Phần 7- B
Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung
7.9. Nếu truớc đó không nhốt con gấu bắc cực vào chuồng, thì làm thế nào để dễ động binh với việt nam?
Liên xô, con gấu Bắc Cực, ngay từ thập kỷ 60 đã bố trí nhiều quân đội ven biên giới Trung-Xô và biên giới Trung quốc-Mông Cổ. Kể cả quân đội phái tới Mông Cổ thì tổng số lên tới một triệu. Số tên lửa nhằm vào Trung quốc, tương đương 1/3 số tên lửa của toàn Liên xô. Liên xô hình thành thế bao vây chiến lược đối với Trung quốc, sân sau của Trung quốc trở thành phạm vi thế lực của Liên xô, an toàn quốc gia bị uy hiếp nghiêm trọng. * (*Lưu ý: Đây là cách nói của Trung quốc - Biên tập)
Đặng Tiểu Bình lúc đó vừa chiến thắng phái “phàm là”, nắm quyền quyết sách tối cao của Trung quốc, vốn mong muốn từ đó về sau sẽ tập trung toàn bộ sức lực vào xây dựng hiện đại hóa. Công việc này không thể kéo dài nữa. Nhưng trong tình hình bị Liên xô bao vây ba mặt, làm sao có thể yên tâm xây dựng? Đặng không thể không một mặt bố trí tiến trình hiện đại hóa, một mặt nghĩ cách làm thế nào để nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng, để hạn chế dã tâm bành trướng của nó với Trung quốc. Các nước bạn trong thế giới thứ ba không giúp đỡ được bao nhiêu. Nhưng chính vào lúc đó, Mỹ đã có hành vi chủ động. Oasinhtơn không muốn thấy thế lực của người Nga bành trướng quá đáng ở châu Á, cảm thấy trước sự uy hiếp của Liên xô, lợi ích chung của hai nước Mỹ-Trung tăng lên, nên đã thỏa hiệp với Trung quốc trên vấn đề Đài Loan là vấn đề vốn gây trở ngại cho sự bình thường hóa giữa hai nước, đã tiếp nhận ba điều kiện, đó là rút quân khỏi Đài Loan, đoạn giao và xoá bỏ điều ước tương trợ. Trong tình hình đó, Đặng đã đi một bước quan trọng trong chiến lược ngoại giao: Nhận lời mời bình thường hóa của Tổng thống Ca tơ vào đầu năm 1979, với tư cách người lãnh đạo cao nhất của Trung quốc, bay qua Thái Bình Dương, tiến hành cuộc đi thăm chính thức đầu tiên tới nước Mỹ.
Rất nhiều nhà quan sát chú ý, trong thời gian thăm Mỹ, Đặng đã ra sức đóng vai một phần tử thân Mỹ. Chỉ vì để tìm đến sự hợp tác cần thiết về kinh tế và kỹ thuật cho công cuộc hiện đại hóa của Trung quốc, nên đương nhiên cần phải làm như vậy. Càng quan trọng hơn là mượn việc nhấn mạnh lợi ích chung giữa Mỹ và Trung quốc để cho con gấu Bắc Cực thấy. Trong cuộc hội đàm chính thức với Ca-tơ, Đặng nhấn mạnh việc Mỹ, Trung quốc và ấn Độ cần phối hợp hành động để ngăn cản sự bành trướng của Liên xô nhưng có điều bảo lưu quan trọng cho rằng không cần thiết phải xây dựng liên minh chính thức. Song, trong các trường hợp công khai, tư thế chống Liên xô mà Đặng biểu lộ ra, là chưa từng có từ thời “cách mạng văn hóa” đến lúc đó.
