Chương 6
Tác giả: Diana Wynne Jones
Gwendolen xả cơn giận trong phòng của nó sau bữa tối. Nó dậm thình thịch trên giường, ném gối văng lung tung và la hét ầm ĩ. Cat thận trọng đứng lui sát lại tường đợi đến khi chị của nó nguôi ngoai. Nhưng Gwendolen không chịu nguôi cho đến khi con bé tự thề với lòng sẽ mở một chiến dịch để chống lại Chrestomanci.
“Tao thù ghét nơi này!” nó gầm lên. “Họ tìm cách ém nghẹm mọi thứ dưới lớp vỏ tốt đẹp, dịu ngọt. Tao thù ghét điều đó, tao căm thù!” Giọng con bé bị bóp nghẹn giữa những lớp nhung của căn phòng rồi bị nuốt chửng trong sự mềm mại bao phủ khắp tòa lâu đài.
“Mày có nghe thấy không?” Gwendolen hét lớn. “Đó là sự tốt đẹp gớm guốc của một tấm mền nhồi bông! Tao phá hủy thảm cỏ của họ, thế là họ đãi tao tiệc trà. Tao làm hiện ra cái hình ảnh khả ái đó, thế là họ cho kéo rèm lại. Frazier, ông làm ơn kéo rèm lại giùm tôi! Hừ! Lão Chrestomanci làm tao muốn phát bệnh!”
“Em không nghĩ đó là một hình ảnh khả ái,” Cat rùng mình nói.
“Ha, ha! Mày đâu ngờ tao làm được vậy, đúng không?” Gwendolen nói. “Nó đâu phải là để dọa mày, đồ ngốc. Nó là để cho lão Chrestomanci bị sốc. Tao căm thù lão ấy! Lão thậm chí chẳng thèm tỏ ra quan tâm đến vụ này.”
“Ông ta giữ tụi mình ở lại đây làm chi nếu ông ấy không quan tâm đến chị?” Cat thắc mắc.
Gwendolen khá bất ngờ trước ý kiến này.
“Tao chưa nghĩ đến điều đó,” nó nói. “Nghiêm trọng đây. Bỏ đi hả? Để tao suy nghĩ coi.”
Xong nó la lên trước khi Cat bước ra cửa.
“Rồi lão ta sẽ phải quan tâm tới tao, tao sẽ làm được điều đó. Mỗi ngày tao mỗi làm điều đó, cho đến khi lão để mắt tới tao!”
Một lần nữa, Cat lại thấy buồn tủi. Nhớ lại lời của bà Millie, nó lững thững đến phòng chơi. Nhưng Roger và Julia đang ở đó, chơi bày trận với những chú lính chì trên tấm thảm hoen ố. Một đám các chú lính chì tí hon đi đi lại lại. Một số chú đang chĩa một khẩu pháo lên trời. Một số khác nằm sau mấy cái gối, nhắm bắn bằng súng trường, làm phát ra những tiếng nổ râm ran nho nhỏ. Roger và Julia quay phắt lại, vẻ tội lỗi.
“Bạn không mách lại chuyện này chứ?” Julia nói.
“Bạn có muốn chơi cùng không?” Roger lịch sự hỏi.
“Ồ, không, cảm ơn,” Cat vội nói.
Nó biết sẽ chẳng bao giờ tham gia nổi loại trò chơi này trừ phi có Gwendolen giúp sức. Nhưng nó lại không dám quấy rầy Gwendolen trong trạng thái tinh thần hiện nay của chị ấy. Và thế là nó chả có việc gì để làm. Rồi nó nhớ lại rằng bà Millie rõ ràng đã muốn nó sục sạo tòa lâu đài nhiều hơn. Do đó nó quyết định đi thám sát, cảm thấy mình khá liều lĩnh.
Về đêm, Lâu đài có một dáng vẻ lạ lùng. Cứ cách một khoảng đều đặn lại có một ngọn đèn điện nhỏ mờ ảo. Tấm thảm xanh ánh lên dìu dịu. Sàn nhà bóng lưỡng và những bức tường phản chiếu các đồ vật thậm chí còn rõ hơn cả ban ngày. Cat bước đi nhè nhẹ, hộ tống bởi những bóng phản chiếu như bóng ma của chính nó, cho đến khi nó rơi vào cảm giác như thể mình đang lạc trong mơ. Mọi cánh cửa trong lâu đài đều khép kín. Nó không dám cả gan mở cánh nào cả. Nó cứ đi tiếp, đi tiếp nữa.
Sau một hồi, Cat nhận ra không hiểu bằng cách nào mà nó đã đi vòng ra phần Lâu đài cũ. Các bức tường ở đây đều bằng đá quét vôi trắng, và các cửa sổ lõm sâu vào gần cả thước mới tới phần kính. Rồi Cat đi đến một cái cầu thang, giống như là song sinh với chiếc cầu thang xoắn đi lên phòng nó, ngoại trừ một điều là chiếc thang này xoắn theo chiều ngược lại. Cat thận trọng leo lên.
Nó vừa bước lên bậc thang cuối cùng thì cánh cửa ngay trên đầu cầu thang lại bật mở. Một ngọn đèn vuông sáng hơn rọi lên bức tưởng trên đầu cầu thang. Và cái bóng dười ngọn đèn chỉ có thể thuộc về Chrestomanci. Không một cái bóng của ai khác lại có thể cao đến thế, với cái đầu láng mượt đến thế và với nhiều diềm xếp nếp như thế ở trước áo. Cat dừng lại.
“Hy vọng con bé đáng ghét đó sẽ không lặp lại chuyện này.”
Chrestomanci nói, khuất trên cao. Giọng ông có nhiều âm sắc răn đe hơn bình thường và khá giận dữ.
Tiếng thầy Saunders từ bên trên vọng xuống,
“Nói cho ngay, tôi gần chịu hết nổi con bé đó rồi. Tôi mong rằng chẳng bao lâu nữa nó sẽ trở nên biết điều hơn. Không biết cái gì đã ám con bé, khiến nó phát tiết quyền năng bừa bãi như thế?”
“Sự không hiểu biết,” Chrestomanci nói. “Nếu mà tôi biết nó có một chút ý thức tối thiểu nào về những gì nó đang làm thì đó sẽ là điều cuối cùng mà nó làm được theo kiểu đó, hay bất cứ kiểu nào khác.”
“Tôi hết cách rồi đó,” thầy Saunders nói. “Lần này là con thứ mấy? Thứ năm à?”
“Không. Thứ ba, căn cứ theo kiểu tóc. Một con ma hiện hồn,” Chrestomanci nói. “Cũng còn may cho chúng ta đấy.”
Ông dợm bước xuống cầu thang. Cat đứng chết lặng vì quá sợ.
“Tôi sẽ buộc Hội đồng kiểm tra xem xét lại các giáo trình pháp thuật sơ cấp,” Chrestomanci nói với lên trước khi bước xuống lầu “để bổ sung thêm phần lý thuyết. Những tay phù thủy dỏm ấy đã cho bọn học sinh giỏi của họ làm thẳng những phần việc của bậc nâng cao mà không trang bị cho chúng một căn bản tử tế nào cả.”
Đang nói, Chrestomanci xuống đến góc cầu thang và bắt gặp Cat.
“Ồ, chào con,” ông nói. “Ta đâu ngờ con ở đây. Có thích lên thăm phòng làm việc của thầy Michael một chút không?”
Cat gật đầu, nó không dám làm gì khác hơn là gật đầu.
Tuy nhiên, Chrestomanci có vẻ rất thân thiện, mà không chỉ ông, cả thầy Saunders cũng thế khi Chrestomanci dẫn Cat vào căn phòng ở đầu cầu thang.
“Chào Eric,” thầy Saunders nói bằng một giọng vui vẻ. “Cứ việc ngó quanh đi. Có thứ nào trong này nói lên với em điều gì không?”
Cat lắc đầu. Căn phòng có hình tròn, giống như phòng của nó, nhưng rộng hơn, và bên trong có một gian pháp thuật chính hiệu. Cat chỉ thấy có thế. Nó nhận thấy có một ngôi sao năm cánh được sơn trên sàn nhà. Cái mùi tỏa ra từ ngọn đèn dầu đang cháy treo trên trần cũng giống như cái mùi phảng phất ở phố Coven, hồi nó còn ở thị trấn Wolfvercote. Nhưng nó chẳng có chút ý niệm gì về công dụng của những đồ vật bày trên vô số cái bàn chân niễng. Một bàn bày chật cứng những ống nghiệm cổ dài và cổ cong, chiếc thì đang sôi sùng sục, chiếc thì trống rỗng. Bàn thứ hai chất đầy những cuốn sách và giấy cuộn. Trên chiếc bàn thứ ba thấy có ghi chi chít bằng phấn những ký hiệu. Một xác ướp của một sinh vật thuộc giống gì không rõ nằm trơ vơ giữa đám ký hiệu này.
Cặp mắt của Cat quét qua tất cả những thứ ấy, rồi lướt đến những cuốn sách khác nhét chật ních trên dãy kệ ở quanh tường. Rồi mắt nó quét tiếp đến những chiếc kệ khác chất đầy những hũ chứa vật liệu. Đó là những hũ lớn, loại giống như trong các cửa hàng kẹo. Nó hiểu ra rằng thầy Saunders này chuyên làm chuyện đại sự. Cặp mắt lơ láo của nó quét tới một tấm nhãn ghi trên những chiếc hũ khổng lồ: mắt sa giông, Gôm Ả Rập, Thuốc luyện đan St John’s Wort, Máu rồng (khô). Chiếc hũ sau cùng chứa đầy một chất bột màu nâu đậm. Đôi mắt của Cat quay trở về cái xác ướp động vật nằm sóng xoài giữa đống ký hiệu viết bằng phấn trên chiếc bàn thứ ba. Chân con vật đó có móng giống như chân chó. Trông nó giống như một con thằn lằn bự, nhưng trên lưng nó hình như lại có cánh. Cat gần như tin chắc rằng đó chính là một chú rồng con.
“Em không nghĩ gì hết sao?” thầy Saunders nói.
Cat quay lại và thấy Chrestomanci đã đi khỏi. Điều này làm nó dễ chịu hơn chút ít.
“Những thứ này chắc phải tốn nhiều tiền lắm ạ,” Cat nói.
“Cũng may là đã có người nộp thuế trang trải”, thầy Saunders nói. “Em có muốn học cách sử dụng tất cả những thứ này không?”
“Ý thầy nói học thuật phù thủy ấy ạ?” Cat hỏi lại. “Không. Em không muốn, cảm ơn thầy. Em không có năng khiếu môn đó đâu ạ.”
“Tốt, tôi có ít nhất hai thứ khác trong đầu ngoài thuật phù thủy ra.” thầy Saunders nói. “Nhưng điều gì khiến em nghĩ em không có kiếu môn đó?”
“Vì em không làm phép được ạ,” Cat thổ lộ. “Các câu thần chú không linh nghiệm với em.
“Em có chắc chắn đã đọc chúng đúng cách không?” thầy Saunders hỏi. Thầy lững thững đi về phía xác ướp của con rồng – hay con gì đó – rồi lơ đễnh búng cho nó một phát. Cat ghê sợ nhìn thấy con vật vùng vẫy dữ dội. Cặp cánh màng co giựt và xòe rộng trên lưng nó. Rồi nó nằm im trở lại như chết. Cảnh tượng này khiến Cat phải lùi ra cửa. Nó phát hoảng gần như chẳng kém gì cái hồi cô Larkins đột nhiên nói bằng giọng đàn ông. Và, nhân nhớ tới chuyện đó, Cat nhận ra giọng nói ấy không phải là không giống giọng của thầy Saunders.
“Em đã thử bằng mọi cách mà em nghĩ ra được,” Cat nói, vẫn tiếp tục lùi lại. “Vậy mà thậm chí em cũng không biến những nút áo thành vàng nổi, mà việc đó là đơn giản lắm rồi đó!”
Thầy Saunders bật cười.
“Có lẽ vì em chưa đủ tham vọng. Thôi được. Nếu đã muốn đi thì đi đi.”
Cat ù chạy, nhẹ cả người. Khi chạy qua những hành lang kỳ lạ, nó nghĩ cần phải cho Gwendolen biết rằng Chrestomanci cuối cùng cũng đã quan tâm đến cái bóng ma chị ấy làm ra, và ông ấy thậm chí còn tức giận nữa. Nhưng Gwendolen đã tự giam mình trong phòng và không chịu trả lời khi nó kêu cửa.
Cat cố thử thêm lần nữa vào sáng hôm sau. Nhưng, trước khi nó có cơ hội nói chuyện với Gwendolen, Euphemia đã bước vào, mang theo một lá thư. Lúc Gwendolen háo hức giằng lấy bức thư từ ta Euphemia, Cat nhận ra nét chữ lởm chởm của lão Nostrum trên phong bì.
Chỉ một lát sau, Gwendolen đã lại đùng đùng nổi giận.
“Ai làm chuyện này đây? Lá thư này đến hồi nào?”
Chiếc phong bì đã bị cắt gọn dọc một góc.
“Sáng nay, theo như dấu bưu điện,” Euphemia nói. “Và đừng nhìn tôi như thế. Khi cô Bessemer trao cho tôi thì nó đã mở sẵn rồi.”
“Bà ta dám thế à!” Gwendolen rít lên. “Bà ta dám đọc thư của ta sao! Ta sẽ đến thẳng chỗ ông Chrestomanci để mách lại chuyện này!”
“Cô sẽ phải hối tiếc khi làm như vậy đó.” Euphemia nói khi Gwendolen xô chị ta qua một bên để lao ra cửa.
“Ồ, câm miệng lại, đồ con gái mặt ếch ngu ngốc!”
Cat nghĩ nói như vậy là hơi bất công. Euphemia, mặc dù đôi mắt khá lồi, nhưng thật tình vẫn rất xinh đẹp.
“Đi nào, Cat!”
Gwendolen hét lên rồi chạy vọt ra hành lang với lá thư trên tay. Cat hổn hển chạy sau con chị và, nó không đuổi kịp Gwendolen cho đến khi chúng ra đến chiếc cầu thang cẩm thạch.
“Ông Chrestomanci!”
Gwendolen la lớn, nhưng giọng nó vẫn loãng tuếch, yếu ớt và không một tiếng vang.
Chrestomanci đang bước lên cầu thang cẩm thạch trong bộ áo choàng lùng thùng nửa màu cam, nửa màu hồng tươi. Trông ông cứ như hoàng đế xứ Peru. Qua ánh mắt bình thản và mơ màng trên khuôn mặt ông, có thể đoán ông không nhận ra Gwendolen và Cat.
Gwendolen hét vọng xuống.
“Lại đây! Ông lại đây ngay!”
Chrestomanci ngước mặt lên và đôi lông mày của ông cũng nhướn lên.
“Có người đã mở thư của tôi,” Gwendolen nói. “Tôi không cần biết đó là ai, nhưng tôi không chấp nhận chuyện đó! Ông có nghe không vậy?”
Cat há hốc miệng trước lối nói của Gwendolen, Chrestomanci có vẻ lúng túng:
“Làm sao con lại không chấp nhận chứ?”
“Tôi không để yên chuyện này đâu!” Gwendolen hét vào mặt ông. “Từ nay về sau, thư từ của tôi phải đến tận tay tôi!”
“Ý con muốn là ta hà hơi nước để bóc thư ra, xong rồi dán lại chứ gì?” Chrestomanci hỏi, vẻ nghi ngờ. “Thế thì kể ra cũng hơi phiền đấy, nhưng ta sẽ làm vậy nếu điều đó làm cho con vui lòng.”
Gwendolen trợn mắt nhìn ông.
“Ông muốn nói là chính ông đã làm? Chính ông đã đọc lá thư gửi đến cho tôi?”
Chrestomanci từ tốn gật đầu:
“Dĩ nhiên. Nếu như một kẻ như Henry Nostrum gửi thư cho con thì ta cần biết chắc rằng lão ta không viết gì nhăng nhít. Lão ta là một gã rất hắc ám.”
“Ông ấy là thầy của tôi!” Gwendolen giận dữ nói. “Ông không được quyền nói như vậy!”
“Thật đáng tiếc cho con đã bị dạy dỗ bởi một tay phù thủy dỏm,” Chrestomanci nói. “Con sẽ phải quên đi rất nhiều thứ đã học Và cũng thật đáng tiếc nếu như ta không có được cái quyền mở thư từ của con. Ta hy vọng con sẽ không nhận được nhiều thư từ kiểu này nữa, nếu có thì lương tâm ta sẽ chẳng được bình yên.”
“Ông định làm tiếp như thế nữa sao?” Gwendolen nói. “Thế thì hãy coi chừng. Tôi cảnh cáo ông đó!”
“Rất hân hạnh,” Chrestomanci nói. “Ta thích bị cảnh cáo.”
Đoạn ông bước nốt lên những bậc thang cẩm thạch, băng qua Gwendolen và Cat. Chiếc áo choàng hồng và cam uốn lượn, làm lộ ra những viền màu đỏ sáng khiến Cat cảm thấy chói cả mắt.
Gwendolen căm hờn nhìn theo chiếc áo choàng sáng rực đang lướt dọc hành lang.
“Này, đừng có mà thách tôi,” nó nói. “Cứ chọc tôi đi. Ông cứ chờ đấy! Cat, tao giận quá rồi nè!”
“Chị hung dữ quá,” Cat nói.
“Lão ta đáng bị như thế,” Gwendolen nói rồi bắt đầu hối hả quay lại phòng chơi.
“Dám mở thư của lão Nostrum tội nghiệp! Nhưng tao không nghĩ lão đọc được nó đâu. Tao và lão Nostrum đã thỏa thuận một mật mã, do đó lão Chrestomanci xấu xa sẽ không bao giờ hiểu được cái thư thực sự viết gì, trừ chữ ký ra. Nhưng đây là sự phỉ báng, sự lăng mạ. Tao đang bị họ khống chế trong cái Lâu đài này. Tao đang hoàn toàn kiệt quệ và tao thậm chí không thể ngăn được họ đọc thư từ của tao. Nhưng tao sẽ cho họ thấy. Cứ đợi đấy!”
Cat hiểu rằng tốt nhất là không nên nói gì. Gwendolen xông vào phòng chơi, ngồi phịch xuống cạnh bàn, và bắt đầu đọc lá thư của mình.
“Tôi đã bảo rồi mà,” Euphemia nói trong khi Mary cho cái thang máy chuyển đồ ăn hoạt động.
Gwendolen bắn một tia nhìn sang Euphemia.
“Cả mi nữa, cứ chờ đi!” nó cúi xuống rồi đọc tiếp.
Sau một hồi, nó nhìn lại chiếc phong bì.
“Có cả thư cho mày nữa nè,” Gwendolen nói với Cat rồi quẳng cho nó một mảnh giấy. “Nhớ trả lời đấy nhé.”
Cat cầm lấy mà cứ bồn chồn tự hỏi cớ sao lão Nostrum lại viết thư cho nó. Nhưng lá thư lại là của bà Sharp. Bà ấy viết:
Cat iêu quí quở bà,
Con có phẻ khôn vậy, cưn? Bà thì cô đơn lám. Thíu hai con, nhất là thíu con, nơi nài sao lặn lẽ quá. Dù bà có được chúc thư thả nhưn bà nhớ giọng nói của con lám, và bà cứ mong con về, man theo thịt nhìu táo. Có một chiện xẩy ra. Một quý ông tới đưa cho bà nam poun để xin lấy con mìu bị phù phét vốn là cũa con, vì vại bà cảm thí hơi ngượn nên nải ra ý ngĩ gói cho con một ít ngừi bánh bột gừn và đem đến cho con vài ngài sau đó, nhưn lão Nostrum nói là khôn nên. Dù sao, bà nghĩ cát con đã đượt bao bọc trong giàu san rồi. Cho bà gởi lời iêu thươn đến Gwendolen. Bà mong con trở về đây ví bà, Cat ạ, và tiền bạt khôn có ý ngĩa gì đau.
Bà của con
Ellen Sharp,
Cat đọc những dòng đó với một tình cảm ấm áp, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc. Nó thấy nhớ bà Sharp y chang như bà đang nhớ nó. Nó nhớ nhà đến mức không nuốt nổi bánh mì, còn món ca cao thì làm nó muốn nghẹt thở. Thầy Saunders cứ nói được năm từ thì nó nghe lõm bõm chưa tới được một từ.
“Con có chuyện gì vậy, Eric?” thầy Saunders hỏi.
Ngay khi Cat vừa kéo tâm trí của mình trở về từ phố Coven thì cửa sổ vụt tối đen. Căn phòng ngay lập tức tối mò. Julia rú lên. Thầy Saunders dò dẫm lần đường ra đến chiếc công tắc và bật đèn lên. Thầy vừa bật xong thì cửa sổ cũng trong suốt trở lại, để lộ ra Roger toe toét cười, Julia giật bắn mình, Gwendolen nghiêm trang, và bản thân thầy Saunders với bàn tay trên công tắc, nhìn con bé đầy bực bội.
“Tôi nghĩ rằng nguyên nhân của chuyện này nằm ở khu vực sân của Lâu đài, đúng không nhỉ?” thầy nói.
“Ở bên ngoài mấy cổng rào,” Gwendolen tự mãn nói. “Em đặt nó ở đó sáng nay.”
Qua những lời này, Cat hiểu rằng chiến dịch chống Chrestomanci của Gwendolen đã được phát động.
Cửa sổ lại vụt tối.
“Vụ này bao lâu lại tái diễn một lần đây?” thầy Saunders hỏi trong bóng tối.
“Cứ nửa giờ là hai lần,” Gwendolen đáp.
“Cảm ơn,” ông Saunders hằn học nói, rồi ông bật đèn lên. “Giờ thì thấy đường được rồi đấy. Gwendolen, hãy viết câu này một trăm lần, ‘Em phải tuân thủ tinh thần luật pháp chứ không phải nghe lời lá thư’. Roger, làm ơn dẹp ngay nụ cười ấy khỏi khuôn mặt của con đi.”
Cả ngày hôm đó, các cửa sổ trong Lâu đài cứ vụt tối đều đặn hai lần mỗi nửa giờ. Nhưng nếu Gwendolen hy vọng làm cho Chrestomanci nổi giận, thì nó đã không thành công. Không có chuyện gì xảy ra cả, ngoại trừ việc tất cả mọi người để đèn sáng suốt ngày. Điều này kể ra cũng khá phiền toái, nhưng hình như chẳng ai thèm quan tâm.
Trước bữa trưa, Cat ra bãi cỏ, để coi nhìn từ bên ngoài thì vụ cúp tắt này trông ra sao. Như thể có hai chiếc cửa chớp màu đen cứ nhấp đều đặn dọc theo các dãy cửa sổ. Bắt đầu là từ góc trên bên phải, rồi tràn đều xuống, lan dọc tới hàng kế tiếp, từ trái sang phải, rồi lan tiếp đến hàng sau nữa từ phải sang trái, cứ thế tiếp diễn cho đến khi xuống đến đáy. Sau đó nó mở đầu trở lại từ trên đỉnh. Cat quan sát được chừng nửa chu trình hoàn chỉnh thì nó nhận thấy Roger đang đứng bên cạnh, quan sát với ánh mắt chỉ trích, hai bàn tay múp míp đút trong túi.
“Chị của bạn hẳn phải có một đầu óc rất ngăn nắp,” Roger nói.
“Tôi nghĩ phù thủy nào cũng thế,” Cat nói.
Nó chợt thấy bối rối. Dĩ nhiên là nó đang nói chuyện với một phù thủy hay ít ra là một phù thủy tương lai.
“Tôi hình như không có,” Roger nhận xét, không một chút âu lo. “Cả Julia cũng thế. Và tôi thật tình cũng không nghĩ rằng thầy Michael có. Bạn có muốn đến cái chòi trên cây của tụi này chơi sau giờ học không?”
Cat rất hãnh diện. Nó hài lòng đến mức quên cả việc nó đang nhớ nhà ra sao. Nó trải qua một buổi chiều rất sung sướng ở trong rừng, phụ dựng lại cái mái của cái chòi trên cây. Nó trở về Lâu đài khi tiếng cồng thay đồ vang lên, và nhận thấy món bùa nơi cửa sổ đang mất dần tác dụng. Khi các cửa sổ tối đi, món bùa chỉ còn tạo nên một ánh sáng le lói xam xám ở trong nhà. Đến buổi sáng hôm sau thì đã mất hẳn, và Chrestomanci vẫn không nói một lời nào.
