watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mưu lược Đặng Tiểu Bình-Phần 2 - A - tác giả Xuân Duy, Quỳnh Dung Xuân Duy, Quỳnh Dung

Xuân Duy, Quỳnh Dung

Phần 2 - A

Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung

2.1. “Bất kỳ mèo trắng mèo đen, hễ bắt được chuột thì đều là mèo tốt”. Theo nói lại, đó là câu mà Lưu Bá thừa, người cộng tác cũ của Đặng thường nói trong chiến tranh
Đầu thập kỷ 60, đại nhảy vọt, công xã nhân dân, ba phần thiên tai, bảy phần nhân họa, làm cho đời sống nhân dân toàn Trung quốc điêu linh. Trong hội nghị Lư Sơn, Bành Đức Hoài nói: Nếu nhân dân Trung quốc không tốt, thì họ đã vùng lên. Chính quyền mới chưa được củng cố, đứng trước một vấn đề vô cùng nghiêm trọng: Làm thế nào để khôi phục và phát triển sản xuất trong một thời gian ngắn?
Lúc đó Mao Trạch Đông đã rút về tuyến hai. Khó khăn đặt ra trước những người lãnh đạo tuyến một. Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình đề xuất: Vấn đề “vẫn là phải giải quyết từ quan hệ sản xuất, đó là phải phát huy tính tích cực của nông dân”.
Thế thì “quan hệ sản xuất nên áp dụng hình thức nào là tốt nhất”? Đặng đề ra hai tiêu chuẩn: Một là, “Hình thức nào ở địa phương nào có thể khôi phục và phát triển sản xuất tương đối dễ dàng và nhanh chóng thì dùng hình thức đó”. Hai là, “quần chúng muốn dùng hình thức nào thì áp dụng hình thức đó. Nếu không hợp pháp thì làm cho nó hợp pháp”.
Để nói rõ ràng, thấu triệt lý lẽ về quan hệ sản xuất phải thích ứng với yêu cầu của lực lượng sản xuất, Đặng dùng một câu ngạn ngữ của nông dân Tứ Xuyên: “Bất kỳ mèo trắng mèo đen, hễ bắt được chuột thì đều là mèo tốt”. Theo nói lại, thì câu nói chân thực đó được Lưu Bá Thừa, người cộng tác cũ của Đặng thường nói trong chiến tranh. Trước kia đại quân Lưu - Đặng đánh đâu thắng đó, không có bí quyết gì chỉ là không theo khuôn phép cũ, không theo cách thức cũ, mọi việc căn cứ vào tình hình, cốt đánh thắng là được”.
Đặng rút ra kết luận hợp lôgích: nay muốn khôi phục sản xuất nông nghiệp, cũng phải xem tình hình, tức là về quan hệ sản xuất không thể chỉ hoàn toàn áp dụng một hình thức cố định, xem hình thức nào phát huy được tính tích cực của quần chúng thì áp dụng hình thức đó” “Lý luận con mèo” lần đầu tiên thách thức với tư tưởng chính thống: Tại sao cứ nhất định phải giữ hình thức cố định là công xã nhân dân? Khoán sản phẩm đến hộ, quy trách nhiệm đến từng thửa ruộng có thể phát huy tính tích cực của quần chúng, có lợi cho phát triển sản xuất thì tại sao không áp dụng?
Khi nói câu đó, Đặng cũng cho rằng những ý kiến sơ bộ đó về sau có khả năng không áp dụng nữa. Trên thực tế về sau không những không áp dụng, mà còn là chứng cớ tội trạng để bị đánh đổ hai lần. Những năm 60, bị quy thành “tên đầu sỏ thứ hai đi theo đường lối tư bản”, những năm 70 biến thành “tên đi theo đường lối tư bản không chịu hối cải” đều có quan hệ đến “lý luận con mèo” đó. Tháng 2.1976, từ miệng Mao Trạch Đông phát ra “chỉ thị tối cao”, phê phán làn gió lật án hữu khuynh của Đặng: “Con người đó không nắm đấu tranh giai cấp, xưa nay không đề xuất vấn đề chủ yếu đó, vẫn cứ mèo trắng mèo đen, bất kể chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa Mác- Lênin”.
Mao Trạch Đông vì “lý luận con mèo” của Đặng mà giam con người có tài trị nước đó vào lãnh cung, cũng không có gì lạ. Thực chất tinh thần của “lý luận con mèo” đã tỏ rõ sự khác biệt lớn về phương thức tư duy giữa Mao và Đặng.
Nhà nông nuôi mèo để bắt chuột. Trong con mắt vụ thực của nông dân Trung quốc, miễn là bắt được chuột, thì mầu lông của mèo dù trắng hay đen không có gì quan trọng. Lý lẽ giản đơn đó có thể gợi ý cho rất nhiều nhà lý luận xuất sắc về mối quan hệ giữa mục đích, thủ đoạn và hiệu quả. Bắt chuột là mục đích, số chuột bắt được là hiệu quả. Giữa mục đích và hiệu quả, có thể lựa chọn rất nhiều thủ đoạn, phương pháp, con đường. Mao Trạch Đông chỉ tin vào con đường cũ, không “nhất đại, nhị công” (lời khái quát của Mao, ý nói: một là quy mô lớn, hai là công hữu hoá - Người dịch) thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Thay đổi thủ đoạn coi như vứt bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đặng thì cho rằng để đạt tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa có nhiều thủ đoạn, rút cục thủ đoạn nào là tốt nhất, cần xem hiệu quả thực tế của nó.
Có người chỉ trích “lý luận con mèo” không chọn thủ đoạn. Sao “lý luận con mèo” lại không chọn thủ đoạn? Chọn mèo thì xem nó có bắt được chuột không, đó chẳng phải là chọn thủ đoạn sao? Về mặt bắt chuột, thì mầu lông và tiếng kêu của Mèo không cần phải lựa chọn. Có thể là trong những trường hợp khác, mầu lông quan trọng hơn là bắt được chuột, thí dụ tầng lớp giàu có nhàn hạ nuôi vật cảnh thì cần chọn mầu lông. Nhưng đó lại thuộc hệ thống đánh giá khác. Điều quan trọng là nông dân Trung quốc hiện thời chưa có cơ sở vật chất để nuôi mèo từ góc độ thẩm mỹ, cái cấp bách trước mắt là giành lại lương thực khỏi miệng chuột, chứ không phải để nuôi mèo nhàn, mèo lười.
“Lý luận con mèo” thể hiện quy luật sinh tồn thiêng liêng: Chú trọng thực tế. Dù người khác hiểu thế nào, tình đời lúc hưởng ứng, lúc dè bỉu ra sao, “lý luận con mèo” vẫn giữ nguyên bản sắc: “Chúng ta suốt đời nói chủ nghĩa Mác, kỳ thực chủ nghĩa Mác không có gì huyền bí, chủ nghĩa Mác là cái rất đơn giản, là lý lẽ rất đơn giản” “Lý luận con mèo” với sức mạnh lô gích đơn giản, sáng rõ không gì chống nổi đã mở rộng cánh cửa giải phóng tư tưởng, cải cách và mở cửa.
“Lý luận con mèo” tuyên bố thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm tra chân lý: Loại mèo nào đó có đáng nuôi không, then chốt không phải là xem nó có mầu lông gì cũng không phải xem nó do ai chọn, mà xem thực tiễn bắt chuột của nó. Thực tiễn chứng minh nó bắt được chuột thì nó là mèo tốt, đáng nuôi; thực tiễn chứng minh nó không bắt được chuột thì cho qủy tha ma bắt nó đi.
“Lý luận con mèo” tuyên bố. Có lợi hay không có lợi cho phát triển sức sản xuất, là tiêu chuẩn chú yếu để phán đoán là xã hội chú nghĩa hay tư bản chủ nghĩa: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ trung tâm là phát triển sức sản xuất xã hội, mọi phương pháp có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội, bao gồm lợi dụng nguồn vốn và kỹ thuật nước ngoài, chúng ta đều áp dụng. “Rất nhiều người trong số họ (chỉ thế giới thứ ba) muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôi khuyên họ nên căn cứ vào tình hình của mình mà làm, muốn gọi là gì cũng được, miễn sao phát triển được sức sản xuất là tốt” (Ngày 16.9.1989, Đặng nói chuyện với vợ chồng Lý Chính Đạo).
Phóng viên Thời báo New York Bua Xơphi cho rằng “Lý luận con mèo rõ ràng có nghĩa là “Để cho Trung quốc năm 2000 đạt tới kỹ thuật hợp lý hóa, chuẩn bị tiếp thu kỹ thuật biện pháp, phát minh sáng tạo và ý kiến bất kỳ từ đâu tới nếu phương pháp đó yêu cầu vứt bỏ công xã của Mao và thay vào đó là phương pháp canh tác và thu hoạch cá nhân, thì cũng làm như vậy”.
“Llý luận con mèo” là cơ sở lý luận để Đặng thiết kế chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc, cũng là xuất phát điểm toàn bộ trí tuệ mưu lược của ông.

2.2. Chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc
Sau khi thời đại Đặng Tiểu Bình được xác định, vẫn tồn tại hai vấn đề: Có cần xây dựng chú nghĩa xã hội không và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào. Đặng “nhiều lần nhắc lại là phải kiên trì chủ nghĩa Mác, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, nhưng chủ nghĩa Mác phải là chủ nghĩa Mác được kết hợp với thực tế Trung quốc, chủ nghĩa xã hội phải là chủ nghĩa thích hợp với thực tế Trung quốc, mang mầu sắc Trung quốc” Đặng cho rằng con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc riêng của Trung quốc do ông đề ra và con đường lấy nông thôn bao vây thành thi do Mao Trạch Đông đề ra đều là kết quả việc kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với thực tế Trung quốc đi theo con đường của mình. Để tăng thêm sức nặng cho lý luận mới, Đặng còn so sánh một cách sâu xa Đại hội VII đã xác định địa vị lịch sử của Mao Trạch Đông,với Đại hội XII đã xác lập ịnh địa vị lịch sử của Đặng Tiểu Bình.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần đi theo con đường của mình, xây dựng một chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc riêng của Trung quốc, có căn cứ lập luận rằng chủ nghĩa xã hội không có một mô thức cố định. Đặng từng nói với Tổng thống Môdămbích Xila Nua: “Mọi vấn đề trên thế giới không thể chỉ dùng một mô thức để giải quyết. Trung quốc có mô thức của riêng Trung quốc, Môdămbích cũng nên có mô thức của riêng Môdămbích. Nói một cách thẳng thắn, trước kia chúng tôi học theo mô thức chủ nghĩa xã hội của Liên xô, đã gây ra rất nhiều chuyện”. Ở một mức độ nhất định, Mao Trạch Đông vì muốn tránh mô thức của Liên xô nên đã làm cách mạng văn hóa. Đại cách mạng văn hóa cũng là một mô thức xã hội chủ nghĩa, nhưng nó là một mô thức “tả” nhất trong phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới. Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa XI do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo, đã triệt để vứt bỏ mô thức cách mạng văn hóa.
Sau khi phủ định mô hình cách mạng văn hóa, thì hoàn toàn khôi phục mô hình Liên xô hay sẽ đi tìm con đường mới, cũng vứt bỏ mô hình Liên xô. Đó là một vấn đề lớn. Hai phái cải cách và thủ cựu trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung quốc trên thực tế đã tranh luận về việc tiếp tục đi theo mô hình Liên xô hay đi theo con đường của mình. Tư tưởng tả lúc dầu giữ khư khư mô hình cách mạng văn hóa, sau lại cố chấp duy trì mô hình Liên xô. Đặng Tiểu Bình cho rằng dù mô hình Mao Trạch Đông hay mô hình Xtalin, sự thực chứng minh rằng đều không thành công. Sau khi đã chia tay với mô thức cách mạng văn hóa, lại chia tay với mô hình Liên xô, cuối cùng đã đưa ra được một loạt chính sách cải cách và mở cửa.
Chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc đã khái quát toàn bộ hoạt động thực tiễn của người Trung quốc trong thời đại Đặng Tiểu Bình và đã trở thành tên gọi lý luận của Đặng. Nhưng rút cục thế nào là chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc? Ngoài việc nhấn mạnh việc phát triển sức sản xuất, Đặng không đưa ra nhiều quy định khác. Điều này tỏ rõ bản thân chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc cũng không có mô hình cố định bất biến, nếu cứ muốn gọi là mô hình, thì có thể nói đó là một loại mô hình không cần có mô hình cố định nào. Điều theo đuổi duy nhất của nó là phát triển sức sản xuất hết sức nhanh, còn mọi điều khác đều có thể bàn. Dung lượng của mô hình đó đủ để dung nạp mọi cái có ích cho chúng ta từ trong chủ nghĩa tư bản thậm chí có thể giao thoa với khái niệm “chủ nghĩa tư bản mang mầu sắc riêng của Trung quốc”.
Ý nghĩa của chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc không phải ở chỗ nó phát minh một định nghĩa gì mới về chủ nghĩa xã hội, mà ờ chỗ nó là một ngọn cờ độc lập tự chủ, không bị bất kỳ sự gò bó nào, tự đi theo con đường phát triển riêng của người Trung quốc. Giương cao ngọn cờ đó có thể khiến Trung quốc không bị phụ thuộc vào cực nào trong thế giới hai cực, giữ được cá tính trong hành động của Trung quốc. Nếu Trung quốc vứt bỏ chủ nghĩa xã hội mà xây dựng chủ nghĩa tư bản thì như Đặng đã nói, Trung quốc sẽ trở thành nước phụ thuộc vào các quốc gia phương Tây, vì chủ nghĩa tư bản ở Trung quốc phát triển sau phương Tây. Mặt khác, nếu chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc không có mầu sắc riêng của mình mà sao chép ở Liên xô, thì Trung quốc sẽ là vật phụ thuộc của Liên xô, vì chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc được xây dựng sau Liên xô, Vừa kiên trì chủ nghĩa xã hội, lại vừa nhấn mạnh mầu sắc riêng của Trung quốc, có thể khiến Trung quốc không bị Phía nào chi phối, đồng thời lại có thể tiếp xúc với hạn độ lớn nhất với một khía cạnh nào dó; trong khi tiếp xúc có thể từ chối mọi cái bất lợi cho mình và tiếp nhận mọi cái có lợi cho mình.
Chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc không những có tính tự chủ cao độ, mà còn có tính linh hoạt cực lớn có thể đối phó với khó khăn từ hai phía tả hữu. Nếu các vi ở phía tả chất vấn: Các anh làm thế này rút cục là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản? Đặng có thể trả lời: Là chủ nghĩa xã hội, nhưng mang mầu sắc Trung quốc. Nếu phần tử tự do chủ nghĩa muốn mượn cớ mầu sắc riêng của Trung quốc để làm bậy, Đặng có thể nhắc nhở: Chúng tôi là chủ nghĩa xã hội, không cho phép tự do hóa tư sản.

2.3. Đặng khái quát nhiệm vụ của Trung quốc trong một thời gian lịch sử tương đối dài. Từ nay về sau bằng một câu nói, đó là: Xây dựng hiện đại hoá
Đầu năm 1979, cuộc đấu tranh với phái “phàm là” giành được thắng lợi quyết định, Đặng Tiểu Bình không để lỡ thời cơ, tuyên bố. Phong trào quần chúng vạch trần phê phán Lâm Bưu, “nhóm bốn tên” “đã kết thúc thắng lợi”, trọng điểm công tác của toàn đảng và sức chú ý của toàn dân “từ năm nay nên chuyển sang xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa”
Việc di chuyển lớn về trọng tâm chiến lược là thành quả to lớn của việc triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khoá XI và hội nghị công tác trung ương trước đó Chương trình làm việc của hội nghị công tác trung ương do Hoa Quốc Phong định ra trước đó là bàn về công tác kinh tế. Đặng dề xuất vấn đề di chuyển trọng điểm được các ủy viên thường vụ nhất trí tán thành, Hoa không thể không đồng ý. Hoa thậm chí cho rằng tập trung tinh lực làm kinh tế càng tiện cho việc nêu chỉ tiêu cao mà ông ta từng ôm ấp, nên đề nghị của Đặng được coi là tư tưởng trung tâm của hội nghị và được thảo luận trước trong ba vấn đề kinh tế. Hoa không hiểu được rằng đề nghi về di chuyển trọng tâm của Đặng chỉ có thể thực hiện được khi phải sửa chữa sai lầm tả khuynh tồn tại từ nhiều năm nay. Kết quả là việc thảo luận về trọng điểm công tác đã dẫn tới những ý kiến gay gắt của các nhân vật cũ như Trần Vân là người kịch liệt phê phán sai lầm của cách mạng văn hóa và sai lầm cuối đời Mao Trạch Đông, do đó mà làm xoay chuyển phương hướng của hội nghị, biến hội nghị từ chỗ chỉ đơn thuần thảo luận vấn đề kinh tế sang chỗ bàn về dẹp loạn, trở lại ổn định và mở ra cục diện mới trên toàn cục. Trong phiên bế mạc, Đặng đã phát biểu bài nói mang tính kết luận là “Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, đoàn kết nhất trí nhìn về phía trước”. Tiếp ngay sau đó, hội nghị toàn thể Trung ương được triệu tập đã căn cứ tinh thần bài nói của Đặng, nghiêm túc thanh toán sai lầm tả khuynh trong tư tưởng chỉ đạo của Mao Trạch Đông từ 1957 đến nay, đặc biệt là trong cách mạng văn hóa. Sai lầm tả khuynh của Hoa từ sau khi đập tan “nhóm bốn tên” tự nhiên cũng nằm trong số bị phê phán. Trên cơ sở tổng kết bài học lịch sử, Hội nghị toàn thể đã đề ra phương châm cải cách mở cửa trong thời kỳ mới, xác định địa vi chỉ đạo của tư tưởng Đặng Tiểu Bình. Chính trên cơ sở đó, hội nghị toàn thể đã đưa ra quyết sách chuyển trọng điểm chiến lược từ vạch trần, phê phán “nhóm bốn tên” sang xây dựng hiện đại hóa.
Đặng coi Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba là bước ngoặt lịch sử. Ông nói: “Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ ba không những đã giải quyết vấn đề 10 năm cách mạng văn hóa, mà trên một trình độ cao, đã giải quyết vấn đề trong hơn hai mươi năm” Từ Đại hội VIII, đã đề ra mâu thuẫn giữa chế độ xã hội tiên tiến và sức sản xuất lạc hậu là mâu thuẫn chủ yếu, thực chất đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển kinh tế văn hóa với tốc độ nhanh với tình trạng kinh tế văn hóa không thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân. Xác định mâu thuẫn chủ yếu như vậy, thì nhiệm vụ trung tâm của toàn dân tự nhiên là phát triển sức sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân. Nhưng đường lối của Đại hội VIII không được quán triệt chấp hành. Nguyên nhân là do chủ tịch đảng Mao Trạch Đông từ cuộc chống phái hữu năm 1957 không ngừng nêu bật tầm quan trọng của cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp, hai đường lối. Phong trào công xã nhân dân là cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, đại cách mạng văn hóa là cuộc đại cách mạng trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, việc phát triển sức sản xuất bị coi nhẹ trong một thời gian dài. Trong cách mạng văn hóa, “phái tả luôn coi việc giải phóng toàn nhân loại là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng, nhưng Đặng Tiểu Bình lại nhấn mạnh việc giải phóng sức sản xuất là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng” Cuộc đấu tranh giữa hai đường lối mà Mao Trạch Đông đẩy lên rất cao trên thực tế là sự bất đồng giữa chủ trương coi đấu tranh giai cấp là chủ yếu hay lấy việc phát triển sức sản xuất là trung tâm. Vì vậy, bước ngoặt mà Hội nghị toàn thể Trung ương ba hoàn thành, không phải là sự di chuyển trọng điểm công tác nói chung, mà là “sự chuyển đổi từ lấy đấu tranh giai cấp làm chủ yếu chuyển sang lấy phát triển sức sản xuất làm trung tâm, từ đóng cửa chuyển sang mở cửa, từ bảo thủ cứng nhắc chuyển sang cải cách về các mặt”. Nói đó là bước ngoặt có tính chất vạch thời đại cũng không có gì là quá đáng.