Khi tiếp xúc với giới báo chí, Đặng kêu gọi Mỹ, Trung quốc, Nhật Bản, Tây Âu và các nước khác trên thế giới liên hiệp lại để cùng chống chủ nghĩa bá quyền Liên xô. Ông nói: Chúng tôi cho rằng nguy cơ chiến tranh đến từ phía Liên xô, sự uy hiếp đến hòa bình, an toàn và ổn định trên thế giới đến từ phía Liên xô. Chúng ta có thể làm thế này: Liên xô hành động ở đâu, chúng ta sẽ ngăn trở ở đó, phá hoại, đập tan mọi hành động của Liên xô ở bất cứ nơi nào...
Có người nói, những lời nói chống Liên xô của Đặng trong những ngày ở Mỹ hầu như cũng gay gắt như những lời công kích Liên xô trong thời kỳ “cách mạng văn hóa”. Tại sao như vậy? Trong khi trả lời tuần báo “Thời Đại”, Đặng Tiểu Bình trả lời như sau: “Cần phải nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng”. Trước khi rời Mỹ, Đặng để lại lời nói cuối cùng: “Muốn trói được con gấu Bắc Cực, biện pháp duy nhất của chúng ta là đoàn kết lại”. Báo Sự thật Liên xô trong khi chỉ trích chuyến đi thăm Mỹ của Đặng, đã viết: “Đó là một tuần lễ du thuyết tung hỏa mù phản động chống Liên xô”. Trên thực tế, trên đường ghé Nhật Bản của Đặng, ông cũng vẫn nhấn mạnh chủ đề đó.
Mọi người còn chú ý thấy rằng, 10 ngày sau chuyến đi gió lốc đó của Đặng, bộ đội biên phòng Trung quốc ở khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam đã mở đầu cuộc phản kích tự vệ dạy bài học cho Việt Nam. * (* Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập)
Dư luận phương Tây cho rằng, chuyến đi thăm vùng Thái Bình Dương đó của Đặng là sự trinh sát hỏa lực đối với Mỹ, Nhật. Đúng như vậy, nếu trước đó không nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng thì làm thế nào để dễ động binh chống Việt Nam? Việt Nam có điều ước bảo đảm an toàn với Liên xô. Để củng cố chuồng gấu, trong suốt năm 1979, hai nước Trung-Mỹ trong khi tăng cường hợp tác kinh tế văn hóa, cũng bắt đầu hợp tác quân sự. Thí dụ, hải quân Mỹ thăm Trung quốc hai bên trao đổi đoàn đại biểu quân sự, Mỹ bán vũ khí cho Trung quốc. Giữa năm 1979, mời bộ trưởng quốc phòng Mỹ sang thăm Trung quốc, mở đầu sự hợp tác quân sự Trung-Mỹ. Trung quốc và Mỹ cùng nhau giám sát việc thử hạt nhân của Liên xô, trao đổi tin tình báo về áganitxtăng và Việt Nam.
7.10. Đặng định ngày đi thăm mỹ vào mồng một đầu năm âm lịch
Trung-Mỹ đối địch hơn hai mươi năm, trở ngại chủ yếu không ngoài hai điều: Sự khác biệt về chế độ xã hội và vấn đề vị trí của Đài Loan. đối với Trung quốc, điều thứ nhất là chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, điều thứ hai là yêu nước hay bán nước, đều là những vấn đề rất nhạy cảm.
Nếu cộng thêm những điều kiện quốc tế, thì hướng phát triển của quan hệ Trung-Mỹ sẽ được quyết định bởi ba nhân tố:
Một là, do so sánh lực lượng chính trị trong nội bộ Trung quốc, quyết sách chính trị đối với chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào. Sẽ một mực phê phán, phủ định, hay sẽ chủ trương học tập bắt chước. Điểm này tuy không trực tiếp nhưng lại quyết định về căn bản xu thế chung của quan hệ Trung-Mỹ.
Hai là, hai bên Trung-Mỹ có thái độ thế nào với vấn đề Đài Loan, nếu hai bên có thể thông cảm lẫn nhau ở mức cao, thì sẽ trực tiếp quyết định con đường phát triển của quan hệ Trung-Mỹ.
Ba là, nhân tố bên ngoài là quan hệ Trung-Xô. Theo chiến lược ngoại giao truyền thống của Trung quốc, chỉ nên có một kẻ thù chủ yếu, không thể cùng một lúc chống lại cả hai kẻ thù. Nếu Trung-Xô tăng thêm căng thẳng thì sẽ trực tiếp thúc đẩy Trung-Mỹ xích lại gần nhau. Đương nhiên, nếu Trung-Xô hòa hoãn thì cũng không có nghĩa là sẽ làm cho quan hệ Trung-Mỹ tụt xuống mức thấp nhất.
Ba nhân tố trên chi phối lẫn nhau. Đầu những năm 70, nguy cơ ở biên giới phía Bắc tăng lên, Mao Trạch Đông đã chuyển chiến lược chống cả hai siêu cường nghiêng nhiều sang chống Liên xô. So với Liên xô, sự uy hiếp của Mỹ từ bên kia Thái Bình Dương rõ ràng là nhỏ hơn nhiều. Năm 1972, với sự đánh giá “Việc Đài Loan là nhỏ, việc thế giới là lớn”, Mao đã bắt tay hoà đàm với Níchxơn. Mao cố ý kết thành đồng minh chiến lược ngầm với Mỹ để chống lại sự uy hiếp của con gấu Bắc Cực. Song, sự bình thường hoá quan hệ Trung- Mỹ không phải đã thuận lợi. Oasinhtơn không dễ dàng từ bỏ chiếc “hàng không mẫu hạm không thể bị đánh chìm” trên Thái Bình Dương, lần nữa không chịu nhượng bộ về vấn đề Đài Loan. Còn Trung quốc, trong điều kiện còn theo đuổi đường lối trong cách mạng văn hoá, cũng khó có thể đi cùng với Mỹ, tên đầu sỏ của chủ nghĩa tư bản.
Tất cả những điều đó đều trông vào tài xoay chuyển của Đặng Tiểu Bình. Đặng ôm ấp kế hoạch làm bốn hiện đại hoá, mục tiêu của bốn hiện đại hóa phải tiến tới bằng hai bánh xe: Một là, cải cách thể chế cũ để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất; hai là, kết thúc trạng thái đóng cửa lâu dài trong đối ngoại, mở cửa với các nước, nhất là các nước phát triển trên thế giới, để giành được tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại Đặng biết rằng mở cửa sang phương Tây, trước hết phải qua Mỹ. Mỹ là nước đứng đầu các nước phát triển phương Tây, lại là nước có trình độ hiện đại hóa cao nhất. Trước kia, Trung quốc hoàn toàn ngăn cách với toàn bộ thế giới phương Tây, trước hết là vì ngăn cách với Mỹ. Nay muốn thông sang phương Tây thì trước hết phải mở cửa sang Mỹ.
Nhưng Đặng cũng bị ràng buộc bởi nhiều nhân tố, không thể không thận trọng suy xét thời thế. Năm 1977, Vanxơ đến thăm Trung quốc, đàm phán việc bình thường hóa với Đặng, Đặng tỏ ra cố ý lảng tránh, làm như không muốn đề cập vấn đề Đài Loan. Sau đó, Nhà trắng ra thông cáo nói rằng lần hội đàm đó có tiến triển, người lãnh đạo Trung quốc tỏ ra có sự linh hoạt trong điều kiện bình thường hóa. Đặng thậm chí lại phản bác điều đó. Hành động ấy khiến phía Mỹ cảm thấy kinh ngạc, nhưng thực tế không có gì khó giải thích. Bởi vì lúc đó, Đặng mới được phục chức không lâu, cơ sở chính trị còn mỏng yếu, không thể không e ngại trước vấn đề nhạy cảm là quan hệ Trung- Mