watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mưu lược Đặng Tiểu Bình-Phần 7 - Hết - tác giả Xuân Duy, Quỳnh Dung Xuân Duy, Quỳnh Dung

Xuân Duy, Quỳnh Dung

Phần 7 - Hết

Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung

7.14. ổn định biên giới xung quanh, đứng chân ở châu Á - thái bình dương, tiến ra thế giới. Đó là điệu “nhảy ba bước” mà Đặng tìm kiếm để giữ gìn hòa bình thế giới và phát triển ở Trung quốc
Học giả Nhật Bản thấy rằng: Trung quốc tích cực triển khai nền ngoại giao hòa hảo với các nước láng giềng là để đặt cơ sở cho “trật tự quốc tế mới” mà Trung quốc đề xướng; xây dựng trật tự mới ở châu Á là “chiến lược sinh tồn của Trung quốc”.
Xây dựng hiện đại hóa cần có một hoàn cảnh quốc tế yên ồn, trước hết là sự yên ổn ở vùng xung quanh biên giới. Trước kia, Trung quốc đã chịu nỗi khổ bị siêu cường xâm phạm, mà tổn hại lớn nhất là từ cường quốc láng giềng: Nước Nga Sa hoàng và Nhật Bản. Đặng đặt việc cải thiện quan hệ giữa Trung quốc với các nước láng giềng xung quanh biên giới lên vị trí ưu tiên trong chính sách ngoại giao, trước hết xuất phát từ sự suy nghĩ về an toàn quốc gia: Ngăn ngừa các nước lớn và cưởng quốc láng giềng tạo thành sự uy hiếp đối với an toàn của Trung quốc; ngăn ngừa việc các nước láng giềng khác bị nước lớn và cường quốc lợi dụng để tạo thành thế bao vây Trung quốc. Cải thiện quan hệ với các nước láng giềng đương nhiên còn có ý nghĩa tích cực là triển khai việc hợp tác hai bên cùng có lợi. Trung quốc có ưu thế so với các nước láng giềng về diện tích, lại có bối cảnh văn hóa tương tự so với nhiều nước, có nhiều mặt bổ trợ lẫn nhau về tài nguyên và thị trường. Nếu từ bỏ bè bạn bên mình mà kết giao Âu-Mỹ thì rõ ràng là hạ sách bỏ gần tìm xa. Triển khai hợp tác cùng có lợi với các nước xung quanh biên giới, phấn đấu cho sự phồn vinh chung, thực là công phu to lớn trong việc sáng tạo ra thế kỷ châu Á-Thái Bình Dương.
Đặng rất hứng thú với tên tuổi của Kayayohei từng gặp mặt ở Bắc Kinh vào mùa thu năm 1977 và nhớ mãi cái tên đó. Năm sau thăm Nhật Bản, Đặng nói với Kayayohei: “Đề nghị ông đừng bao giờ đổi tên”, Kaya có đôi chút ngạc nhiên, không hiểu ý, Đặng liền giải thích: “Hoà bình ở Thái Bình Dương là hy vọng lớn nhất của tôi” (Tên của Kayayohei) viết bàng chữ Hán là Hà Dã Dương Bình, có thể hiểu nghĩa là hoà bình trên các dòng sông, cánh đồng và đại dương- Người dịch). Lúc đó Kaya mới hiểu được nỗi lòng của Đặng. Nhật Bản là cường quốc kinh tế cấp thế giới ở cạnh Trung quốc, Trung-Nhật hòa hảo là một nước cờ lớn để Đặng tìm kiếm hòa bình ở khu vực Thái Bình Dương, ông đã đổ nhiều tâm huyết vào vấn đề này. Năm 1977, không lâu sau khi được phục hồi, Đặng tiếp khách Nhật Bản lần đầu, liền đốc thúc Nhật Bản nhanh chóng khôi phục đàm phán, sớm hạ quyết tâm ký kết điều ước. Năm 1978, sau khi nắm được quyền tối cao, nước đầu tiên mà ông đi thăm là Nhật Bản Đặng từng nói: “Quan hệ Trung-Nhật có rất nhiều điều để nói, khái quát thành một câu là nhân dân hai nước Trung-Nhật phải đời đời hữu hảo với nhau” đó là “một câu then chốt nhất”.
Để thực hiện câu nói đó, ông lợi dụng mọi cơ hội để tiếp xúc rộng rãi với nhân sĩ các giới của Nhật. Theo thống kê trong mười năm của thập kỷ 80, ông đã hội kiến 365 đoàn khách quốc tế, trong đó có 55 đoàn Nhật. Với những nhân sĩ Nhật có ảnh hưởng Đặng coi như thượng khách, nhiều lần gặp mặt, có người trong mười năm đã gặp gỡ và nói chuyện sáu lần. Khi trong quan hệ hai nước có chuyện khó khăn, ông gặp gỡ nhân sĩ Nhật càng dồn dập. Với những tin tức có khả năng ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Nhật, như sửa chữa sách giáo khoa, thăm viếng đền thờ tội phạm chiến tranh, giải quyết quan hệ giữa Nhật và Đài Loan, Đặng luôn có sự nhạy cảm cao độ, vừa ló ra mầm mống liền phát biểu ý kiến ngay và tiến hành giao thiệp, nêu ra lời phê phán. Những việc đó, nhìn riêng rẽ thì không có quan hệ lớn, nhưng tích luỹ lại có thể dẫn tới sự phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, làm chôn vùi tình hữu nghị Trung-Nhật đã rất khó khăn mới xây dựng được, phá hoại sự yên ổn của khu vực Thái Bình Dương. Đặng yêu cầu viết vào điều ước Trung-Nhật điều khoản chống bá quyền, trước hết là hai nước Trung-Nhật tự kiềm chế, nhận trách nhiệm không thực hiện chủ nghĩa bá quyền. ông nói với người Nhật rất nhiều lần câu: “Không quên chuyện trước, ngăn ngừa chuyện sau”. Đặng hy vọng Nhật Bản trở thành bè bạn vô hại với Trung quốc. Sau tháng 6 năm 1989, Nhật Bản làm theo các nước phương Tây trừng phạt Trung quốc. Trong cuộc tiếp kiến đoàn của hiệp hội kinh tế Nhật thăm Trung quốc, Đặng nói: “Nhật Bản nên tự xét mình, không nên tự đại, Trung quốc cần tự cường, không thể tự ti”. Tháng 8.1991, thủ tướng Nhật chính thức thăm Trung quốc, hai nước khôi phục quan hệ bình thường, hòa hảo như cũ, Đặng mới yên tâm.
Bán đảo Triều Tiên là cánh cửa phía Đông của Trung quốc. Năm trước Nhật Bản xâm nhập đại lục Trung quốc, sau đó, đế quốc Mỹ uy hiếp an toàn của Trung quốc, đều lấy Triều Tiên làm cầu nhảy. Bán đào Triều Tiên không yên ổn, tạo thành uy hiếp với phía Đông, đặc biệt là Đông- Bắc Trung quốc. Đặng ý thức rõ tầm quan trọng của quan hệ Trung-Triều. Từ cuối thập kỷ 70 tới nay, người lãnh đạo hai nước Trung- Triều đi lại dồn dập. Thập kỷ 80, Đặng áp dụng chính sách càng thực tế và sáng suốt hơn, ngoài việc tiếp tục củng cố tình hữu nghị truyền thống “được xây dựng bằng máu”còn cải thiện quan hệ với Nam Triều Tiên, thích ứng với xu thế hòa hoãn trong quan hệ Đông -Tây, không chỉ xét vấn đề từ góc độ “chế độ xã hội” và hình thái ý thức xã hội như trước “chỉ kết bạn với Bắc Triều Tiên mà thù địch với Nam Triều Tiên, càng làm cho quan hệ Nam Bắc Triều Tiên căng thẳng thêm, mà xuất phát từ lợi ích an toàn quốc gia, vận dụng phương châm làm hòa dịu tình hình trên bán đảo Triều Tiên, thúc đẩy việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều tiên, như ủng hộ cả hai miền Nam Bắc Triều Tiên đồng thời gia nhập Liên hiệp quốc, ủng hộ cuộc đối thoại giữa hai bên để giải quyết hoà bình vấn đề thống nhất. Không những tự mình hòa giải, mà Trung quốc còn mong muốn người khác hòa giải không nhằm mục đích nào khác là an ninh ở xung quanh biên giới và ổn định ở châu Á-Thái Bình Dương.
Hoà bình hữu nghị với các nước Đông Nam Á láng giềng là một mặt khác để Đặng mưu tìm hoàn cảnh hòa bình và an ninh ở xung quanh biên giới. Vùng Đông Nam Á có hình bán nguyệt bao quanh vùng Đông nam Trung quốc, diễn biến tình hình ở đây có quan hệ tới lợi ích an toàn của miền Nam Trung quốc.
Năm 1978, sau khi hoàn thành chuyến thàm Nhật, Đặng liền tiến hành chuyến đi mở đường thứ hai sang các nước Đông Nam Á. Đặng hy vọng xây dựng một quan hệ “ủng hộ lẫn nhau, viện trợ lẫn nhau” với các nước ASEAN. “Ủng hộ lẫn nhau” tức là phản đối bất kỳ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào xây dựng bá quyền hoặc phạm vi thế lực, vì đó là lợi ích an toàn của cả Trung quốc và các nước ASEAN. “Viện trợ lẫn nhau” là giúp đỡ nhau căn cứ vào tình hình các nước ASEAN những năm gần đây phát triển kinh tế tương đối nhanh và Trung quốc đang cải cách, mở cửa, đẩy nhanh xây dựng hiện đại hóa. Tháng 11, Đặng đi thăm Thái lan, Malaixia và Singapo của ASEAN, nói rõ thái độ bang giao của Trung quốc là: “Thiện ý, chân thành, thông cảm, tôn trọng địa vị và lập trường của mỗi bên”. Giữa Trung quốc và một số nước ASEAN tồn tại sự tranh chấp lãnh thổ trên các hòn đảo thuộc Nam Hải. Với vấn đề đó, Đặng áp dụng biện pháp “gác vấn đề chủ quyền, cùng nhau khai thác” để hòa dịu. Dư luận quốc tế cho rằng: “Trung quốc trong khi nhắc lại quyền sở hữu hợp pháp đối với Trường Sa và Hoàng Sa” đã đề xuất kiến nghị “các bên tập trung vốn cùng nhau khai thác các đảo đó, có vẻ như là một kiến nghị có nhiều tính xây dựng”. Một số nước ASEAN vẫn có tâm lý vướng mắc với Trung quốc, tức là quan niệm về “Sự uy hiếp của Trung quốc”, lo sợ Trung quốc lớn mạnh lên sẽ chèn ép họ. Để gạt bỏ trở ngại đó, Đặng đã dốc tâm huyết, trong 10 năm của thập kỷ 80, trước sau hội kiến 17 đoàn khách của các nước ASEAN, nhắc đi nhắc lại về thiện ý và lòng chân thành của Trung quốc, để làm tiêu tan những mối nghi kỵ của họ với Trung quốc, thúc dẩy các bên giao lưu hợp tác. Tâm huyết của Đặng không bị uổng phí. Năm 1990, Trung quốc và Inđônêsia khôi phục quan hệ ngoại giao, đặt quan hệ ngoại giao với Niu Dilân, năm 1991, lại đặt quan hệ ngoại giao với, Brunây. Đến lúc đó, Trung quốc đã có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trong ASEAN. Năm 1992, Trung quốc bắt đầu tham dự Hội nghị đối thoại hàng năm giữa các bộ trưởng ngoại giao ASEAN với Trung quốc và Hội nghị hợp tác châu Á-Thái Bình dương của liên hiệp quốc lần đầu họp hội nghị hàng năm ở Bắc Kinh. Những nước láng giềng ASEAN đã nhận thức thấy công việc ở châu Á - Thái Bình Dương khó giải quyết được nếu không có sự tham dự của Trung quốc.
Những nước ở phần phía Bắc của vùng Nam Á có khoảng 5000 km biên giới chung với Trung quốc. Tình hình ở đây có ảnh hưởng càng trực tiếp hơn với Trung quốc. Thái độ của Đặng đối với vùng này là ra sức gạt bỏ động loạn, chỉ mong yên ổn. Nếu có nhân tố không ổn định thì cố gắng gạt bỏ nếu có nhân tố hòa bình thì ra sức ủng hộ, như ủng hộ các nước Nam Á xây dựng vùng phi hạt nhân, ủng hộ chủ trương của Nêpan tuyên bố Nêpan là khu vực hòa bình, ủng hộ đề nghị của Sơ ri Lanca về việc xây dựng khu vực hòa bình ở ấn Độ Dương.
Những bạn bè tốt nhất của Trung quốc ở Nam Á là Miến Điện và Pakitxtăng. Trung quốc và Miến Điện đã duy trì quan hệ láng giềng tốt trong hơn 30 năm. Đặng cho rằng giữa Trung quốc và Miến Điện có một tình hữu nghị đặc biệt - tình hữu nghị như anh em ruột thịt. Từ sau cuộc đi thăm đầu năm 1978, hai bên đối xử với nhau như anh em “càng qua lại càng thân thiết”. Quan hệ giữa Trung quốc và Pakitxtăng, theo cách nói của Đặng, là “không hề có vướng mắc gì”, dù có ý kiến khác nhau, cũng có thể hiểu nhau, như sự kiện tháng 6.1989, các nước phương Tây lên án Trung quốc chỉ có Pakitxtăng tỏ ra hoàn toàn hiểu được cách làm của Trung quốc. Trong hơn 10 năm Đặng chủ trì chính quyền, quan hệ láng giềng truyền thống giữa Trung quốc với Bănglađét, Nêpan, Sơ ri Lanca đã được củng cố và phát triển có hiệu quả.
ấn Độ, nước lớn nhất ở Nam Á, có hơn 2000 km biên giới chung với Trung quốc cũng có hơn 2000 năm lịch sử hữu hảo. Trung-ấn là hai nước lớn nhất châu Á, chung sống hòa thuận với nhau là rất quan trọng. Đáng tiếc là từ sau thập kỷ 50, hai nước đã có va chạm về vấn đề biên giới. Để cởi bỏ vướng mắc đó, Đặng đã lao lung suy nghĩ. Năm 1978, khi thăm Nêpan, đã nhờ ngoại trưởng ấn Độ mang thư về cho Thủ tướng ấn Độ, nói “chúng ta cần cải thiện quan hệ”. Đầu năm 1979, ngoại trưởng ấn Độ thăm Trung quốc. Ông lại đốc thúc “Ngày nay, chúng ta cần nắm vững thời gian cùng nhau cải thiện quan hệ giữa hai nước”. Cải thiện thế nào? Đặng sử dụng phương pháp sở trường giải quyết mâu thuẫn của ông là tách rời vấn đề biên giới với vấn đề cải thiện quan hệ giữa hai nước, cầu đồng tồn dị (tìm cái chung, gác bỏ cái bất đồng - Người dịch) không để trở ngại về vấn đề biên giới gây ảnh hưởng tới việc cải thiện quan hệ giữa những mặt khác. Vấn đề biên giới hãy để sau, nhất thời chưa thể giải quyết được, có thể trước hết giải quyết vấn đề phát triển trao đổi kinh tế văn hóa tăng cường hiểu biết và tình hữu nghị. Trước khi giải quyết vấn đề biên giới, hai bên tôn trọng hiện trạng biên giới, giữ gìn sự ổn định biên giới. Đương nhiên, vấn đề biên giới là không thể né tránh được, cuối cùng vẫn phải giải quyết Đặng chủ trương thông qua hiệp thương hòa bình để giải quyết, không cần cãi cọ hoặc dùng vũ lực. Bắt đầu từ năm 1981, hai nước tiến hành nhiều vòng đàm phán về biên giới. Đặng phân tích sự tranh chấp biên giới là vấn đề do lịch sử để lại, diện tích tuy không lớn, nhưng động chạm tới tình cảm của nhân dân hai nước, chỉ một bên nhượng bộ thì nhân dân trong nước khó chấp nhận. Do đó, cần áp dụng biện pháp chiết trúng, hai bên đều nhượng bộ, thực hiện việc “giải quyết cả gói”, kết hợp việc giải quyết vấn đề biên giới với vấn đề phát triển hợp tác cùng có lợi như vậy dễ thuyết phục nhân dân mỗi nước. Cuối năm 1988, thủ tướng ấn Độ Ra díp Găng đi chính thức thăm Trung quốc, Đặng đã tổng kết quan hệ Trung - ấn: Trong thập kỷ 50, quan hệ của hai nước chúng ta vô cùng tốt đẹp một giai đoạn sau đó thì cả hai bên đều không vui vẻ gì, nên quên nó đi? Tất cả nên nhìn về tương lai. Đặng còn nói lý lẽ với Găng đi: Hai nước Trung-ấn chúng ta có trách nhiệm lớn với nhân loại, là tự phát triển. Người ta thường nói thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á-Thái Bình Dương, nhưng hiện nay, những nước tương đối phát triển ở châu Á-Thái Bình Dương, tổng nhân khẩu chưa tới 200 triệu, dù có thêm một phần của Liên xô, Mỹ và Canađa, thì cũng không quá 300 triệu người, mà nhân khẩu hai nước Trung-ấn cộng lại đã là 1800 triệu người. Sự tính toán giản đơn đó cho thấy, nếu Trung quốc và ấn Độ không phát triển lên thì không thể có thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương. Sau khi nghe, vị thủ tướng trẻ tuổi của ấn Độ thấy vỡ nhẽ, cảm thấy hầu như nhất trí về mọi vấn đề Đặng đề cập. Đặng nói: Bắt đầu cuộc đi thăm của Ngài, chúng ta có thể khôi phục quan hệ bè bạn, người lãnh đạo hai nước trở thành bè bạn, hai nước trở thành bè bạn, nhân dân hai nước trở thành bè bạn...
Biên giới phía Bắc Trung quốc từ lâu không được yên ổn, chủ yếu là do Liên xô cậy thế gây ra. Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80, theo sự hòa hoãn trong quan hệ Đông-Tây và sự thay đổi của tình hình thế giới, giữa Trung-Xô dần dần xuất hiện những dấu hiệu hòa hoãn. Đặng hành động thuận theo xu thế tích cực mưu cầu sự hòa giải Trung- Xô Sau khi quan hệ Trung-Xô bình thường hóa, việc đi thăm cấp cao giữa hai bên tăng lên, lĩnh vực hợp tác không ngừng mở rộng. Năm 1991, Liên xô tan rã, Đặng không nghĩ tới tổn thất của phe xã hội chủ nghĩa, mà xuất phát từ lợi ích an toàn quốc gia, nhìn thấy mặt lợi cho Trung quốc: làm tiêu tan được tai họa lớn nhất đối với biên giới Trung quốc, do đó, đã vui vẻ xây dựng quan hệ với từng nước thuộc Liên xô cũ. Năm 1992, ngoại trưởng Nga thăm Trung quốc, xác nhận mọi hiệp định mà Trung quốc ký với Liên xô cũ, tiếp tục phát triển quan hệ láng giềng tốt Nga-Trung theo con đường đã bình thường hóa trong quan hệ Xô-Trung. Trung quốc cũng không bỏ lỡ thời cơ, xây dựng quan hệ ngoại giao với Cadắcxtan, Kiếcghiđi, Tátghikitxtăng và phát triển quan hệ mậu dịch biên giới.
Trong một thời gian ngắn ngủi hơn 10 năm, Đặng đã vận dụng tài năng ngoại giao hoà hảo với các nước láng giềng một cách xuất sắc, giải quyết êm đẹp hoàn cảnh Đông-Tây-Nam-Bắc Trung quốc, mở ra một thời kỳ tốt đẹp nhất, ổn định nhất trong quan hệ với các nước láng giềng từ ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến nay. Điều này không chỉ có lợi cho sự phát triển của bản thân Trung quốc, mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với sự ổn định, an toàn, hòa bình và phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và toàn thế giới.

7.15. Báo “Bình luận thành bon” của đức viết: mọi nhân sĩ nổi tiếng đã từng đi thăm Trung quốc đều thấy rằng, không có sự tham gia của Trung quốc thì không thể xây dựng được một trật tự thế giới mới
Cuối thập kỷ 80, cục diện thế giới có sự biến đổi to lớn về kết cấu: Sau biến động lớn ở Đông Âu, Liên xô giải thể, về kết cấu hai cực kéo dài 40 năm sau chiến tranh đã kết thúc với sự sụp đổ của một cực.
Kết cấu cũ đã bị phá vỡ, kết cấu mới chưa hình thành, thế giới ở vào trạng thái “không có kết cấu ổn định”. Tình hình này rõ ràng là một cơ hội để Trung quốc quật khởi. Nhưng cơ hội chỉ là thiên thời, có thể lợi dụng được hay không còn phải dựa vào mưu lược của con người. Thời kỳ đi tìm thế thăng bằng giữa hai siêu cường trong chiến lược tam giác lớn đã mất đi căn cứ khách quan, hiện nay cần tùy cơ ứng biến, kịp thời điều chỉnh chiến lược ngoại giao của Trung quốc.
Về lý luận, sau khi kết thúc kết cấu hai cực, có hai khả năng mới: Đi tới một cực và đi tới đa cực. Khả năng nào có lợi cho Trung quốc? Trước kia Trung quốc đã cải thiện quan hệ với cả hai siêu cường, nhưng không dựa vào bên nào, mà đứng thăng bang ở giữa, vì độc lập tự chủ, dùng “tam giác”để giữ quân bình hai cực. Ngày nay hai cực chỉ còn một, lại càng không cần thiết dựa vào nó. Ngược lại, trong kết cấu đa cực, Trung quốc có thể kể là một cực.
Thế là từ chiến lược ngoại giao “tam giác”, Đặng Tiểu Bình điều chỉnh thành chiến lược tranh “đa cực” và tranh về hai mặt:
1) Tiếp tục cải thiện quan hệ duy trì sự tiếp xúc với hai siêu cường cũ, đồng thời bỏ nhiều công sức tăng cường nền ngoại giao hòa bình với Nhật, Tây Âu, Đông Âu, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn phương Tây, thúc đẩy tiến trình đa cực hóa.
2) Tiếp tục lấy thế giới thứ ba làm hậu thuẫn, tranh hơn thua với các nước lớn phương Tây, dần dần nâng cao sức nặng của cực Trung quốc trong quá trình đa cực hóa.
Tháng 10.1988, Đặng nói với khách nước ngoài tới thăm: Thời đại thế giới do hai nước lớn làm chúa tể đã qua rồi, thế giới tương lai sẽ là một thế giới đa cực, trong đó bao gồm Trung quốc, Nhật Bản, Tây Âu và nhiều tập đoàn quốc gia khác.
Nhật và các nước Tây Âu đều không hài lòng với kết cấu hai cực do Liên xô và Mỹ làm chúa tể thế giới được định ra theo hiệp định Yalta sau chiến tranh. Trong một thời gian rất dài, những nước đó không thể không chấp nhận sự chi phối của một bá quyền, đó là sản vật của sự đối chọi giữa hai cực. Nay kết cấu hai cực kết thúc, không có nghĩa là một cực thất bại và một cực thắng lợi. Sau sự tan rã của tập đoàn Liên xô, tập đoàn Mỹ cũng mất đi sức kết tụ bên trong. Kẻ địch chung không còn tồn tại, thì cần gì phải kết lại với nhau để bị một bá chủ chi phối? Mọi nước đều muốn sống riêng rẽ, dù trước đây thuộc về tập đoàn nào, đều muốn xây dựng một kết cấu đa cực gồm nhiều lực lượng cùng tồn tại và chi phối lẫn nhau, trong đó có bản thân mình để khôi phục tư cách độc lập. Sự lựa chọn khuynh hướng đa cực của Đặng khiến Trung quốc có thể có cùng lập trường với Nhật Bản, Tây Âu, Đông Âu trong cuộc phản đối sự khống chế của một nước lớn, và Trung quốc có thể phát triển mạnh mẽ quan hệ với những nước trên, để tiến mạnh vào thế giới.
Nhật Bản từ lâu đã không hài lòng trước sự giám hộ về quân sự và sự chèn ép về kinh tế của Mỹ. Từ đầu thập kỷ 70, thủ tướng mới của Nhật Bản đã thay đổi chính sách ngoại giao theo đuôi Mỹ, thực hiện một chính sách ngoại giao tự chủ nhiều bên xoay quanh trục hợp tác Nhật- Mỹ. Năm 1972, ngoại trưởng Nhật Bản nói: “Thời đại Nhật Bản đi theo Mỹ đã kết thúc”. Chính hai người đã nói những lởi không lợi cho Mỹ đó là những người đầu tiên thúc đẩy việc bình thường hoá quan hệ Trung- Nhật. Nhật Bản không cam chịu làm một người bạn nhỏ của Mỹ. Hiện nay, họ đã là một cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới, tổng sản phẩm quốc dân của họ đã chiếm trên 60% của Mỹ, bình quân đầu người đã vượt hơn Mỹ. Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế Nhật Bản tính rằng: Đến đầu thế kỷ 21, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật sẽ tương đương với Mỹ, bình quân đầu người sẽ cao gấp đôi Mỹ. Từ năm 1985, Mỹ đã từ địa vị chủ nợ rơi xuống địa vị con nợ. Năm 1989, số nợ nước ngoài lên tới 660 tỉ đô la, hiện nay đã trở thành nước vay nợ lớn nhất thế giới. Về lực lượng tài chính và thực lực kỹ thuật, trên một trình độ nhất định, Mỹ đã bị lệ thuộc vào Nhật. Năm 1991, hiệp hội điện tử Mỹ đã công bố một tài liệu nói “Khoảng hơn 20 loại bộ phận và linh kiện quan trọng của Nhật đã được dùng trong hệ thống vũ khí Mỹ, trong đó có 7 loại chỉ có Nhật mới cung cấp được, ngoài ra không còn nguồn cung cấp nào khác.” Nếu không có một số vi mạch của Nhật, thì không thể thực hiện được chiến tranh kỹ thuật cao trong cuộc chiến vùng Vịnh. Báo chí Nhật không cần che giấu điều gì, nói: “Trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh, Mỹ đã huênh hoang với vai trò “sen đầm thế giới”, nhưng vẫn không thể không mang lá cờ liên hiệp quốc để các nước liên quan đóng góp một phần chi tiêu quân sự. Nhật Bản đã công khai tuyên bố dám nói “không” với Mỹ.
Đặng nhạy cảm nắm bắt được rằng, mâu thuẫn Mỹ-Nhật tăng lên sẽ làm tăng thêm sức nặng của Trung quốc ở châu Á- Thái Bình Dương. Sau khi trở thành cường quốc kinh tế, Nhật tích cực mưu cầu địa vị cường quốc chính trị, nhưng chính giới Nhật tỉnh táo nhận thấy rằng: Nếu không có sự tham dự của Trung quốc, những vấn đề quan trọng của vùng châu Á- Thái Bình Dương sẽ không thể được giải quyết thuận lợi; nếu không có sự ủng hộ của Trung quốc, Nhật Bản sẽ không thể thực sự phát huy tác dụng chính trị của một nước lớn. Ở Mỹ đã có người coi Nhật Bản là mối uy hiếp lớn nhất trong thế kỷ 21, nhưng nước Mỹ lại vẫn phải cầu cạnh Nhật Bản, không thể làm gì được trước một số hành động “vượt quỹ đạo” của Nhật. Do đó, Mỹ cũng rất hy vọng Trung quốc có thể trở thành một lực lượng lớn để kiềm chế Nhật Bản. Hai nước Mỹ- Nhật đều mong nhờ lực lượng Trung quốc để kiềm chế đối phương. Trung quốc cần xử trí ra sao? Mưu lược của Đặng là:
1) Củng cố quan hệ hữu hảo với Nhật Bản, cũng duy trì sự giao dịch bình thường với Mỹ, lợi dụng mâu thuẫn Mỹ- Nhật, đứng giữa phát huy tác dụng cân bằng, tạo thành quan hệ tam giác ở châu Á-Thái Bình Dương. Giống như “đại tam giác” Trung- Mỹ- Xô trong thập kỷ 80, Trung quốc không làm mất lòng ai và cũng không sợ ai, ngược lại Mỹ, Nhật lại sợ Trung quốc đứng cách mình quả xa, xích lại quá gần đối phương, nên không dám làm mất lòng Trung quốc. Như vậy, cực Trung quốc tuy về thực lực kinh tế là mỏng và yếu nhất, nhưng trong việc giải quyết công việc châu Á- Thái Bình Dương, lại trở thành một cực quan trọng, Trung quốc đứng về một phía nào thì phía kia không chịu nổi.
2) Trên tiền đề cùng giao dịch với Mỹ- Nhật, quan hệ Trung- Nhật được đặt ở vị trí tương đối ưu tiên hơn. Năm 1983, người lãnh đạo hai nước Trung- Nhật gặp nhau tại Tôkyô đã đưa ra một quyết sách có tầm nhìn trác việt, tức là suy xét quan hệ Trung- Nhật trong một góc độ lâu dài để phát triển. Đặng nói với Thủ tướng Nhật: “Việc này vượt qua tầm quan trọng của mọi vấn đề giữa chúng ta”.
Những điểm chung giữa Trung- Nhật lớn hơn giữa Trung- Mỹ rất nhiều, hai bên đều có đầy đủ lý do để coi trọng quan hệ giữa hai nước. Ưu tiên xét tới quan hệ với Nhật là quyết sách nhất quán của Đặng, vì Nhật Bản đối với Trung quốc chưa thể tạo thành uy hiếp lớn, ít nhất trong thời gian ngắn, còn Mỹ thì có khả năng đó. Sự đoàn kết Trung- Nhật là một quả cân quan trọng dể đối phó với chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Có được quan hệ Trung- Nhật vững chắc, Mỹ muốn lũng đoạn công việc ở châu Á- Thái Bình Dương, muốn cô lập Trung quốc là rất khó khăn. Dù quan hệ Trung Mỹ bị bế tắc, Trung quốc vẫn còn có đất xoay trở. Thí dụ sau “sự kiện 4-6”, dẫn đầu trừng phạt Trung quốc là Mỹ, và người phá vỡ cục diện bế tắc, trước tiên khôi phục quan hệ bình thường với Trung quốc là Nhật Bản.
Các nước Tây Âu càng bất bình với sự khống chế của Mỹ. Ngay từ thập kỷ 50, đã có người đề xuất sự cần thiết phải liên hiệp châu Âu để tránh trở thành nước phụ thuộc vào Mỹ, một siêu cường. Đờ Gôn là người đầu tiên đòi độc lập với Mỹ, đề ra khẩu hiệu “châu Âu của người Châu Âu” để đối kháng với cục diện Mỹ khống chế châu Âu. Sự thành lập và phát triển của Cộng đồng Châu Âu đã thúc đẩy sự hợp tác kinh tế của Châu Âu. Sau khi Liên xô tan rã, nước Đức thống nhất, bước đi của liên hiệp châu Âu càng tăng nhanh. Cuối năm 1991, Cộng đồng châu Âu gồm 12 nước thông qua hiệp ước Mađrít, đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa châu Âu về chính trị và kinh tế, ra sức thoát ly ảnh hưởng của Mỹ. Thực lực kinh tế của toàn châu Âu đã vượt Mỹ, sau khi thống nhất, tổng sản lượng quốc dân của Đức đã chiếm vị trí thứ ba thế giới. Sự suy yếu và tan rã của Liên xô khiến uy hiếp quân sự của nó với châu Âu không còn tồn tại, sợi dây gắn bó Mỹ và Tây Âu bị nới lỏng, Mỹ khó thông qua tổ chức NATO để duy trì địa vị chúa tể ở châu Âu. Nay, một số nước như Pháp chủ trương lấy Cộng đồng châu Âu làm trung tâm để xây dựng kết cấu châu Âu tương lai, Mỹ thì có ý đồ cải tổ NATO, thay đổi chức năng của NATO, để tiếp tục khống chế các nước Tây Âu Hai phía âu - Mỹ có mâu thuẫn gay gắt về các mặt an toàn, phòng vệ, buôn bán. Những mâu thuẫn đó cũng có lợi cho Trung quốc. Dù Mỹ không có ý định nhờ Trung quốc kiềm chế Tây Âu, nhưng việc giảm nhẹ sự khống chế với Tây Âu, lại tạo thời cơ để Trung quốc thâm nhập thị trường châu Âu. Ngay từ năm 1988, Đặng đã nêu ra ý kiến “cần nắm vững thời cơ các nước Tây Âu gặp khó khăn về kinh tế để hợp tác kỹ thuật với họ”. Hai ba năm sau, Đặng luôn suy nghĩ, tìm biện pháp tăng cường liên hệ kinh tế với Tây Âu. Năm 1985, Đặng khuyến khích các vị khách Italia: Châu Âu cần có chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, tức là đừng nghe theo sự xếp sắp của Mỹ, mạnh dạn hợp tác với Trung quốc. Sở trường của Tây Âu là kỹ thuật, về rất nhiều mặt không kém gì Mỹ, Nhật và người châu Âu dễ dàng hơn trong việc chuyển nhượng kỹ thuật. Tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật với Tây Âu, Trung quốc sẽ không bị quá lệ thuộc vào Mỹ, Nhật, bên này khó khăn sẽ có bên kia, có miếng đất rộng rãi để xoay trở. Tây Âu không có tranh chấp lãnh thổ với Trung quốc mà thị trường Trung quốc có sức hấp dẫn to lớn đối với cả Tây Âu và Mỹ, Nhật, nước nào cũng muốn nhanh chân để kiếm lợi. Mở cửa với cả hai phía Đông-Tây, giao dịch với cả hai phía, thì trong kết cấu đa cực trong tương lai, tác dụng và sức nặng của Trung quốc sẽ không chỉ hạn chế ở vùng châu Á- Thái Bình Dương, mà có ý nghĩa toàn cầu.
Liên xô từng can thiệp thô bạo vào công việc của các nước Đông Âu, làm tổn thương nghiêm trọng đến tình cảm dân tộc của những nước này. Mô thức thuần tuý theo kiểu Liên xô đã đem lại nhiều tổn hại cho sự nghiệp cách mạng và xây dửng của những nước này. Nhân dân Đông Âu từ lâu đã muốn thoát ra khỏi sự khống chế của Liên xô. Năm 1985, sự khống chế của Liên xô bát đầu bị rung động, Đặng khuyến khích các vị khách áo: Ngày nay, Tây Âu trong một phạm vi nhất định đã áp dụng chính sách độc lập, các nước Đông Âu trong một mức độ nhất định cũng áp dụng chính sách độc lập. Đó là điều rất đáng mừng, là một thay đổi rất quan trọng trong tình hình chính trị thế giới, sự giải thể của Liên xô không chỉ là sự giải phóng với các nước Đông Âu. Thế tất họ phải hướng về châu Á để tìm lối thoát, điều đó giống như mở ra cho Trung quốc một con đường để mở rộng giao dịch. Việc cải cách theo kinh tế thị trường của Trung quốc sớm hơn so với các nước Đông Âu; hai bên có nhiều thứ để bổ trợ cho nhau về kinh tế. Đông Âu có một số kỹ thuật mạnh hơn Trung quốc, và hàng công nghiệp nhẹ của Trung quốc lại có thị trường to lớn ở Đông Âu. Giao dịch với Đông Âu tuy không có được kỹ thuật cao và tiền vốn, nhưng Trung quốc không thể bị thiệt về kinh tế. Về mặt chính trị, có thể tạo nên ở đại lục Đông Âu một quan hệ tam giác Trung quốc-Đông Âu- Nga. Trung quốc giao dịch cả với Đông Âu và Nga. Tuy Trung quốc không cố ý kéo các “người bạn nhỏ” của Liên xô cũ về phía mình, và không muốn đối kháng với Nga, nhưng người Đông Âu rất thích giao dịch với người bạn ở Viễn Đông không có gì uy hiếp họ. Điều đó cũng có lợi cho việc ngăn chặn sự uy hiếp mới của Nga đối với Trung quốc.
Thế giới thứ ba ngay từ đầu đã là một lực lượng chống bá quyền, độc lập vượt khỏi hệ thống hai cực. Trung quốc trước kia không thể gọi là lớn mạnh, nhưng đã có thể đối phó với hai siêu cường, nguyên nhân quan trọng là sự ủng hộ của thế giới thứ ba. Đến cuối thập kỷ 80, Đặng thấy thời đại hai siêu cường làm bá chủ thế giới đã qua rồi “nhưng chính trị cường quyền đang tăng lên, một số ít nước phương Tây muốn lũng đoạn thế giới” Do đó, Trung quốc muốn tăng cường quyền phát ngôn trong vai trò quốc tế của mình, tăng thêm sức nặng trong khi giao dịch với các nước lớn phương Tây, giành lấy một chỗ trong thế giới đa cực, thì vẫn phải dựa chắc vào thế giới thứ ba, mượn lực lượng của thế giới thứ ba để chống lại bá quyền nước lớn. Thế giới thứ ba tuy nghèo, nhưng về số nhân khẩu, diện tích đất đai, tuyến giao thông chiến lược và nguồn tài nguyên, về tổng thể, họ có ưu thế mà bất kỳ nước phát triển nào cũng không có được. Cựu chủ tịch Cộng đồng châu Âu nói: “Sự phồn vinh của Cộng đồng châu Âu phải dựa vào mức độ phồn vinh của thế giới thứ ba nhiều hơn là vào các bạn hàng Mỹ và Nhật”. 1/4 lượng tiêu thụ nguyên liệu của Tây Âu, 2/5 của Nhật Bản đều phải nhập từ thế giới thứ ba. Lượng nguyên liệu trong công nghiệp Mỹ có 95 loại thì 68 loại phải nhập khẩu, trong đó 15 loại hoàn toàn phải nhập khẩu. Đối tượng xuất khẩu chủ yếu là thế giới thứ ba. Những nước phát triển phụ thuộc vào các nước kém phát triển cũng không kém các nước kém phát triển phụ thuộc vào họ. Về chính trị, hiện nay trong gần 180 thành viên liên hiệp quốc, có hơn 100 nước kém phát triển, cộng thêm những nước thế giới thứ ba khác, chiếm khoảng 2/8 số hội viên liên hiệp quốc, là một lực lượng không thể xem nhẹ. Những điểm chung giữa Trung quốc với các nước thế giới thứ ba nhiều hơn bất kỳ nước phát triển nào. Liên xô tan rã đã loại bỏ được trở ngại trong quan hệ giữa Trung quốc với thế giới thứ ba. Trong hệ thống các quốc gia hiện nay, chỉ có Trung quốc mới có thể lên tiếng thay mặt thế giới thứ ba. Đặng nhiều lần nhắc lại việc Trung quốc đứng về phía thế giới thứ ba, lá phiếu của Trung quốc trong Hội đồng bảo an liên hiệp quốc là lá phiếu của thế giới thứ ba, Trung quốc dù có phát triển lên, cũng vẫn là một thành viên của thế giới thứ ba. Ngoài ra, ông còn nắm vững vấn đề Nam-Bắc, dốc sức vào việc hợp tác Nam-Nam, bản thân điều đó là một mặt quan trọng để tăng cường sự liên hệ giữa Trung quốc với thế giới.
Thông qua hợp tác Nam-Nam lại có thể thúc đẩy đối thoaki Nam-Bắc, thế giới thứ ba đại biểu cho 3/4 nhân khẩu thế giới, thảo luận những vấn đề toàn cầu và trật tự thế giới mới với “một thiểu số những nước phát triển”. Bản thân Trung quốc không phải là yếu, lại thêm có thế giới thứ ba làm hậu thuẫn, đã linh hoạt giao dịch với các nước phương Tây. Thế giới tương lai, dù có bao nhiêu cực, thì bất kỳ thế nào, Trung quốc cũng là một cực, mà sức nặng của cực này lại không phải là quá nhẹ.
Xét về tình hình trước mắt, cực Trung quốc có sức nặng ra sao? Tốt nhất là xem cảm tưởng của bên ngoài: Báo “Bình luận thành Bon” của Đức nói: “Mọi nhân sĩ nổi tiếng đã từng thăm Trung quốc đều thấy, nếu không có sự tham gia của Trung quốc, thì không thể xây dựng thành công trật tự thế giới mới”.
Còn một loại dư luận thế giới nữa: “Trung quốc có một ảnh hưởng to lớn trong công việc thế giới”, “nhất là trong khi sự cân bằng của thế giới mới chưa hình thành, việc giải quyết rất nhiều vấn đề quốc tế không thể thiếu sự hợp tác của Trung quốc”, “Trung quốc rõ ràng có thể đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn”.

7.16. Che giấu lực lượng
Năm 1989, sau vụ “dẹp loạn 4-6”, các nước phương Tây dồn dập gây sức ép, trừng phạt Trung quốc. Để chống lại sức ép bên ngoài, dẹp yên tàn dư động loạn, khẩu hiệu chống “diễn biến hòa bình” lại được đưa lên vị trí chiến lược. Ngờ đâu chẳng bao lâu sau, mặt trận xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu đưa tới tin tức chấn động: Rất nhiều nước xã hội chủ nghĩa chỉ trong chốc lát đã thay đổi mầu sắc. Trung quốc nhất thời đứng giữa hai sức ép (Liên xô và Đông Âu biến đổi tạo nên sức ép tâm lý ở một mức độ nhất định còn đáng sợ hơn sự trừng phạt của phương Tây). Tình thế so với thập kỷ 50 khi Mao Trạch Đông đứng trước tình hình quốc tế lúc đó, còn phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Nhiều người cuống quít. Cuộc tiến công “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa tư bản diễn ra vào lúc chúng ta vừa ra sức nói về chiến thắng lịch sử tất nhiên của chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa tư bản, thì đột nhiên bao nhiêu lá cờ đỏ xã hội chủ nghĩa tới tấp rơi xuống đất. Vậy phải làm thế nào?
Lúc đó Đặng Tiểu Bình đã hoàn toàn rút lui, từ bỏ chức vụ cuối cùng là chủ tịch quân ủy, thực hiện nguyện vọng rút lui khỏi vũ đài chính trị. Trong khi trao đổi với thế hệ lãnh đạo thứ ba, Đặng hiến kế: “Đối với tình hình quốc tế, có thể khái quát. Lại thành ba câu sau đây: Câu thứ nhất: Bình tĩnh quan sát. Câu thứ hai: Giữ vững trận địa. Câu thứ ba: Trầm tĩnh đối phó, không vội vàng, vội cũng không được. Cần bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh hơn nữa. Cắm đầu mà làm, làm tốt mọi việc của bản thân mình”. Sau này khi truyền đạt, Đặng còn thêm một câu thứ tư nữa là che giấu lực lượng. Gộp cả lại, được gọi là “phương châm 16 chữ” để đối phó với tình hình quốc tế trước mắt. Nếu không bình tĩnh, với “sự biến Liên xô, Đông Âu mà vội vã đưa ra nhận định và bình luận thì có thể nói gì? Nếu nói thay đổi như thế là tốt thì coi như thừa nhận chủ nghĩa xã hội đã phá sản, thế tất sẽ làm lung lay “cái gốc dựng nước” của Trung quốc, hoàn toàn đáp ứng nhu cầu “diễn biến hòa bình” của các nước phương Tây. Càng phiền phức hơn nữa là nói như thế sẽ mâu thuẫn với việc đánh giá và giải quyết “sự kiện 4-6”, không thể nào nói cho xuôi được. Lúc đó, tàn dư động loạn chưa hết, làm như thế khác gì tự đào chân móng của mình.
Nếu khiển trách Liên xô và Đông Âu, lên án họ là kẻ bội phản chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu thành quả của cách mạng tháng 10, làm gãy lá cờ của chủ nghĩa Lênin thì như thế rất có khả năng gây lại cuộc đại luận chiến kịch liệt trong phong trào cộng sản thế giới vào thập kỷ 60. Vả lại, vũ khí mà Trung quốc dùng để chống lại sự trừng phạt của các nước phương Tây là “không can thiệp vào công việc nội bộ”, không cho phép người khác can thiệp vào chế độ xã hội của Trung quốc. Nếu Trung quốc vội vã nhảy ra để chỉ trích chế độ mới ở Liên xô và các nước Đông Âu, thì chẳng phải là can thiệp vào việc nội bộ của người ta sao?
Về không khí chính trị lúc đó ở Trung quốc, mối nguy thứ nhất không có nhiều khả năng xuất hiện, mà cái đáng lo nhất là khuynh hướng thứ hai. Bởi vì lúc đó, đúng là có nhiều người cho rằng hiện nay “chỉ có Trung quốc mới cứu được chủ nghĩa xã hội” chứ không chỉ là “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cứu Trung quốc”. Họ mong Trung quốc đứng ra, nhân cơ hội Liên xô tan rã, vươn lên đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa, giương cao lá cờ lớn chống diễn biến hòa bình của các nước phương Tây.
Đặng thấy làm như vậy không phải là nâng cao địa vị của Trung quốc mà là đưa Trung quốc ra nướng trên lò lửa. Các nước phương Tây thấy Liên xô và Đông Âu đã thay đổi, nước xã hội chủ nghĩa lớn chỉ còn lại có Trung quốc, vốn đã coi Trung quốc là “trung tâm mới của thế giới cộng sản”. Nếu Trung quốc quả thật giương cao lá cờ đó thì thế tất sẽ trở thành mũi nhọn để phương Tây công kích. Như thế, quan hệ giữa Trung quốc với phương Tây sẽ không còn đất để hòa hoãn nữa. Các nước thuộc Liên xô và Đông Âu cũng vị tất đã chịu, quan hệ hòa hoãn vừa đạt được với họ có khả năng lại trở thành căng thẳng. Như vậy Trung quốc sẽ ở vào hoàn cảnh gặp kẻ địch ở cả hai phía, đi trở lại con đường “chống đế quốc, chống xét lại” cũ, và bị cô lập trên quốc tế.
Mưu lược của Đặng hoàn toàn ngược lại: “Không tùy tiện phê phán người khác, chỉ trích người khác, không nên nói lời gì quá mức, không nên làm việc gì quá mức” Không để lộ mũi nhọn, che giấu thực lực. Ít quản công việc của người khác, càng không nên làm công việc ngu ngốc là chuốc hư danh mà gây tổn hại cho mình, chỉ làm tốt một việc làm thật tốt công việc của bản thân mình. Công việc của bản thân mình là thế nào? Coi trọng cả ổn định và cải cách. Dù Liên xô và Đông Âu thay đổi thế nào, “bản thân Trung quốc phải giữ vững trận địa, nếu không người khác sẽ dạy bảo chúng ta” (như trên). Nếu không ổn định thì việc gì cũng không làm nổi. Nhưng không thể vì cần ổn định mà vứt bỏ cải cách mở cửa. “Không có cải cách mở cửa thì không có hy vọng”. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Liên xô xảy ra vấn đề là kinh tế không tiến lên được, có nước thì vì lâu dài không cải cách. Đặng nhấn mạnh phải xây dựng lại hình tượng cải cách mở cửa, nghiêm túc tiến hành công việc cải cách mở cửa, tỏ rõ chính sách cải cách mở cửa của Trung quốc không đổi. ông cho rằng đó là điều then chốt để giải quyết mâu thuẫn trên quốc tế và trong nước. “Trầm tĩnh đối phó” là như thế.
Về mặt hình thái ý thức xã hội, Đặng thực hiện phương châm “chặt chẽ ở trong nước, rộng rãi với bên ngoài”. Đối nội vẫn phải nói tới bài học Liên xô và Đông Âu, nhấn mạnh sự cần thiết phải chống “diễn biến. hòa bình”. Nếu không, sẽ không ổn định được cục diện, nhân tố động loạn có thể ngóc đầu dậy. Đối ngoại thì tuyên bố “tôn trọng sự chọn lựa của nhân dân Liên xô và Đông Âu” không tiến hành tranh luận về hình thái ý thức xã hội. Dù Liên xô thay đổi thế nào, vẫn phát triển quan hệ với họ. Kết quả, không phát sinh chuyện gì với phía Liên xô, ngược lại sự tan rã của Liên xô lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Trung quốc, chủ nghĩa xã hội của Liên xô tan rã nhưng không hề gây ảnh hưởng gì đến chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc.
Đối với sự trừng phạt và gây sức ép của phương Tây, Đặng nói: một là, phải chống lại, không tỏ ra yếu đuối; hai là không tự cô lập, tận lực tìm cơ hội hòa hoãn. Thí dụ, đề nghị Lý Chính Đạo nói lại với “những người đã tham gia du hành và ký tên ở nước ngoài, là Trung quốc không để ý đến vấn đề dó, mong họ không nên lo lắng” Đề nghị đại sứ Tổng thống Mỹ “chuyển lời tới Tổng thống Bu-sơ, rằng ở phương Đông, có một ông già Trung quốc đã về hưu quan tâm tới việc cải thiện và phát triển quan hệ Trung-Mỹ”. Kết quả, những người đã hăng hái trừng phạt Trung quốc thấy nước Trung quốc lớn như vậy, lại cứng cỏi không sợ hãi, trừng phạt không có tác dụng, nên cũng dần dần thay đổi: tiếp tục giữ quan hệ với Trung quốc để khỏi mất mối lợi từ thị trường Trung quốc. Thêm nữa, Trung quốc tiếp tục cải cách mở cửa thì không sao, nếu gây áp lực mạnh quá, họ lại đóng cửa lại, thì chẳng phải là thiệt thòi sao? Sau cùng, phương Tây vẫn phải làm theo ý Đặng, lần lượt khôi phục lại quan hệ bình thường.

7.17. Đặng là một người chào hàng siêu hạng của Trung quốc
Năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình sang thăm Nhật Bản, một nhà báo Mỹ cảm phục nói: “Trong chuyến thăm Nhật Bản, Đặng đã đóng vai một nhà chào hàng siêu hạng của Trung quốc”.
Cái mà Đặng muốn chào mời không phải là một thứ hàng hóa, cũng không phải là bản thân ông, mà là Trung quốc đã một thời ngăn cách hoàn toàn với thế giới. Ông muốn giới thiệu Trung quốc với thế giới, để Trung quốc tiến ra thế giới, bởi vì đó là một trong những tiền đề không thể thiếu để hiện đại hóa Trung quốc.
Hãy xem Đặng đã chào mời như thế nào ở Nhật và ở Mỹ. Trong nghi thức trao đổi văn bản hòa ước, cờ hai nước treo cao, quốc ca hai nước được cử lên, những cái bắt tay nồng nhiệt, những chiếc cốc chạm nhau... Tưởng như thế đã đủ, nhưng Đặng còn có một cử chỉ mới: Thân thiết ôm hôn Thủ tướng và ngoại trưởng Nhật. Hai nhà ngoại giao nổi tiếng bị hành động bất ngờ của Đặng làm cho lúng túng. Người Trung quốc xưa nay vẫn giữ gìn gò bó, ngay việc bắt tay cũng là mới học của phương Tây. Ai ngờ được rằng, người lãnh đạo một nhà nước cộng sản lại có thể biểu thị tình bè bạn với chủ nghĩa tư bản bằng cách “ngả vào lòng” họ như vậy. Đặng còn tổ chức một cuộc họp báo kiểu phương Tây ở Tôkyô. Đó cũng là việc lần đầu của một nước cộng sản. Những cử chỉ đó đã gây cho người xem toàn thế giới một ấn tượng: Trung quốc đã mở cửa, mức độ mở cửa. vượt ra ngoài cả dự đoán của mọi người.
Điều mà Kayayohei khâm phục Đặng nhất là bản lĩnh nắm vững lòng người của Đặng. Thực ra, việc đi thăm chính thức nước ngoài, trao đổi văn bản điều ước, làm quen với các quan chức, làm việc công như thế là đủ. Nhưng Đặng lại chú ý đi vào vấn đề tình cảm. Ông đến thăm nhà riêng hai người bạn Nhật, cám ơn họ đã tích cực góp sức vào quá trình khôi phục tình hữu hảo Trung-Nhật. Việc đến thăm đó hoàn toàn là trao đổi tình cảm đã tỏ rõ là người Trung quốc biết nhận rõ tốt xấu, không quên tình cố cựu Còn gia đình những bạn bè đã mất, Đặng không thể đến từng nhà, liền mời họ đến nhà khách nói chuyện thân mật. Những người thân đó, có người thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba, được đối đãi trân trọng như vậy, không ai không xúc động, có người rơi nước mắt. Lời lẽ của Đặng càng giàu tình cảm: “Các vị là thân thuộc của những người bạn cũ của Trung quốc, đương nhiên cũng là người thân thuộc của nhân dân Trung quốc”. Đặng hy vọng họ năng lui tới Trung quốc như đến với người thân. Người Trung quốc coi trọng tình cảm và tín nghĩa như vậy, thì có lý do gì mà không hữu hảo?
Hai nước Trung-Nhật đều lưu hành trong dân gian câu chuyện Tần Thủy Hoàng phái Từ Phúc đi tìm thuốc trường sinh bất lão. Trong khi nói chuyện với những người lãnh đạo 6 đảng không cầm quyền, Đặng nói mục đích chuyến đi này của mình, ngoài việc trao đổi văn bản điều ước và biểu lộ tình cảm với bạn bè cũ, còn một việc nữa là đi tìm thuốc trường sinh bất lão. ủy viên trưởng của đảng Công Minh đã nói một câu đầy hàm ý: “Thuốc tốt nhất chẳng phải là điều ước hữu hảo đó sao?” Đặng gật đầu, cái mà ông muốn tìm là kinh nghiệm thành công của Nhật Bản. Về mặt này, Đặng giống như một người chào hàng xuất sắc
Khi thăm nhà máy sản xuất ô tô, Đặng được biết số ô tô sản xuất theo đầu người công nhân hàng năm là 94 cái, trong khi nhà máy ô tô hiện đại nhất Trung quốc là nhà máy ô tô số 1 ở Trường Xuân chỉ là 1 cái, thì vô cùng cảm khái nói: “Tôi đã hiểu thế nào là hiện đại hóa. Hoan nghênh những nước phát triển về công nghiệp, đặc biệt là giới doanh nghiệp Nhật Bản đã hợp tác với công cuộc hiện đại hóa Trung quốc. Đây cũng là điều thắt chặt thêm quan hệ giữa hai nước”.
Công ty gang thép Tân Nhật, bắt đầu từ năm 1977 đã buôn bán với Trung quốc với trị giá 3, 8 tỷ đô la. Đặng tham quan một nhà máy của công ty, nói chuyện với “vua gang thép” Nhật về những hạng mục hợp tác với nhà máy thép Bảo Sơn, Thượng Hải: “Năng lực quản lý của chúng tôi kém, cần phải học tập. Nếu không dạy chúng tôi về quản lý tốt thì không làm việc được. Chúng ta hãy ký với nhau một hiệp định quân tử nếu Thượng Hải làm không tốt thì đó không phải là trách nhiệm của học trò, mà là thầy dạy không tốt”. Ông này, sau nhiều lần tỏ ý, nhất định sẽ giúp nhà máy thép Bảo Sơn, Thượng Hải sản xuất còn tốt hơn là nhà máy của Nhật Bản nữa.
Người sáng lập công ty Tùng Hạ của Nhật được gọi là “ông thần kinh doanh”. Đặng sau khi xem dây chuyền sản xuất truyền hình mầu, thành khẩn nói: “Những điều chúng tôi cần học tập có rất nhiều, mong tiên sinh Tùng Hạ và các vị giúp đỡ”. Ông này nói: “Chúng tôi sẽ truyền lại cho các ngài tất cả”.
Trung quốc cần viện trợ, hợp tác. Đó cũng là điều mà Nhật Bản mong muốn. Trung quốc có 900 triệu người, tài nguyên phong phú theo sự tiến triển của hiện đại hóa, sẽ cần mua rất nhiều thiết bị cơ khí của nước ngoài. Giới kinh tế Nhật coi Trung quốc là thị trường buôn bán lớn nhất còn lại trên thế giới. Đặng nắm lấy điểm đó, đã gây nên “cơn sốt Trung quốc” trong giới kinh tế Nhật. Hơn 200 công ty Nhật đồng thời đăng quảng cáo trên báo chí, chúc mừng điều ước Trung-Nhật có hiệu lực và hoan nghênh ngài Đặng thăm Nhật Bản. Sáu tập đoàn kinh tế còn tổ chức tiệc chiêu đãi. Bình thường, những cuộc chiêu đãi như thế của họ chỉ có không quá 200 khách, khi chiêu đãi mừng nữ hoàng Anh Elidabét cũng chỉ có gần 300 người, nhưng lần này có tới hơn 320 người. Trong bữa tiệc còn thực sự xuất hiện hoạt động chào hàng: Các nhân viên Nhật và các tùy viên của Đặng từng đôi một trao đổi danh thiếp với nhau.