Sau Hội nghị toàn thể Trung ương ba, Đặng Tiểu Bình khái quát nhiệm vụ chủ yếu của Trung quốc trước mắt và trong một thời kỳ lịch sử tương đối dài bằng một câu, đó là: xây dựng hiện đại hóa, là nhiệm vụ chính trị lớn nhất trước mặt của chúng ta. Đặng áp dụng phương pháp truyền thống để luận chứng về cương lĩnh mới của ông: “Trình độ phát triển sức sản xuất của chúng ta rất thấp, còn xa mới thoả mãn được nhu cầu của nhân dân và nhà nước, đó là mâu thuẫn chủ yếu trước mắt của chúng ta, giải quyết mâu thuẫn chủ yếu này là nhiệm vụ trung tâm của chúng ta”4. Do đó, nhân dân Trung quốc đã kết thúc thờ đại hàng ngày, hàng tháng, hàng năm đều nói đấu tranh giai cấp, bắt đầu thời đại dĩ hoà vi quý, dĩ dân vi bản, dĩ thực vi tiên.

2.4. Sau khi xem xong “Dự thảo đề cương báo cáo trước đại hội lần thứ XIII”, Đặng đã phê: “Bản thiết kế này tốt”
Nếu nói “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc” là định vi không gian của Đặng về chủ nghĩa xã hội, thì “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” là định vi thời gian của Đặng về chủ nghĩa xã hội.
Ngày 21.3.1987, những người khởi thảo báo cáo Đại hội lần thứ XIII đưa trình Đặng bản “Dự thảo đề cương báo cáo trước Đại hội lần thứ XIII”, đã lấy giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội làm căn cứ lập luận cho toàn bộ báo cáo, để thuyết minh chiến lược phát triển kinh tế và cải cách thể chế kinh tế, chính trị. Đặng xem xong liền phê: “Bản thiết kế này tốt”.
Bản thiết kế này tốt, giống như “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc” là vừa có hiệu lực chống tả, vừa có hiệu lực chống hữu. Giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, khái niệm ấy có hai hàm nghĩa:
- Một là, Trung quốc đã là một xã hội xã hội chủ nghĩa, không thể tách rời con đường xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, Trung quốc vẫn còn trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, không thể vượt khỏi thực tế của giai đoạn đầu.
Đặng từng phát hiện: “Có một số ít đồng chí cho rằng, xã hội của chúng ta có phải là xã hội xã hội chủ nghĩa không, có nên và có thể thực hiện chú nghĩa xã hội không, thậm chí đảng chúng ta có phải là đảng vô sản không. Tất cả đều là vấn đề”. Trả lời ý đầu tiên trong cách đề xuất trên là không khó. Chủ nghĩa xã hội của Trung quốc dù thấp như thế nào thì vẫn là chủ nghĩa xã hội, dù nó có thấp hơn chủ nghĩa tư bản một bước, thì Đặng vẫn bảo lưu sự khác nhau đó, nếu không như vậy thì đề xuất giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội sẽ không có ý nghĩa gì.
Các đồng chí đó thấy sự miêu tả về giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội trong báo cáo không khác bao nhiêu với chủ nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông thì thất vọng, than thở: “Vất vả mấy chục năm, lại trở về thời kỳ trước cải tạo”. Kỳ thực, đó cũng là một sự hiểu sai. Lùi hay không không phải ở tên gọi, mà giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội chỉ là gọi đúng tên chủ nghĩa xã hội hiện thực. Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành. Chỉ có dùng giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội để xác định tính chất và trình độ phát triển hiện nay của xã hội Trung quốc thì mới có thể kiên trì một cách danh chính ngôn thuận việc cải cách và mở cửa trong gần 10 năm nay.
“Bản thân chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, mà Trung quốc chúng ta lại ở vào giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” Đề xuất vấn đề như vậy, chủ yếu là nhằm vào bệnh nóng vội tả khuynh muốn đốt cháy giai đoạn tồn tại trong một thời gian dài. Đặng phát hiện những người cách mạng rất dễ mắc bệnh nôn nóng, Trung quốc trước kia đã phạm sai lầm nôn nóng, từ năm 1957 đã bắt đầu tả, đại cách mạng văn hoá là cực tả. Một trong những biểu hiện tả là “những chính sách định ra đã vượt khỏi giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”
Tại sao Trung quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục mà vẫn trong giai đoạn đầu? là bởi vì sức sản xuất không phát triển, một nghèo hai trắng. Nghèo khổ tuyệt đối không phải là chủ nghĩa xã hội. “Tuy nói chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng thực tế vẫn chưa đúng”. Cho tới tận cuối thế kỷ này, chúng ta vẫn ở trong giai đoạn thoát ra khỏi nghèo nàn”. chỉ tới giữa thế kỷ sau, đạt tới trình độ một nước phát triển trung bình, mới có thể nói là thực sự có chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn chưa phát triển là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, đạt tới trình độ nước phát triển trung bình, đại thể có thể tính là giai đoạn giữa của chủ nghĩa xã hội, muốn đạt tới trình độ nước phát triển, còn cần bao nhiêu năm nữa? Lúc đó sẽ là giai đoạn cao của chủ nghĩa xã hội. Mà đạt tới giai đoạn cao của chủ nghĩa xã hội, cũng vẫn là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, chứ chưa phải là xã hội cộng sản. Xem ra, lý tưởng cộng sản vẫn ở bờ bên kia, điều đó làm cho người ta thấy quá mệt mỏi. Nhưng cũng có điểm tốt: Không bị những nguyên tắc của xã hội lý tưởng còn lâu mới đạt tới được ấy làm nhiễu mà đứng vững chân trên mảnh đất hiện thực. Vì hiện nay vẫn còn ở giai đoạn đầu của giai đoạn thấp, nên mọi nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, phi cộng sản chủ nghĩa, nếu có lợi cho việc phát triển sức sản xuất thì đều có lý do tồn tại. Điều này rõ chân trên mảnh đất hiện thực. Vì hiện nay vẫn còn ở giai đoạn đầu của giai đoạn thấp, nên mọi nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, phi cộng sản chủ nghĩa, nếu có lợi cho việc phát triển sức sản xuất thì đều có lý do tồn tại. Điều này rõ ràng là sự phủ định căn bản đối với mô hình thuần túy xã hội chủ nghĩa mà trước kia đã cố tình theo đuổi trong một thời gian dài.

2.5. Với chủ nghĩa xã hội, trước kia chúng ta không làm rõ, nay Đặng đã làm rõ: “Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội không phải là nghèo, mà là giàu”
Đặng nói, với chủ nghĩa xã hội, trước kia chúng ta không làm rõ. Nay Đặng đã làm rõ: “Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội không phải là nghèo, mà là giàu”.
Đặng có thể dùng một chữ “giàu” để định nghĩa chủ nghĩa xã hội, cương lĩnh thực hành chính trị của ông là trị tận gốc bệnh nghèo nàn, làm cho nước giàu, dân giàu. Khi phê phán làn gió lật án hữu khuynh của Đặng, “nhóm bốn tên” vu cáo một cách ghê sợ: “Đặng Tiểu Bình lên đài thì hàng triệu, hàng chục triệu đầu người sẽ rơi xuống đất”. Quần chúng hiểu rõ Đặng liền đổi “đầu người” thành “đầu lợn”, đổi câu nói thành: Đặng Tiểu Bình lên đài thì hàng triệu, hàng chục triệu đầu lợn sẽ rơi xuống đất”, ý nói Đặng lên đài thì nhân dân sẽ có thịt ăn, đời sống sẽ giàu có lên. Tại sao Đặng bị đánh hai lần mà không đổ? Bởi vì lý luận về làm cho nước giàu, dân giàu đã đi sâu vào lòng người.
Sự phát triển lớn nhất của Đặng đối với tư tưởng Mao Trạch Đông là đã liên hệ chặt chẽ chữ “giàu” với nguyên tắc thiêng liêng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội theo mô hình cách mạng văn hóa, nói toạc ra là “muốn mọi người yên tâm với nghèo nàn lạc hậư” Phái tả tạo nên một không khí: Nghèo là vinh dự, giàu là có tội. Họ cho rằng nghèo tốt hơn giàu. Đương nhiên, không phải là chống lại việc đất nước giàu mạnh, nhưng họ cảm thấy nhân dân không nên giàu quá. Lý do là con người, loại quái vật đó càng nghèo thì càng cách mạng, càng giàu thì càng phản động (biến thành xét lại). Để bảo đảm cho tiềm lực cách mạng vĩnh viễn không bị khô kiệt, cần phải thực hiện chính sách làm nghèo dân. Kết quả là càng nghèo càng cách mạng, càng cách mạng càng nghèo, cách mạng khiến dân nghèo, nước cũng nghèo. Đặng tin rằng dân giàu thì nước mới mạnh, vì vậy ông không sợ dân giàu lên mà khuyến khích nhân dân làm giàu, tuyên bố “làm giàu không phải là tội lỗi”. chính sách làm cho dân giàu đó, chưa nói tới việc làm cho một số người giàu lên trước, mà chỉ “cho nhân dân giàu cũng đã là một sự đổi mới quan trọng, là sự phủ định căn bản với mô hình chủ nghĩa xã hội nghèo nàn của “cách mạng văn hóa”, là sự đoạn tuyệt triệt để với quan điểm giá trị an bần lạc đạo từ mấy ngàn năm nay.
Từ kinh nghiệm 20 năm 1958.1978, chúng ta được biết: “Nghèo nàn không phải là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội cần tiêu diệt nghèo nàn”.
Những lý lẽ mà ông Đặng nhắc đến, có thể tìm thấy trong giáo trình của học sinh trung học: Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cộng sản là xã hội mà sản phẩm vật chất cực kỳ dồi dào. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của chủ nghĩa xã hội là phát triển sức sản xuất, làm cho sản phẩm xã hội không ngừng tăng lên, đời sống của nhân dân ngày càng tốt lên, tạo điều kiện để tiến sang xã hội cộng sản. Thời kỳ cách mạng văn hóa, “nhóm bốn tên” đề xuất thà là chủ nghĩa xã hội nghèo nàn, còn hơn chủ nghĩa tư bản giàu có. Đặng giận dữ bài xích: “Thật là cực kỳ nhảm nhí? Sao có thể có thứ chủ nghĩa xã hội nghèo?” “Nếu chủ nghĩa xã hội cứ nghèo nàn mãi thì nó không thể đứng vững được” Theo Đặng, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trước hết biểu hiện ở tốc độ và hiệu quả phát triển kinh tế. Không có điều đó, thì khoác lác cũng không có tác dụng gì. “Nếu trong một thời kỳ lịch sử rất dài, tốc độ phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa chậm hơn các nước tư bản chủ nghĩa, thì còn nói gì đến tính ưu việt nữa” Đặng cảm thấy đau lòng trước tình trạng Trung quốc trong một thời gian dài ở trong cảnh nghèo nàn, đình trệ. Một lần, ông nói với Kim Nhật Thành: “Chúng ta đã làm cách mạng mấy chục năm, xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn 30 năm, mãi tới năm 1978, lương tháng bình quân của công nhân chỉ có 40,50 đồng, đại đa số nông thôn vẫn trong tình trạng nghèo nàn, thì gọi thế nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội”. Ngược lại với cách làm của Mao Trạch Đông luôn động viên các nước thuộc thế giới thứ ba xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đặng nhiều lần khuyến cáo người lãnh đạo các nước đó: “Ngày nay, không nên vội xây dựng chủ nghĩa xã hội”, sau khi cách mạng thắng lợi, không nên xây dựng ngay chủ nghĩa xã hội. Xem ra, Đặng tán thành quan điểm của Lưu Thiếu Kỳ là “củng cố trật tự chủ nghĩa dân chủ mới”. Sau khi cách mạng thắng lợi, Trung quốc không dừng bao lâu ở giai đoạn dân chủ mới mà vội vàng tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đặng tỏ ra ít nhiều hối tiếc. Nay Trung quốc đã xây dựng chủ nghĩa xã hội hai ba mươi năm, dù làm không tốt, cũng không thể lui lại được. Biện pháp duy nhất là trong cái khung xã hội chủ nghĩa, phải phát triển sức sản xuất, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, tiến lên giàu sang, làm cho chủ nghĩa xã hội còn chưa hợp cách trở thành hợp cách. Cho nên Đặng nhấn mạnh nhiều lần: Phát triển sức sản xuất là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chủ nghĩa xã hội, là “nhiệm vụ trung tâm trong toàn bộ giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa xã hội”.
Đặng còn vô cùng đau đớn phê bình Mao Trạch Đông là một lãnh tụ vĩ đại “có một khuyết điểm lớn, là coi nhẹ phát triển sức sản xuất”.

2.6. Trong mười mấy năm nay, tổng thiết kế sư đã khéo léo thiết kế ra nhiều tác phẩm hấp dẫn trong đó tác phẩm hùng vĩ nhất là mục tiêu chiến lược “đi làm ba bước”
Từ ngày nắm chính quyền đến nay, ông Đặng không tiếp nhận một danh hiệu nào kiểu như người cầm cờ, người cầm lái, thống soái, người thầy, mà chỉ giữ một tên gọi có tính kỹ thuật là tổng thiết kế sư. Nếu nói rằng việc xây dựng hiện đại hóa của Trung quốc là một công trình về hệ thống xã hội phức tạp cần có một người bố cục tổng thể về chiến lược, thì tác dụng của ông Đặng đúng là tương đương với vị tổng thiết kế sư đó.
Trong mười mấy năm nay, tổng thiết kế sư đã khéo léo thiết kế ra nhiều tác phẩm hấp dẫn trong đó tác phẩm hùng vĩ nhất là mục tiêu chiến lược “đi làm ba bước”. Bước thứ nhất, những năm 80 sẽ tăng gấp đôi tổng sản lượng, sản phẩm quốc dân bình quân đầu người đạt tới 500 đô la. Bước thứ hai, đến cuối thế kỷ, lại tăng gấp đôi tổng sản lượng sản phẩm quốc dân bình quân đạt 1000 đô la. Bước thứ ba, đến giữa thế kỷ sau, lại tăng gấp bốn lần, đạt tới 4000 đô la.
Ba bước cần tới 70 năm, tính từ cơ số ban đầu tăng lên 16 lần, sản phẩm bình quân tăng 16 lần, 16 lần là một con số kinh người. Bấy nhiêu đô la có nghĩa thế nào? Đặng diễn đạt hàm nghĩa của những con số bằng hình thức mà những người dân bình thường thích nghe: Bước thứ nhất giải quyết vấn đề ăn no mặc ấm. Bước thứ hai là xã hội ở mức trung lưu có mức sống thoải mái. Bước thứ ba đạt tới trình độ nước phát triển trung bình, có một vai trò nhất định trên thế giới.
Thiết kế tổng thể về chiến lược có tầm quan trọng lớn lao đối với việc tiếp cận giá trị của hệ thống lớn phức tạp. Nhiều thiết kế khác của ông đều lấy tổng thiết kế này làm căn cứ, thí dụ như Hương Cảng trở về với Trung quốc trong 50 năm không thay đổi, chống tự do hóa tư sản ít nhất phải tiến hành 50 năm, đường lối cơ bản 100 năm không thay đổi, giáo dục phải “hướng về ba mặt” (tức: hướng về hiện đại hóa, hướng ra thế giới, hướng về tương lai - Người dịch), khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất...
Thiết kế của Đặng lấy “giá trị sản lượng quốc dân” tính theo đồng đô la làm chỉ tiêu. Do đó bức vẽ được đưa ra khác với trước nhiều. Chiến lược phát triển trước kia dùng “giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp”, đơn thuần nhấn mạnh sản lượng của sản phẩm chủ yếu và thứ tự của nó trên thế giới, coi thường hai tham số quan trọng là hiệu quả kinh tế và mức sống nhân dân, có lúc giá trị sản lượng tăng lên nhưng không tiến được bao nhiêu về hiện đại hóa, có lúc còn không phát triển theo hướng hiện đại hóa. “Tổng giá trị sản lượng tính theo đầu người” phản ánh toàn diện tổng thể đời sống nhân dân bao gồm phúc lợi vật chất và phúc lợi phi vật chất như giáo dục văn hóa tinh thần và sử dụng thời gian nhàn rỗi. Quan trọng hơn là phương pháp này “đã liên hệ chặt chẽ giá trị sản lượng bình quân đầu người và hệ số tăng trưởng cao với sự cải biến kết cấu kinh tế” Đặng dùng “tổng giá trị sản lượng bình quân đầu người “làm thước đo đánh giá trình độ phát triển hiện đại hóa của Trung quốc, coi như đã coi hiệu cluả kinh tế và mức sống của nhân dân chiếm địa vị chiến lược. Trung quốc đáng tự hào vì có sản phẩm phong phú, nhưng vì nhân khẩu đông nên trữ lượng tài nguyên bình quân đầu người kém xa các nước phát triển, do đó biện pháp không tính đến lượng tiêu hao đơn thuần đưa vào sản xuất dù sao cũng không theo kịp các nước phát triển, chỉ có việc nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở tiến bộ khoa học kỹ thuật và cải cách cơ cấu mới mong đưa thực lực kinh tế của Trung quốc vào hàng ngũ các nước tiên tiến trên thế giới. Ông đặc biệt chú trọng nhân tố hiệu quả kinh tế, có thể coi là đã tìm thấy phương pháp duy nhất để hiện đại hóa Trung quốc. Định ra nhân tố mức sống nhân dân, phản ánh mục tiêu cuối cùng của ông Đặng là phú quốc lợi dân trong đồ án hiện đại hóa của mình, để có thể động viên tới hạn độ lớn nhất tính tích cực và tính sáng tạo của nhân dân. Nhấn mạnh “bình quân đầu người” là đã suy nghĩ đầy đủ về đặc điểm đông dân của Trung quốc; còn tính toán theo đồng đô la để càng tiện cho việc so sánh trên quốc tế. Chiến lược phát triển được thiết kế như thế, lấy việc hiện đại hóa trên thế giới làm hệ tham chiếu, khiến cho Trung quốc tự định vị được rõ ràng và mục tiêu phấn đấu rõ ràng, đó đúng là một tác phẩm thượng thặng. Dự thảo chiến lược “hiện đại hóa trong 70 năm” so sánh với khẩu hiệu hùng tâm tráng chí “vượt Anh kịp Mỹ trong 15 năm” đề ra vào thập kỷ 50, không biết là “bảo thủ” hơn bao nhiêu lần. So với mục tiêu hùng vĩ của thập kỷ 60 là hoàn thành hiện đại hóa trong thế kỷ này thì thời gian biểu của Đặng vừa đúng chậm một nửa thế kỷ. Trong quá trình thiết kế, Đặng đã sửa “tiếp cận trình độ các nước phát triển” thành “đạt mức các nước phát triển trung bình, dự tính “từ 80 đến 50 năm” thành “50 năm”. “Giọng điệu thấp” đó của Đặng là rút từ bài học kinh tế hiện đại hóa của Trung quốc, tính toán đầy đủ đến tình hình thực tế Trung quốc: “Trung quốc lạc hậu về khoa học kỹ thuật, có nhiều khó khăn, đặc biệt là nhân khẩu quá đông, hiện tại đã là 1.050 triệu, rất khó tăng thu nhập, rất khó thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu trong một thời gian ngắn, tất cả phải xuất phát từ thực tế, không nên đặt mục tiêu không phù hợp thực tế, cũng không nên định trong một thời gian quá ngắn” Đặng có nguyên tắc làm quy hoạch: Với kế hoạch dài hạn 70 năm cần có khoảng cơ động, với. kế hoạch ngắn hạn và trung hạn 10 năm, 20 năm có thể tích cực hơn, nhưng cũng cần có khoảng cơ động. Giữ khoảng cơ động là để giữ “ổn định, vững chắc” là một trận pháp giữ chắc, đánh chắc.