Gwendolen tấn công trở lại vào sáng hôm sau. Nó tóm được cậu con trai của ông hàng bánh mì khi cậu bé này đạp xe ngang qua cổng rào, chiếc rổ vuông ở phía trước cái xe đạp chất đầy những ổ bánh mì mang đến Lâu đài. Chỉ một lúc sau, con trai ông hàng bánh bước vào nhà bếp trông đã có vẻ hơi ngơ ngẩn và nói rằng cái đầu của nó rơi lông lốc đâu mất rồi. Hậu quả là bọn trẻ buộc phải dùng bánh nướng vào bữa điểm tâm. Nhưng có vẻ như phải đợi đến khi cắt bánh mì thì những chuyện lý thú nhất mới xảy ra.
“Cô làm tất cả chúng tôi cười muốn bể bụng,” Mary nói khi chị ấy bưng bánh nướng đến từ cái thang máy chuyển đồ ăn. “Để tôi kể lại trò nghịch ngợm của cô cho mọi người nghe nhé, Gwendolen. Roberts tưởng mình bị điên lúc anh ấy nhận ra mình đang cắt một chiếc giày cũ. Cook thì cắt chiếc còn lại, một lúc sau thì cô ta với Nancy giành nhau leo lên cùng một cái ghế vì đám chuột bạch lúc nhúc đó. Nhưng bộ mặt của ông Frazier mới làm tôi mắc cười nhất, lúc ông ấy nói ‘Để đó cho tôi’ xong rồi nhìn lại, hóa ra mình đang gọt một cục đá. Rồi đến…”
“Đừng có khuyến khích cô ta nữa. Chị biết cô ta là thế nào rồi,” Euphemia nói.
“Coi chừng, ta chưa đụng tới mi đấy,” Gwendolen đanh đá nói.
Roger được Mary kể riêng cho nghe chuyện gì đã xảy ra với những ổ bánh mì còn lại. Một ổ đã biến thành con thỏ trắng, một ổ biến thành hình trứng đà điểu – trái trứng này vỡ tung ra, dính nhoen nhét khắp người một thằng bé đánh giày. Một ổ nữa biến thành một củ hành trắng to đùng. Sau đó, khi Gwendolen không còn sáng kiến gì nữa, có còn biến tất cả những ổ bánh mì còn lại thành phô mai.
“Chắc là phô mai cũ, dở ẹt chứ gì?” Roger nói, vẻ rất coi thường.
Không thể biết Chrestomanci liệu có coi thường chuyện này không, bởi lẽ, một lần nữa, ông cũng không nói một lời nào với bất cứ ai.
Ngày tiếp theo là thứ bảy. Gwendolen tóm được ông chủ trang trại đang mang thùng sữa đến giao cho Lâu đài dùng hàng ngày. Kết quả là món ca cao buổi sáng hôm đó bốc một mùi khủng khiếp.
“Tôi đã bắt đầu bực rồi đấy nhé,” Julia chua giọng nói. “Ba có thể không để ý, nhưng tại ba chỉ uống trà với chanh.”
Nó nhìn Gwendolen đầy ác ý. Gwendolen nhìn lại nó, và thế là Cat lại bắt đầu cảm thấy một không khí xung đột vô hình, giống hệt như cái hồi Gwendolen muốn lấy lại cặp bông tai của mẹ từ tay bà Sharp. Tuy vậy, lần này Gwendolen không đạt được mọi điều theo cách nó muốn. Nó cụp mắt xuống lừ lừ và trông có vẻ cáu kỉnh.
“Tao phát bệnh vì cứ phải dạy sớm hoài,” nó gắt gỏng nói.
Câu này, với Gwendolen, ngầm có ý là nó sẽ làm điều gì đó sau đó, trong một ngày sắp tới. Nhưng Julia lại nghĩ rằng nó đã hạ được Gwendolen, và đó là một sai lầm.
Bọn trẻ phải đi học sáng thứ bảy, đó là điều khiến Gwendolen rất bực bội.
“Thật là tàn bạo,” nó nói với thầy Saunders. “Tại sao chúng tôi phải chịu hành hạ như thế chứ?”
“Đó là cái giá mà tôi phải trả để có được mấy giờ nghỉ của tôi vào thứ tư,” thầy Saunders nói với nó. “Và, nhân nói về hành hạ, tôi mong em yểm bùa món gì khác chứ đừng là món sữa nữa nhé.”
“Em sẽ ghi nhớ điều này,” Gwendolen ngọt ngào nói.