Chặng cuối cùng trong chuyến đi của Đặng là tại vùng KANSEI. Chẳng phải là Trung quốc cần thế giới, mà thế giới cũng cần Trung quốc sao? Kansei là địa phương của Nhật rất cần tới Trung quốc. Sau chiến tranh, cơ sở kinh tế của Kansei bị yếu đi là do mất thị trường Trung quốc. Tờ “Tin tức hàng ngày” bình luận “mức độ hy vọng của Trung quốc đối với giới tài chính Kansei thật ra ngoài dự đoán, mà sự mong mỏi của giới kinh tế Kansei đối với Trung quốc lại còn lớn hơn thế nữa”. Trước khi Đặng tới Kansei, giới kinh tế Kansei đã tiến hành ganh đua kịch liệt trong cuộc chiêu đãi của chính phủ chào mừng Đặng. Sau này, họ lại tổ chức riêng một cuộc chiêu đãi chào mừng Đặng.
Ba tháng sau, cơn lốc Đặng Tiểu Bình từ Nhật truyền tới Mỹ, bắt đầu cuộc chinh phục nước Mỹ.
Giới thiệu Trung quốc với người Mỹ, cần nắm vững đặc điểm của người Mỹ. Ở đây, không nên tỏ cảm tình nhiều, mà điều quan trọng là biểu lộ rõ cá tính và khí phách của người Trung quốc.
Brêdínxki là sứ giả của quan hệ hữu hảo Trung- Mỹ, đồng thời cũng là chuyên gia chống cộng nổi tiếng. Sau khi Đặng tới Mỹ mới hai giờ, liền đi xe tới nhà riêng của ông ta ở vùng ngoại ô, tham gia một bữa chiêu đãi bít tết mà ông ta đã hẹn 7 tháng trước.
Van-xơ đã từng oán trách một câu nói của Brêdinxki khi thăm Trung quốc đã gây trở ngại cho việc phát huy tác dụng quốc vụ khanh của mình. Vì vậy, Tổng thống Ca tơ đã có thời gian hạ thấp vai trò của Brêdinxki, yêu cầu ông ta đứng ở phía sau. Lần đến thăm này của Đặng, rõ ràng là sự tán dương cống hiến của Brêdinxki đối với việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ, đồng thời cũng tỏ rõ rằng, để phát triển quan hệ Trung-Mỹ, người Trung quốc có thể coi cả những người chống cộng là bạn bè, có dũng khí và phong độ để giao du cả với “ma quỷ”. Trong bữa tiệc Brêdinxki nói tới việc Tổng thống Ca tơ vì quyết định bình thường hóa quan hệ với Trung quốc nên đã gặp phải một số khó khăn chính trị ở trong nước, và hỏi Đặng có gặp khó khăn tương tự không. Đặng khéo léo trả lời câu hỏi không nên nêu ra đó, và nhân cơ hội nói rõ lập trường nguyên tắc của Trung quốc trong việc giải quyết quan hệ Trung - Mỹ. Ông nói: “Đúng như vậy, tôi cũng gặp phải khó khăn, ở tỉnh Đài Loan, có một số người có ý kiến phản đối”.
Tại trung tâm Kennơđi, Đặng tham dự một cuộc dạ hội. Có nghệ sĩ dương cầm hàng đầu biểu diễn, có múa ba lê hiện đại có thi đấu bóng rổ... Tất cả đều đặc sắc, làm người xem say mê. Tiết mục cuối cùng là một đoàn thiếu nhi ngây thơ hoạt bát trình diễn một số bài hát Trung quốc, đưa không khí dạ hội lên tới cao trào. Sau buổi biểu diễn, người lãnh đạo hai nước và phu nhân lên sân khấu gặp mặt các diễn viên. Cuộc dạ hội đó tốn phí 50 vạn đô la, do một công ty dầu lửa tài trợ. Công ty này cũng như mọi công ty lớn khác của Mỹ, thấy rõ Trung quốc là một thị trường có tiềm lực to lớn, muốn nhân dịp Đặng Tiểu Bình thăm. Mỹ để quảng cáo cho mình. Đặng biến việc này thành dịp quảng cáo cho Trung quốc với Mỹ. Tổng thống Ca-tơ ghi trong nhật ký: “Khi Đặng ôm hôn các diễn viên Mỹ, đặc biệt là khi ôm hôn các diễn viên nhỏ tuổi đã hát bài hát Trung quốc, đã biểu lộ tình cảm chân thành. Ông đã hôn rất nhiều thiếu nhi. Sau này nhiều báo đưa tin, có nhiều khán giả Mỹ đã rơi nước mắt. Nghị sĩ Kchatơ là người cực lực phản đối Trung-Mỹ bình thường hóa quan hệ: nhưng sau cuộc dạ hội này, đã nói là mình thất bại, không có cách nào bỏ phiếu chống lại việc các thiếu nhi Mỹ hát bài hát Trung quốc. Đặng... thực sự đã làm rung động khán giả có mặt hôm đó và các khán giả xem truyền hình”. Hutstơn là trung tâm lớn nhất vùng phía Nam nước Mỹ về luyện dầu, hóa học, chế tạo máy và công nghiệp đóng tàu, lại có cả trung tâm vũ trụ. Đặng bỏ ra hai ngày để thăm nơi này. Tại Xmơntơn phía Tây Bắc Huxtơn, phía Mỹ đã tổ chức một cuộc chiêu đãi bít tết mang đầy phong vị miền Tây Hoa Kỳ. Dự chiêu đãi, về phía Mỹ, ngoài các quan chức, phần nhiều là các nhà tư bản dầu lửa Bang Tếch dát. Họ có mong muốn rất lớn đối với việc đầu tư khai thác dầu lửa và các khoáng sản khác ở Trung quốc, nên đều tranh thủ cơ hội để quảng cáo cho mình. Có một vị khách không mời, từ Caliphoócnia tới, tìm cách trà trộn vào phòng tiệc. Ông này là một nhà tư bản dầu lửa nổi tiếng thế giới, là giám đốc công ty dầu lửa Tây Hoa Kỳ. Ông ta đã từng gặp Lênin. Vì ông ta từng có quan hệ mật thiết với các thế hệ người lãnh đạo Liên xô, các cố vấn của Ca tơ sợ ông ta sẽ là nhân vật gây lo ngại cho Đặng Tiểu Bình, nhưng Đặng đã có một cử chỉ khiến mọi người không ngờ: Mời ông ta đến ngồi cạnh chỗ mình, tỏ ý tiếc là được gặp quá muộn. Khi người phiên dịch giới thiệu ông ta với Đặng, Đặng ngăn lời phiên dịch lại, nói: “Rất nhiều người Trung quốc đã biết ngài, ngài là bạn của Lênin. Khi Liên xô gặp khó khăn, ngài đã giúp đỡ họ. Chúng tôi hoan nghênh ngài tới thăm Trung quốc”. Ý kiến đó làm cho ông ta rất phấn khởi. Ông ta nói: “Tôi rất muốn đến Trung quốc. Nhưng tôi đã già quá rồi, không chịu nổi một chuyến bay của máy bay dân dụng, mà Trung quốc lại không tiếp nhận chuyên cơ”. Đặng cười lớn, phẩy tay: “Điều đó rất đơn giản. Trước khi ngài đi, xin đánh điện báo trước, chúng tôi sẽ xếp sắp, mong ngài mang theo nhiều chuyên gia”. Ba tháng sau, quả nhiên ông ta đi chuyên cơ tới Bắc Kinh, và nhanh chóng ký với Trung quốc một số hiệp nghị sơ bộ về thăm dò dầu lửa, khai thác khoáng sản, giống lúa mới và phân hóa học. Sau này, hầu như năm nào ông ta cũng tới Bắc Kinh và gặp mặt Đặng. Đặng tạo mọi thuận lợi cho hoạt động của ông ta ở Trung quốc và tặng ông ta một con gấu mèo lớn của Trung quốc để đem tới thế ván hội Lốt Ănggiơlét.
ở Xmơntơn, Đặng còn nhận lời mời đến tham quan một cuộc đua ngựa. Đó là một hoạt động giải trí đầy tinh thần cao bồi miền Tây mà người Mỹ rất ưa thích. Trước khi vào trường đua, phu nhân Trác Lâm (vợ Đặng - Người dịch) đã đội một chiếc mũ cao bồi màu xám. Sau khi vào trường đua, hai nữ kỵ sĩ cưỡi ngựa trắng lại tặng Đặng và Phương Nghi mỗi người một chiếc mũ cao bồi màu trắng có vành uốn cong lên. Đặng lập tức cao hứng đội lên đầu, và ngồi vào chiếc xe ngựa kiểu thế kỷ thứ 19, thoải mái dạo hai vòng quanh trường đua, vẫy tay đáp lại những tràng pháo tay của khán giả. Không lâu trước đó, đã có nhà văn Mỹ tả người Trung quốc là một “đàn kiến xanh” không hề có cá tính. Ông ta khẳng định đã không thể tưởng tượng được lúc đó trước mặt các khán giả Mỹ “con kiến chúa” lại tỏ ra thích thú với cái mũ cao bồi bang Tếchdát như vậy. Chuyến tới thăm của Đặng đã làm cho việc buôn bán mũ cao bồi rất chạy ở vùng này. Trong một hiệu bán mũ, mấy trăm chiếc mũ cao bồi đã được bán hết rất nhanh với giá 30 đô la mỗi cái.