Thiết kế của Đặng vốn dự định “đi làm hai bước”, lấy năm 2000 làm điểm khởi đầu, 20 năm trước để đặt cơ sở cho nửa thế kỷ sau. Để cho bước thứ nhất được chặt chẽ, gấp rút, chắc chắn, Đặng chia bước thứ nhất ban đầu thành hai bước nhỏ, để không thể chần chừ “ngày mai rồi lại ngày mai”. Bước thứ nhất giải quyết vấn đề cơm no áo ấm, câu nói đó nghe ra như “bôi nhọ” chủ nghĩa xã hội, đã xây dựng chủ nghĩa xã hội 80 năm mà đến vấn đề cơm no áo ấm cũng chưa giải quyết xong. Nhưng Đặng dám nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận lạc hậu vì chỉ có như vậy mới có cảm giác cần gấp rút. Giải quyết vấn đề cơm no áo ấm phải mất thời gian 10 năm. 10 năm này là để đặt cơ sở cho 10 năm sau, trước hết phải no bụng đã rồi mới mong phát triển được. Mục tiêu 10 năm sau là sống đời sống no đủ và có chút dư thừa. Hai bước đầu đó đều chỉ để giải quyết nghèo nàn, tiến tới giàu có. Còn cần trên cơ sở đó, phấn đấu thêm 50 năm nữa để đạt tới trình độ của nước phát triển trung bình. Viễn cảnh của ba bước đó thật xa vời và gian khổ, nhưng Đặng đã xác định mục tiêu gắn nó với cuộc sống no ấm, thoải mái. Nhân dân đã nghe chán khẩu hiệu “Giải phóng toàn nhân loại”, nay nghe thấy chuyện “no ấm”, “thoải mái “ thì không thể không cảm thấy gần gũi, hấp dẫn.
Đến nửa thế kỷ sau, nếu Trung quốc đạt tới trình độ của một nước phát triển trung bình như lời ông Đặng nói, thì sẽ có nghĩa thế nào. Ông Đặng đưa ra hai cách tính toán. Một là, sản lượng bình quân đầu người là 4000 đô la, con số này đối với các nước phát triển thì chưa đáng kể gì, nhưng Trung quốc thực hiện chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa, số 4000 đô la bình quân đầu người sẽ khiến cuộc sống của mỗi người khá hơn ở các nước tư bản nhiều. Hai là, Trung quốc đông dân, lúc đó có thể có tới 1,5 tỷ người. Bình quân 4000 đô la, tổng số sẽ là 6 nghìn tỷ.đô la, chiếm hàng đầu thế giới. Bất kỳ là về bình quân đầu người hay về sức mạnh tổng hợp của quốc gia, đạt tới trình độ phát triển trung bình, dù còn kém các nước phát triển, nhưng công cuộc hiện đại hóa mang mầu sắc Trung quốc vẫn là hợp cách. Đi tới bước đó phải mất 70 năm, nếu tính từ khi Đảng Cộng sản cầm quyền, vừa chẵn 100 năm, nếu tính từ khi bắt đầu thời cận đại của Trung quốc, thì là 200 năm. Đặng quyết tâm biến mộng tưởng phục hưng Trung quốc từ 200 năm nay thành hiện thực, ý nghĩa của nó khẳng định không thua kém việc lật đổ ba trái núi lớn (chỉ đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu, ba đối tượng của giai đoạn cách mạng dân chủ Trung quốc - Người dịch).

2.7. Công việc này phải cố bám chắc không buông, không được để lỡ một ngày nào
Bốn hiện đại hóa, xây dựng kinh tế, sức sản xuất, ba cái đó thường được ông Đặng nhấn mạnh như một. Những từ mà ông Đặng dùng để nhấn mạnh thường là: Trung tâm, hạt nhân, trọng điểm, đại cục, tổng nhiệm vụ, nhiệm vụ chủ yếu, mâu thuẫn chủ yếu, khâu căn bản v.v... Còn đối với nhiệm vụ trung tâm như thế nào thì những từ mà Đặng dùng càng phong phú: “Coi xây dựng hiện đại hóa, nô lực phát triển sức sản xuất xã hội là nhiệm vụ trung tâm nổi bật tất cả. Đường lối chính trị trong giai đoạn hiện nay của đảng ta, nói khái quát, là một lòng một dạ làm bốn hiện đại hóa.
“Việc đó không lúc nào được làm nhiễu, cần phải kiên định, một lòng một dạ làm cho được.
“Việc đó nhất định phải bám chắc không buông, không được để lỡ một ngày nào”.
“Trước sau phải bám chắc khâu này không buông.” “Bám chắc không buông. Cần ngoan cường, không được dao động.
“Bám chắc”, lời đó phản ánh đúng nhất tính cách của ông Đặng: Đã nhìn rõ rồi thì bám chắc không buông. Tại sao không nói “nắm chắc” mà lại nói “bám chắc”?. Có người tra từ điển phát hiện thấy “nắm chắc” chỉ có nghĩa là “cầm chắc”, còn “bám chắc” thi ngoài ý nghĩa “cầm chắc”, còn có ý nghĩa sâu hơn, là mặc cho người khác phản đối, vẫn cứ “níu lấy” “giữ chặt lấy” không buông. Xây dựng hiện đại hóa, phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống giàu có, vốn là điều ai cũng muốn, là điều mọi người trên thế giới đều tự giác theo đuổi. Trung quốc phải mang hết sức ra bám chắc, nếu không việc đó sẽ tuột mất. Điều “mang mầu sắc Trung quốc” đó khiến cho vận mạng nửa cuộc đời sau của ông Đặng liên hệ chặt chẽ với chữ “bám”.
Đầu thập kỷ 60, ông đề xuất “lý luận con mèo” nổi tiếng, nhấn mạnh quan hệ sản xuất nào có lợi nhất cho việc phát triển sức sản xuất thì nên áp dụng quan hệ sản xuất đó Đó có thể là sự đề xướng đầu tiên về “lý luận sức sản xuất là trung tâm”, hoàn toàn đối lập với thuyết “đấu tranh giai cấp là chủ yếu của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông không thể chấp nhận quan điểm đó nên đã phát động “cách mạng văn hóa”, đánh đổ Lưu, Đặng. Lưu, Đặng có tội gì? Tội cổ vũ cho thuyết “duy sức sản xuất”. Đặng không tiếp thu bài học “phạm sai lầm”. Sau khi suy xét 3 năm ở “chuồng bò” Giang Tây, được phục chức trong cách mạng văn hóa, liền lớn tiếng kêu gọi: “Toàn Đảng cần nắm chắc đại cục, đẩy kinh tế quốc dân lên”. Đặng hiểu rất rõ “điều chủ yếu trong ý Mao rất khác với ông. Nhưng tầm vóc của ông quá nhỏ, không níu được người khổng lồ Mao Trạch Đông, chỉ có thể “đánh tráo”, đề ra “ba chỉ thị đều là chủ yếu, lặng lẽ đưa kinh tế quốc dân lên vị trí chủ yếu, nhưng cuối cùng vẫn bị Mao Trạch Đông phá “thiên cơ”: “Sao lại ba chỉ thị là chủ yếu? Đấu tranh giai cấp là chủ yếu, còn lại đều là thứ yếu. Mao phê phán Đặng “con người này xưa nay không đề xuất đấu tranh giai cấp”. Do đó Đặng trở thành “kẻ đi theo con đường tư bản đến chết không chịu hối cải”.
Đặng hai lần bị đánh đổ đều do vấn đề bám chắc trung tâm là phát triển kinh tế. Được khôi phục lần thứ ba, ông lại càng “ngoan cố”. Khi vừa đấu tranh thắng lợi với phái “phàm là”, Đặng đã vội vã tuyên bố.
Phải di chuyển trọng điểm công tác của Đảng sang xây dựng hiện đại hóa. Đảng Cộng sản Trung quốc cầm quyền hơn 30 năm, chưa bao giờ di chuyển trọng tâm công tác sang xây dựng kinh tế, vì vậy bỏ lỡ mất rất nhiều cơ hội, lỡ mất rất nhiều thời gian. Đặng vì vậy rất đau lòng. “Bây giờ phải quyết tâm”, “thủy chung như nhất” quán triệt thực hiện công việc này, mọi điều phải xoay quanh việc này, không được để có bất cứ sự nhiễu loạn nào”. Đầu thập kỷ 80, Đặng tuyên bố cần làm tốt 3 việc lớn, trong đó “hạt nhân là xây dựng hiện đại hóa”, bởi vì “đó là điều kiện chủ yếu nhất để chúng ta giải quyết vấn đề quốc tế vấn đề trong nước”. Trong công việc quốc tế, chống chủ nghĩa bá quyền, Đài Loan trở về với Trung quốc, thực hiện thống nhất Tổ quốc, hai việc đó đều được quyết định bởi thành tựu xây dựng kinh tế của Trung quốc. Kinh tế không lên được, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ không có cách nào củng cố, an toàn của đất nước sẽ không được bảo đảm. “Cho nên, ngay từ năm đầu của thập kỷ 80, phải không được bỏ lỡ ngày nào, chuyên tâm, tập trung tinh thần xây dựng bốn hiện đại hóa”, “quyết không cho phép phân tán tinh lực”.
Chuyên tâm, không để lỡ một ngày nào, không để cái gì gây nhiễu loạn cũng có một ngoại lệ, là xảy ra chiến tranh ở quy mô toàn thế giới. Điều đó thì Đặng không níu giữ được. Cho nên phải tính toán thế này: đánh trận xong lại xây dựng. Nhưng Đặng rất hy vọng không vì chiến tranh mà để gián đoạn việc xây dựng, bỏ lỡ quá nhiều thời gian. Điều này thúc đẩy ông đặt điểm cơ bản trong chính sách đối ngoại vào việc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế thuận lợi để xây dựng hòa bình.
Toàn tâm toàn ý xây dựng kinh tế, thì xây dựng quốc phòng thế nào? Đây là một trong bốn điểm xây dựng hiện đại hóa, Đặng không hề coi nhẹ, nhưng ông cho rằng xây dựng quốc phòng cũng phải lấy kinh tế làm cơ sở. Ông khuyên quân đội “Cần nhẫn nại trong mấy năm”, “gắng sức dưa kinh tế lên”. Trước hết đưa kinh tế lên thì mọi việc sẽ dễ giải quyết. Kinh tế là đại cục, mọi cái đều phải phục tùng đại cục đó.
Trung tâm, đại cục, nếu không “bám” thì không giữ được điều đó chứng tỏ rằng có rất nhiều trở lực và nhiễu loạn phá hoại công việc đó. Những sự nhiễu loạn mà Đặng gặp phải là từ hai phía: tả và hữu.
Cái “hữu” mà Đặng gặp phải không giống với thời Mao, không phải là phục hồi chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực kinh tế, mà là gây rối về chính trị, là tự do hóa tư sản. Thái độ của Đặng đối với phong trào học sinh sinh viên năm 1986 là “gạt bỏ nhiễu loạn”, tiếp tục tiến lên. Với cuộc động loạn năm 1989, Đặng tuyên bố rõ ràng: “Trung quốc không cho phép làm loạn”. Lý do không cho phép làm loạn là: Một khi rối loạn thì mục tiêu bốn hiện đại sẽ bị tiêu tan. Để tránh hậu quả, Đặng thà chịu nguy hiểm mất danh dự trên quốc tế, quả đoán cho dẹp cuộc làm loạn đó. Sau khi dẹp loạn, Đặng an ủi các chiến sĩ giải phóng quân đã hoàn thành nhiệm vụ và đề xuất một loạt vấn đề: chiến lược phát triển đi làm ba bước của chúng ta có đúng đắn không? Một trung tâm, hai điểm cơ bản có đúng không? Cải cách và mở cửa có cần giữ vững không?...
Ông sợ lần động loạn này làm cho đường lối, phương châm chính sách do ông định ra bị dao động, khiến điều mà ông cố giữ trong mười năm bị tuột khỏi tay.
Đúng là suýt nữa thì tuột mất. Những người không hứng thú với cải cách mở cửa, vừa nghe thấy phải chống tự do hóa, chống diễn biến hòa bình, liền lập tức hoạt động.
Họ cảm thấy nên trở về với những năm lấy đấu tranh giai cấp làm chủ yếu, tuyên bố là cải cách mở cửa sẽ để chủ nghĩa tư bản tràn vào, căn nguyên chủ yếu của diễn biến hòa bình là ở trong lĩnh vực kinh tế. Những câu chữ như “đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực hình thái ý thức”, “Đấu tranh giai cấp trong nội bộ nhân dân” của thời cách mạng văn hóa lại xuất hiện. Vấn đề tính chất xã hội chủ nghĩa hay tính chất tư bản chủ nghĩa lại được lặp đi lặp lại.
Hiện nay, đã qua thập kỷ 80 và bước sang thập kỷ 90 được hai năm rồi. Trong giờ phút then chốt này, ông Đặng lại đứng trên con tàu lớn trước tảng đá ngầm lớn tiếng tuyên bố: Đường lối cơ bản phải giữ vững trong 100 năm, không được dao động. Ai muốn thay đổi, người đó sẽ bị đánh đổ. Lòng dũng cảm đối với cải cách, mở cửa cần được tăng cường, bước đi của phát triển kinh tế cần nhanh thêm một chút. Không tranh luận, tranh luận sẽ bỏ lỡ thời gian. Phát triển là lý lẽ vững chắc. Nắm chắc thời cơ, phát triển lên, then chốt là phát triển kinh tế. “Có thực hiện được bốn hiện đại hóa hay không là vấn đề quyết định số mệnh của nhà nước ta, của dân tộc ta”
Vận mạng của 1 tỷ dân Trung quốc đòi hỏi ông Đặng nắm chặt tay lái của con tàu Trung quốc. Hễ có sự nhiễu loạn, ông lập tức đứng ra dẹp ngay, chỉnh tàu đi đúng hướng.
Mấy câu thơ nổi tiếng của Trịnh Bản Kiều hầu như viết riêng dành cho ông Đặng:
“Bám chắc chiến trường chẳng chịu buông
Lập trường vững chắc tựa kim cương
Muôn ngàn xô đập không sờn chí
Chẳng quản đông tây trận gió cuồng.”

2.8. Một trung tâm, hai điểm cơ bản
Một trung tâm là lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm. Hai cơ bản: Một là giữ vững cải cách mở cửa, hai là giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản.
Ông Đặng cầm lái con tàu hơn mười năm, đề xuất rất nhiều chính sách hưng bang trị quốc, bí quyết cơ bản đều nằm trong “một trung tâm, hai điểm cơ bản” đó.
Tại Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa XI, Đặng thực hiện việc đại di chuyển trung tâm chiến lược và định ra tổng phương châm cải cách mở cửa. Hai điều đó đã dẫn con tàu Trung quốc đi vào lĩnh vực mới. Nhưng Đặng cảm thấy hình như còn thiếu một cái gì đó. Chỉ dựa vào cải cách mở cửa, không có sự hạn chế nào, thì có nguy cơ lật thuyền. Vì vậy, trong hội nghị công tác lý luận tiếp ngay sau đó, Đặng kịp thời đề ra cần nắm vững bốn nguyên tắc cơ bản.
Đầu thập kỷ 80, Đặng liên tục ba lần nói tới: Thực hiện bốn hiện đại phải giữ vững bốn điều bảo đảm:
1) Cải cách thể chế.
2) Xây dựng nền văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.
3) Tiến công các hoạt động phạm pháp.
4) Chỉnh đốn tổ chức và tác phong của đảng.
Bốn điều bảo đảm đó quy nạp lại là hai điểm cơ bản:
1) là cải cách mở cửa.
2) bao gồm bốn điểm 1,2,8,4 trên. Đặng nói, bốn việc đó cần làm trong suốt quá trình hiện đại hóa.
Về sau, trong khi bám chắc khâu trung tâm là xây dựng kinh tế, lúc thì Đặng nhấn mạnh bốn nguyên tắc cơ bản, lúc thì nhấn mạnh cải cách mở cửa, và nhiều hơn là nhấn mạnh cả hai, dần dần thành nếp. Đến 1987, cách suy nghĩ trên của Đặng được Đại hội lần thứ XIII tiếp nhận, xác nhận là đường lối cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, biểu đạt rõ ràng thành “một trung tâm, hai điểm cơ bản”.
Sự khác nhau giữa Mao và Đặng chỉ ở chỗ “trung tâm” không giống nhau. Khuôn mẫu chính trị của Mao là do “hai quan hệ” tạo thành, như cách mạng và sản xuất, chính trị và kinh tế. Hai điểm lần lượt là sức sản xuất và quan hệ sản xuất, hai lĩnh vực của thượng tầng kiến trúc. Đặng phân hai điểm của Mao thành ba điểm. Một trung tâm cộng với hai điểm cơ bản. Một trung tâm là sức sản xuất, tức lĩnh vực kinh tế theo nghĩa hẹp, hai điểm cơ bản đồng thời thuộc quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc, tức lĩnh vực chính trị theo nghĩa rộng.
Mao và Đặng đều sở trường về “một chia làm hai”, nhưng một đằng là “một chia làm hai” không có trung tâm (Mao đặt trọng tâm vào một trong hai điểm), một đằng là “một chia làm hai” có trung tâm. “Một chia làm hai” của Mao là giữa chính trị và kinh tế, “một chia làm hai” của Đặng là trong bản thân chính trị. Kinh tế với tính cách là trung tâm hoặc trọng điểm thì ở một tầng cao hơn. Như vậy, không những trung tâm của Mao bị đảo ngược, mà “một chia làm hai” của Mao trong tay Đặng cũng phát sinh sự chuyển hóa công năng, biến thành thủ đoạn sách lược phục vụ cho trung tâm chiến lược, nên càng có tính sách lược
Mao không tách rời vấn đề chiến lược với sách lược, mục đích và thủ đoạn thường lẫn lộn nhau không rõ ràng. Ông coi chính trị là sản phẩm bao gồm yêu cầu kinh tế phục vụ cho chính trị, cách làm nổi bật chính trị đó thế tất làm yếu địa vị của kinh tế, kết quả không phải là chính trị và kinh tế đều được mùa mà là đều bị thiệt. Đặng phân biệt rõ ràng chiến lược và sách lược, mục đích; và thủ đoạn; phát triển kinh tế là mục đích; hai điểm cơ bản là cải cách mở cửa và “bốn kiên trì” trên mặt chính trị đều để phục vụ cho kinh tế. Như vậy, không những bảo đảm cho địa vị chiến lược của “một trung tâm” không bị dao động, mà “hai điểm cơ bản” về mặt chính trị cũng có tính linh hoạt.
Lưỡng điểm luận (tức một chia làm hai - Người dịch) có trung tâm, thực tế là tam điểm luận. Tam điểm luận hơn lưỡng điểm luận ở chỗ nó có tính ổn định hơn. Mao Trạch Đông vẫn muốn thống nhất chính trị với kinh tế, nhưng lại thiếu một yếu tố thứ ba để làm căn cứ thống nhất hai cái đó. Ông cố gắng thống nhất hai cái đó nhưng đều dẫn tới lúc tả lúc hữu, dao động qua lại.
Thí dụ ông vừa muốn tập trung thống nhất lại vừa muốn sinh động hoạt bát. Để đạt tới sinh động hoạt bát, phải phát huy tính tích cực của các bộ phận. Năm 1957, ông dùng phương châm cởi mở, kết quả là xuất hiện rất nhiều đầu trâu mặt ngựa, ông lại vội đóng lại, đóng đến mức không ai dám nói nữa. Đóng hay mở là phương pháp trị nước. Nhưng cái gì cần đóng, cái gì cần mở, đóng và mở đến trình độ nào là thích hợp, Mao không có một càn cứ nhất quán, chỉ làm việc theo cảm giác chủ quan. Đặc điểm lớn nhất của sự vận hành chính trị của Trung quốc thời Mao Trạch Đông là dao động qua lại giữa hai chính sách cực đoan, lúc tả lúc hữu, lúc lên lúc xuống, luôn luôn vấp váp Nguyên nhân căn bản là giữa sự chuyển động của hai cực thiếu một nhân tố trung tâm để điều tiết.
Đặng vì có “một trung tâm” nên giữ được một sức căng cần thiết giữa “hai điểm cơ bản”. Trung tâm là phát triển sức sản xuất, vì nó, quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc có lúc bị tổn hại có lúc được lợi, đều lấy yêu cầu khách quan là phát triển sức sản xuất làm chuẩn. “bốn kiên trì” (tức kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông - Người dịch) và cải cách mở cửa, hai điểm cơ bản đó không phân biệt nặng nhẹ, chủ thứ, nhưng có thể căn cứ nhu cầu phát triển kinh tế mà đặc biệt nhấn mạnh một điểm nào đó. Rút cục là hai điểm đều ngang nhau hay nặng về điểm nào, hoặc nặng đến mức độ nào, đều dược quyết định bởi nhu cầu của “một trung tâm”. Quá tả, quá hữu đương nhiên là khó tránh, nhưng do có một trung tâm giữ tác dụng điều tiết, tả cũng không thể quá tả, hữu cũng không thể quá hữu. Như vậy, “hai điểm cơ bản” giống như hai cánh của một bộ máy, giữ tác dụng thăng bằng cho thân máy ở vị trí trung tâm. Hai cánh giữ thăng bằng cho thân máy, thân máy lại giữ thăng bằng cho hai cánh, khiến cho hai cánh xòe cụp thoải mái nhưng không bị nghiêng lệch.
Phương pháp mà ông Đặng mong muốn là từ tổng thể giữ cho xã hội ổn định, tiếp tục phát triển. Lúc đầu cải cách mở cửa, hiện tượng chao đảo tả hữu có lúc phát sinh, nhưng theo quá trình làm rõ “một trung tâm hai điểm cơ bản”, độ chao đảo ngày càng nhỏ. Có thể dự đoán từ nay vẫn khó tránh khỏi rung động, nhưng chỉ cần một trung tâm không thay đổi, thì tuyệt đối không thể xuất hiện hiện tượng trồi sụt lớn.
Hai điểm cơ bản trong khi chịu sự điều tiết của một trung tâm, tự thân cũng điều tiết lẫn nhau. Đặng từ đó đề ra một loạt “lưỡng điểm luận”, như kiên trì và phát triển tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ và cải cách chế độ xã hội chủ nghĩa v.v.. Chuyên chính dân chủ nhân dán bản thân cũng có sức căng giữa dân chủ và chuyên chính. Trong thực hiện cũng có một loạt chính sách “nắm cá hai tay”.

2.9. Không cải cách thì không có đường ra, không cải cách thì chỉ có đường chết
Trong văn hóa chính trị Trung quốc cổ đại đã có một lý luận cải cách “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu” Có nghĩa là: Những quốc gia lâm vào tuyệt cảnh cần phải cải cách, chỉ có cải cách mới có hy vọng. Kinh nghiệm hai mươi năm nhất là bài học của cách mạng văn hóa cho Đặng Tiểu Bình thấy rằng: Trung quốc “không cải cách thì không có đường ra”, “không cải cách...thì chỉ có con đường chết”.
Xã hội Trung quốc trong thời gian 20 năm từ 1958 đến 1978, trên thực tế ở vào trạng thái đình trệ và quanh quẩn. Nền kinh tế nhà nước và đời sống nhân dân không phát triển và nâng cao được bao nhiêu, khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới ngày càng xa. Đặng nói: “Tình hình này mà không cải cách thì có được không?” Nếu không có sự cực đoan của cách mạng văn hóa thì khó nói có sự cải cách của Đặng Tiểu Bình hay không. Dù cho có, thì e rằng cũng không thể có quyết tâm và hành động mạnh như vậy. Tai nạn của “cách mạng văn hóa” đã tạo nên trong ý thức người ta cái cảm giác về nguy cơ “không cải cách không được”. Đặng đáp ứng yêu cầu của lịch sử, “lợi dụng những động lực to lớn do phản tác dụng của cách mạng văn hoá đem lại, lựa theo tình thế xoay chuyển toàn bộ tình hình, dứt khoát tiến hành một loạt biện pháp cải cách cực kỳ phong phú trong mấy năm ngắn ngủi đã khai sáng nên một cục diện khởi sắc”.
Cục diện mới đã tạo ra thời cơ chuyển biến mà Hội nghị Trung ương lần thứ 3, khoá XI là cột mốc. Hội nghị này đã hoàn thành cuộc chuyển biến lần thứ ba trong lịch sử đương đại Trung quốc: “Từ lấy đấu tranh giai cấp là chủ yếu đến lấy phát triển lực lượng sản xuất làm trung tâm, từ đóng cửa chuyển sang mở cửa, từ bảo thủ sang cải cách về các mặt”.
Đặng đã khái quát chính sách mới từ sau Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba bằng 8 chữ: “Đối nội cải cách, đối ngoại mở cửa”, gọi chung là cải cách. Cuộc cải cách về hai mặt: Đối nội cải cách (làm sống động) và đối ngoại cải cách (mở cửa) là kết quả tất nhiên của việc di chuyển trọng điểm chiến lược, lại là biện pháp tất yếu bảo đảm cho sự di chuyển đó.
Tại sao Trung quốc phải cải cách và mở cửa? Đó là kết luận tổng kết từ quá khứ của Đặng, cũng là căn cứ để ông thiết kế cho tương lai. Đến cuối thế kỷ này sẽ tăng gấp 4 lần, đạt tới trình độ vừa phải, đến giữa thế kỷ sau lại tăng gấp 4 lần nữa đạt tới trình độ một nước phát triển trung bình, trong 70 năm vượt qua hai bước lớn, giá trị sản lượng bình quân đầu người tăng 16 lần. Mục tiêu hùng vĩ đó, dựa vào cái gì? Dựa vào cải cách mở cửa. Không có sự bảo đảm của cải cách mở cửa, thì hiện đại hóa chỉ là lời nói suông.
Dùng con mắt của thế giới để nhìn khoảng cách và mục tiêu của Trung quốc, lại càng thấy như vậy. Trung quốc đạt tới trình độ của nước phát triển trung bình, có nghĩa là đã bước vào hàng ngũ tiên tiến của thế giới, trở thành một vai trò chính trong hoạt động kinh tế thế giới. Nhưng trước mắt, thị trường thế giới đã bị những nước phát triển và tương đối phát triển chiếm lĩnh. Những nước lạc hậu như Trung quốc, muốn phấn đấu vượt lên thật không dễ dàng. Nếu không có những biện pháp đặc biệt làm sống động kinh tế bên trong và mở cửa ra bên ngoài thì không thể cạnh tranh với người ta được.
Ông Đặng hy vọng cải cách mở cửa có thể đưa tới một nước Trung quốc mới dân chủ giàu mạnh. Ông gắng sức thực hiện cải cách mở cửa để biến giấc mộng cường quốc thành hiện thực, gọi cải cách và mở cửa “là cái quyết định vận mệnh của Trung quốc” Những chữ đó đúng là có một ma lực to lớn.
Đặng dự tính: Thông qua cải cách nội bộ, sẽ quét sạch mọi chướng ngại trên đường phát triển sức sản xuất, phát huy tính tích cực của một tỷ dân, đó là khai thác tiềm lực nội bộ. Thông qua mở cửa ra bên ngoài, tiếp thu khoa học kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tiếp thu thành quả của nhân loại. Ông tin rằng: Nhiệt tình sáng tạo của một tỷ dân Trung quốc cộng với kinh nghiệm thành công của toàn nhân loại, nhất định sẽ làm cho kinh tế Trung quốc xuất hiện kỳ tích.
Mấy chục năm trước cải cách đã hình thành thể chế kinh tế, chính trị và quan niệm tư tưởng cứng nhắc, có nghĩa là sự cải cách của Đặng không những phải giải phóng sức sản xuất mà còn động chạm tới quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa. Về sứ mạng của cải cách Da vít Trương nói: “So với các nhà cải cách của các Vương triều thời cổ, chế độ xã hội chủ nghĩa của Đặng Tiểu Bình đã khôi phục sức sống ở Trung quốc. Muốn cho Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội tồn tại ở Trung quốc, thì không thể thiếu sự cải cách của Đặng”. Cuộc Cải Cách và mở cửa trong mười mấy năm đã giành dược thành tựu khiến thế giới chàm chú theo dõi. Tổng sản phẩm quốc dân năm 1991 là 1958 tỷ nhân dân tệ tính theo tỷ giá, bằng 2,92 lần năm 1978, bình quân mỗi năm tăng 8,6%. Tốc độ này bằng tốc độ của “bốn con rồng nhỏ” châu Á trong những năm 80, bằng tốc độ của Nhật Bản trong thời kỳ 1956 đến 1977. Như vậy, việc cải cách mở cửa của Đặng đúng là con đường cường quốc hưng bang.

2.10. Giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản
Ngày 13.12.1978, tại Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa XI, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu bài nói quan trọng đánh dấu việc Trung quốc bước vào thời kỳ mới với nhan đề: “Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, đoàn kết nhất trí, nhìn về phía trước”. Nội dung chính là kêu gọi giải phóng tư tưởng, phát huy dân chủ, cải cách mở cửa.
Ba tháng rưỡi sau, ngày 30.3.1979, Đặng lại nói trong hội nghị công tác lý luận một bài nói quan trọng “Giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản” dài gấp dôi bài nói lần trước, trung tâm là nhấn mạnh bốn điều:
Một là, phải giữ vững con đường xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phải giữ vững chuyên chính vô sản.
Ba là, phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bốn là, phải giữ vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông.
Đặng nói, bốn nguyên tắc đó “không phải là cái gì mới”. Năm 1957, Mao Trạch Đông trong một bài nói nổi tiếng bàn về xử lý đúng đắn mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân đã trịnh trọng nêu ra phương châm “trăm hoa đua nở”. Khoảng 4 tháng sau, tình hình phát sinh biến hóa, nảy ra rất nhiều cỏ độc. Thế là Mao lại công bố bài nói đã được sửa đổi, đặc biệt nhấn mạnh sáu tiêu chuẩn chính trị để phân biệt hoa thơm và cỏ độc. Bốn nguyên tắc của Đặng có ba nguyên tắc rút từ 6 tiêu chuẩn của Mao Trạch Đông, chỉ có nguyên tắc giữ vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông là do Đặng mới thêm vào. Nguyên nhân xuất hiện sự khác biệt đó là do Mao và Đặng đứng trước tình hình khác nhau. Sáu tiêu chuẩn của Mao là nhằm vào phái hữu, và bản thân Mao đã là tư tưởng Mao Trạch Đông, không cần đề giữ vững tư tưởng Mao Trạch Đông. Đặng ngoài việc phải phản kích lại sự thách thức của phái hữu, còn phải đối phó với sự gây khó khăn của phái tả. Phái tả chỉ trích chính sách cải cách của Đặng từ sau Hội nghị toàn thể Trung ương ba là đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Đặng coi chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông là một trong bốn nguyên tắc phải giữ vững, không những là cần thiết để đối phó với phái hữu, mà cũng là để tước vũ khí của phái tả. Nếu không đề ra điều đó, thì phái tả sẽ lấy nguy cơ tấn công của phái hữu trong xã hội ép Đặng: Hãy xem, đấy là những việc nảy sinh do việc cải cách mở cửa của anh. Thậm chí họ còn có thể ghép những quan điểm chống Mao Trạch Đông trong xã hội vào với Đặng, khiến Đặng không gỡ ra được.
Đương nhiên, Đặng ra sức nhấn mạnh những điều không có gì là mới đó, chủ yếu là để đối phó với phái hữu đã hoài nghi, thậm chí công khai phản đối bốn nguyên tắc cơ bản từ sau Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba. Về sau, Đặng gọi tư trào đó là tự do hóa tư sản, cho rằng mấy lần học sinh gây rối và làm rung chuyển chính trị đó là tự do hóa chính trị, nếu không chế áp thì sẽ phát triển rất mạnh, đến lúc đó sẽ khố dẹp được, có khả năng đưa Trung quốc trở lại thời động loạn của cách mạng văn hóa. Như vậy, thì con tàu hiện đại hóa do Đặng cầm lái không thể cập bến, và e rằng vừa khởi hành đã bị lật. Đặng hy vọng dùng bốn nguyên tắc cơ bản để ngăn cản tự do hóa tư sản và tránh khỏi nguy cơ đó.
Cần giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản, điểm này không có gì phải bàn cãi. Nhưng giữ vững như thế nào, lại cần phải nghiên cứu. Đặng chống lại việc giữ vững theo lối tả, vì lối “giữ vững” đó, chủ trương rập khuôn như cũ, bảo thủ mọi cách làm cũ, chỉ là con đường chết. Sự giữ vững của Đặng là giữ vững và phát triển, giữ vững và cải cách, là sự tổng hợp hai mặt giữ vững và sửa đổi nâng cao. Theo phương pháp “giữ vững” đó, Đặng nhấn mạnh giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản không phải là muốn thu hẹp cải cách và mở cửa. Mà ngược lại, ông cho rằng làm như vậy là để quán triệt chấp hành chính sách cải cách và mở cửa được thuận lợi, là “chính sách cần thiết phải áp dụng”. Đặng nhấn mạnh, nếu không thực hiện những nguyên tắc đó thì cải cách mở cửa, chiến lược đi ba bước, bốn hiện đại hóa, tất cả đều tan thành mây khói. Đặng hiểu rằng nếu cải cách càng mạnh thì chấn động xã hội sẽ càng lớn, do đó càng cần cô một nhân tố điều tiết, khống chế. So sánh với cải cách của Goócbachốp ở Liên xô, những mưu lược đó của Đặng tỏ rõ sự sáng suốt của một chính khách lão luyện.
Cần “giữ vững” là điều không có gì phải nghi ngờ, nhưng giữ vững những nội dung cụ thể gì thì lại cần căn cứ vào tình hình cụ thể. Đặng nói “một loạt các phương châm chính sách từ Hội nghị toàn thể Trung ương ba đến nay là giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản” để ngầm nói: Giữ vững chính sách trung tâm mà Đặng đề ra từ Hội nghị toàn thể Trung ương ba là giữ vững cải cách mở cứa. Giữ vững bốn nguyên tắc cơ bản như vậy, không những không hạn chế cải cách mở cửa mà còn có tác dụng tích cực đối với cải cách mở cửa. Phương thức xử lý đó của Đặng so với phương pháp sai của Mao là “thu” sau khi “phóng”, có sức thuyết phục lớn hơn nhiều.
Xem ra, mục đích đề ra “bốn giữ vững” của Đặng không phải nhằm quy định có những mặt nào không được thay đổi, mà là để tỏ rõ một thái độ: Cải cách của chúng ta là có nguyên tắc không được làm lộn xộn. Còn bản thân nguyên tắc là thế nào, có những nội dung cụ thể gì, thì là thứ yếu. Trên thực tế, rất ít có nguyên tắc nào quy định rõ là không được thay đổi.
Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông cần phải giữ vững, nhưng cần thực sự cầu thị, theo nguyên tắc thực sự cầu thị thì không có khuôn mẫu cứng nhắc nào không cho phép thay đổi. Chủ nghĩa xã hội, theo Đặng, có hai điều không được dao động, tức chế dộ công hữu và cùng giàu có, nhưng giữ vững chế độ công hữu là chủ yếu không bài trừ sự tồn tại của các thành phần phi công hữu như “xí nghiệp tam tư” (tức ba loại xí nghiệp: Trung quốc và nước ngoài chung vốn đầu tư, Trung quốc và nước ngoài hợp tác kinh doanh, nước ngoài bỏ vốn toàn bộ - Người dịch) và xí nghiệp tư doanh. Giữ vững cùng làm giàu cần phải cho phép một số người làm giàu trước. Chuyên chính vô sản chỉ hạn chế đối tượng vào những kẻ phạm pháp theo pháp luật hiện hành, thì rất dễ giữ vững.
Cuối cùng Đặng đã nói ra điều bí mật của mình: “Hạt nhân của bốn giữ vững là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng”. Điều này được coi là chỉ thị cương quyết. Đặng còn nhớ rất rõ hậu quả nghiêm trọng do cơ quan lãnh đạo đảng các cấp lâm vào tình trạng tê liệt trong cách mạng văn hóa. Ông lo lắng tư trào tự do hoá lại làm cho các cấp đảng và chính quyền rơi vào tình trạng không thể hành động được, kiên quyết phản đối tách rời sự lãnh đạo của đảng mà ca ngợi tính tự phát của quần chúng, công kích mạnh mẽ hành vi đòi dân chủ bỏ qua các đảng ủy. “Nếu lại cho phép một số người bỏ qua các đảng ủy, gây rối khắp nơi thì sẽ làm cho bốn hiện đại tiêu tan”. Đương nhiên, cần cải tiến sự lãnh đạo của đảng. nhưng làm thế nào, làm những cái gì cũng đều phải tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng.
Đặng nêu nổi bật chính sách của Hội nghị toàn thể Trung ương 3 và sự lãnh đạo của đảng, hai điểm đó tỏ rõ mục đích ông nêu bốn giừ vững là để bảo vệ tính quyền uy của chính sách hiện hành và lãnh đạo hiện hành, tỏ rõ việc cải cách của Đặng là cuộc cải cách có lãnh dạo, có trật tự từ trên xuống dưới: tỏ rõ ông muốn dựa vào quyền uy chính trị mạnh mẽ để thúc đẩy cải cách, đồng thời bảo đảm cho cải cách không bị lực cản của thực tiễn cải cách phá hoại. Theo cách suy nghĩ của Đặng, bản thân cải cách là không hạn chế, cái gì cũng có thể cải cách, nhưng chỉ có một điều: Phải tiến hành có sự lãnh đạo, có kế hoạch, không được làm liều, không được rối loạn. Sự làm liều không lãnh đạo là tự do hóa tư sản. Mọi người dần dần hiểu rõ hai điểm chủ yếu của Đặng: “Một là, những vấn đề quan trọng phải nhất trí với Trung ương (cuối cùng là với Đặng). Hai là, nói ít làm nhiều, hoặc chỉ làm mà không nói. Như vậy, sẽ thỏa mãn yêu cầu của Đặng đối với giữ vững 4 nguyên tắc cơ bản.
Tác dụng tương hỗ giữa 4 giữ vững với cải cách mở cửa dần dần hiện ra một xu thế: Về chính trị phải ổn định đoàn kết, về kinh tế tận lượng mở cửa. Đó là nguyên nhân để công cuộc cải cách của Trung quốc không đi theo con đường của Liên Xô, nhưng cũng tích luỹ một vấn đề, khiến cải cách thể chế chính trị đi chậm hơn cải cách kinh tế, thậm chí hạn chế tiến trình cải cách kinh tế. Đặng hy vọng dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng sẽ tiến hành toàn diện việc cải cách xã hội, bao gồm việc cải cách thể chế lãnh đạo của đảng. Thành quả cuối cùng của toàn bộ cuộc cải cách đều quyết định bởi bước đi này sẽ diễn ra như thế nào.
Mưu lược Đặng Tiểu Bình
Mục lục và lời tựa
Phần 1
Phần 1- B
Phần 1 - C
Phần 1- D
Phần 1- E
Phần 1 - F
Phần 2 - A
Phần 2 - B
Phần 2- C
Phần 3- A
Phần 3 - B
Phần 3- C
Phần 4- A
Phần 4- B
Phần 5
Phần 6- A
Phần 6- B
Phần 6- C
Phần 7
Phần 7- B
Phần 7 - Hết