwendolen cảm thấy bực bội dâng lên từng phút. Chrestomanci không hé răng một lời về chuyện bãi cỏ, cả ở trong phòng ăn này lẫn trong phòng giải trí trước đó. Càng lúc càng trở nên rõ ràng rằng sẽ chẳng một ai đả động gì đến vụ việc này cả.
Gwendolen giận lắm. Nó muốn khả năng pháp thuật của mình phải được nhìn nhận. Nó muốn cho Chrestomanci thấy rằng nó là một phù thủy mà mọi người cần phải kiêng dè. Do đó nó không còn cách nào khác hơn là khởi đầu một đòn phép mới. Nó gặp trở ngại chút xíu là không có vật liệu nó trong tay, nhưng có một thứ nó có thể thực hiện khá dễ dàng.
Bữa tối cứ thế mà tiếp tục trôi qua. Thầy Saunders tiếp tục nói. Đám gia nhân bu xung quanh để dọn món ăn kế tiếp. Cat nhìn ra cửa sổ để canh chừng khi nào chiếc đĩa bạc được chuyển tới chỗ nó. Và suýt nữa thì nó thét lên.
Đằng kia có một sinh vật trắng dã, ốm yếu. Sinh vật đó nép trong bóng tối phía bên ngoài cửa kính, ngoác ngoác cái miệng và đưa tay vẫy vẫy. Trông nó giống như hồn ma lạc lối của một gã điên, sinh vật đó trông yếu ớt, trắng dã và gớm guốc, bệ rạc và nhớp nhúa. Mặc dù Cat biết gần như ngay tức khắc rằng đây là sản phẩm của Gwendolen, nó vẫn kinh hoàng nhìn sinh vật đó không chớp mắt.
Bà Millie bắt gặp Cat đang nhìn chừng chừng. Bà cũng nhìn ra, rùng mình, rồi lấy muỗng gõ nhè nhẹ lên mu bàn tay của Chrestomanci. Chrestomanci bừng tỉnh khỏi giấc mơ êm ái của ông và liếc ra cửa sổ. Ông ném một cái nhìn chán ngắt vào sinh vật thảm hại đó, rồi buông tiếng thở dài.
“Do đó tôi vẫn nghĩ rằng Florence là nơi đẹp nhất trong các tỉnh thành nước Ý.” Thầy Saunders nói.
“Người ta cũng nói về Venice như thế đấy,” Chrestomanci nhận xét. “Franzier, ông làm ơn kéo rèm lại giùm tôi. Cảm ơn ông.”
“Không, không đâu. Theo thiển ý của tôi thì Venice đã lỗi thời rồi,” thầy Saunders khẳng định rồi thầy lao vào giải thích lý do, trong khi người tổng quản kéo những chiếc rèm màu da cam, che khuất sinh vật kia khỏi tầm mắt.
“Vâng, có lẽ ông nói đúng. Florence có nhiều thứ hấp dẫn hơn,” Chrestomanci tán thành. “Nhân tiện, Gwendolen, khi ta nói đến Lâu đài thì ta muốn bao gồm cả khu vực ngoài trời lẫn khu vực bên trong của Lâu đài. Giờ thì tiếp tục đi, Michael. Về Venice nhé!”
Mọi người đều tiếp tục, ngoại trừ Cat. Nó tưởng tượng cái sinh vật ấy vẫn đang ngoác ngoác và lò mò ở phía tấm kiếng phía sau tấm rèm cam. Cứ nghĩ tới là nó không ăn được nữa.