Sự tiếp đãi long trọng và hoan nghênh nồng nhiệt trong chuyến thăm Mỹ của Đặng, là việc chưa từng có trong lịch sử ngoại giao gần 20 năm nay của Mỹ. Có thể nói người Mỹ chưa bao giờ có thái độ như vậy với người lãnh đạo một nước cộng sản. Nghe nói, khi Khơrútsốp đến Niu Yoóc dự đại hội đồng niên hiệp quốc, cục di dân Mỹ nhất định đòi ông ta phải điểm chỉ mới được nhập cảnh. Đặng đã giành được sự hoan nghênh phổ biến ở nước đứng đầu thế giới tư bản, chỉ trong tám ngày, ở Mỹ đã dấy lên “cơn sốt Trung quốc”. Người nào cũng muốn gặp ông, bắt tay, hoan hô, chào hỏi và xin ông chữ ký lưu niệm. Hơn 2000 nhà báo đã đi theo, phỏng vấn và đưa tin về hành động của ông. Giờ cao điểm của ba mạng vô tuyến truyền hình Mỹ đã biến thành “thời gian Đặng Tiểu Bình”. Đặng không hề mệt mỏi hội đàm với các quan chức Mỹ, hội kiến với mấy trăm nghị sĩ, thống đốc bang, thị trưởng và các nhân vật nổi tiếng trong giới kinh doanh, giới giáo dục trong nhiều trường hợp, còn trực tiếp diễn thuyết trước mấy ngàn người. Phóng viên “Nhân Dân nhật báo” bình luận: Trong lịch sử quan hệ đối ngoại, lập trường của Trung quốc với các công việc quốc tế và quan hệ Trung-Mỹ đã được công chúng Mỹ hiểu sâu sắc bằng phương thức trực tiếp có hiệu quả. Đó là điều chưa bao giờ có.

7.18. Cùng nhau khai thác
Việc tranh chấp lãnh thổ giữa các nước là vấn đề hết sức khó giải quyết, xưa nay hầu như chỉ có một biện pháp là dùng vũ lực. Đặng Tiểu Bình lại nghĩ ra một biện pháp giải quyết mới, là cùng nhau khai thác.
Phía Bắc Đài Loan có một hòn đảo nhỏ, Trung quốc gọi là đảo Điếu Ngư, diện tích rất nhỏ, không có người ở, cũng không ghi trên bản đồ, xưa nay vẫn coi là một đảo nhỏ phụ thuộc đảo Đài Loan. Sau chiến tranh Giáp Ngọ, Nhật cắt Đài Loan khỏi Trung quốc, bao gồm cả hòn đảo nhỏ đó. Năm 1945, Nhật bại trận đầu hàng, rút khỏi Đài Loan, nhưng không ai nói tới việc hòn đảo nhỏ đó thuộc về ai, không ai coi đó là chuyện gì. Sau, trên đảo có dầu lửa, việc quy thuộc trở thành một vấn đề tranh cãi. Năm 1972, khi Trung-Nhật lập quan hệ ngoại giao, thủ tướng Nhật yêu cầu thủ tướng Chu Ân Lai xác nhận rõ hòn đảo đó thuộc về Nhật Bản. Để cho vấn đề nhỏ đó không làm ảnh hưởng tới việc bình thường hóa giữa hai nước, Chu Ân Lai dùng sách lược né tránh, nói hiện nay chưa nên thảo luận vấn đề đó. Phía Nhật đành phải thôi. Năm 1978, Trung- Nhật đã hoàn thành việc bình thường hóa, ngoại trưởng Nhật muốn nhân dịp hai bên vừa trao đổi văn bản điều ước hữu hảo, lại đề xuất với Đặng Tiểu Bình yêu cầu xác nhận đảo đó là của Nhật Bản. Đặng dùng biện pháp né tránh, nói một cách nhẹ nhàng: “Thôi, vẫn giữ như trước, hãy gác lại 20 năm, 30 năm nữa”. Hai bên đều thỏa thuận, khi thực hiện bình thường hóa quan hệ không đề cập tới vấn đề đó.
Tháng 10.1978, Đặng thăm Nhật, không khí hữu nghị giữa hai nước nồng ấm. Chiều 25, Đặng họp báo ở Tôkyô. Người lãnh đạo Trung quốc tham dự cuộc chiêu đãi báo chí “kiểu phương Tây” như vậy là lần đầu tiên. Trước hơn 400 nhà báo nổi tiếng thế giới, Đặng trầm tĩnh tự tin, ứng đối lưu loát, lại mang nhiều phong vị u-mua, không khí buổi họp rất sôi nổi. Bỗng có một nhà báo Nhật nêu ra vấn đề sở hữu đảo Điếu Ngư, xin phó thủ tướng Đặng trả lời. Mục đích nêu vấn đề của nhà báo đó, nếu không phải là cố ý nêu vấn đề gai góc để thử trí tuệ của Đặng, thì cũng là để lợi dụng trường hợp công khai, lợi dụng không khí hữu hảo giữa hai bên nêu lên vấn đề mà các quan chức không tiện nêu ra, buộc Đặng phải tỏ thái dộ trước công chúng. Cần tỏ thái độ thế nào đây? Nếu trả lời là nên quy thuộc về Nhật Bản thì coi như Trung quốc công khai từ bỏ chủ quyền với hòn đảo đó. Đảo tuy không lớn, nhưng chủ quyền quốc gia là chuyện lớn. Nếu nói nó thuộc về Trung quốc, thì sẽ dẫn tới tranh luận, ít nhất cũng là phủ một bóng đen lên quan hệ hữu hảo vừa được khôi phục giữa hai nước Trung- Nhật. Các nhà báo có mặt hoàn toàn không ngờ Đặng lại lựa chọn đáp án thứ ba, không những đã khéo léo giải đáp câu hỏi khó khăn, lại “chiếu tướng” lại đối phương. Đặng nói: Vấn đề đó, “hai bên có những ý kiến khác nhau, khi thực hiện bình thường hóa bang giao, chúng tôi đã thoả thuận không đề cập tới vấn đề đó”, “nhưng vẫn có người muốn khêu lên vấn đề đó để gây trở ngại cho sự phát triển quan hệ Trung-Nhật. Chúng tôi cho rằng hai chính phủ gác vấn đề đó lại là tương đối sáng suốt. Vấn đề đó gác lại không có quan hệ gì, đợi mười năm nữa cũng không sao. Thế hệ chúng ta thiếu trí tuệ, bàn tới vấn đề đó khó đạt được ý kiến nhất trí; thế hệ sau nhất định thông minh hơn chúng ta, sẽ tìm ra biện pháp mà hai bên đều có thể chấp nhận được”.
Ít lâu sau, Đặng tìm được một biện pháp tốt hơn, đó là: Cùng nhau khai thác, tạm gác vấn đề chủ quyền lại. Người Nhật đã khai thác đảo Điếu Ngư trong rất nhiều năm, nếu cùng nhau khai thác, thì Trung quốc cũng có phần. Như thế rõ ràng tốt hơn là mặc nhận hiện trạng. Anh khai thác, tôi cũng khai thác. Chủ quyền tạm gác lại, không phải từ bỏ. Hiện nay, không bàn vấn đề chủ quyền, vì bàn sẽ không có lợi cho đại cục là quan hệ giữa hai nước. Công cuộc hiện đại hóa của Trung quốc còn cần đến sự giúp đỡ của Nhật, giải quyết được vấn đề đó sẽ dễ giải quyết những vấn đề chủ quyền và lãnh thổ với những nước khác. Dù Trung quốc không coi trọng lắm hòn đảo nhỏ đó, nhưng khinh suất tuyên bố quy thuộc cho Nhật vẫn là hạ sách, không bằng treo vấn đề đó lại, làm cho người Nhật vẫn không yên tâm, không nghĩ rằng chỉ có Trung quốc cầu cạnh Nhật, và Nhật không có gì phải cầu cạnh Trung quốc cả.
Đặng mở rộng ra, không chỉ là đảo Điếu Ngư giữa Trung quốc và Nhật, mà rất nhiều vụ tranh chấp lãnh thổ trên thế giới, đều có thể dùng biện pháp đó để hòa giải mâu thuẫn: Trước hết, chưa nói tới chủ quyền, hãy tiến hành việc cùng nhau khai thác. Cách nghĩ đó có phần giống việc tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh trong cải cách xí nghiệp quốc doanh. Vấn đề chủ quyền rất nhạy cảm, dễ dẫn tới xung đột, thậm chí chiến tranh. Đặng dùng biện pháp cùng khai thác - cùng hưởng quyền sử dụng - để làm dịu mâu thuẫn, thật đáng gọi là bậc thầy trong việc hòa giải mâu thuẫn.

Chịu trách nhiệm xuất bản :
Trần Đình Nghiêm
Biên tập: Xuân Duy, Quỳnh Dung
Trình bày, bìa: Nguyễn Thị Hoà
Sửa bản in: Quỳnh Dung
In 500 cuốn khổ 15x22cm,
tại Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Giấy phép XB số : 676/XB-QLXB cấp ngày 30-6-2000.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 7 năm 2000.
Mưu lược Đặng Tiểu Bình
Mục lục và lời tựa
Phần 1
Phần 1- B
Phần 1 - C
Phần 1- D
Phần 1- E
Phần 1 - F
Phần 2 - A
Phần 2 - B
Phần 2- C
Phần 3- A
Phần 3 - B
Phần 3- C
Phần 4- A
Phần 4- B
Phần 5
Phần 6- A
Phần 6- B
Phần 6- C
Phần 7
Phần 7- B
Phần 7 - Hết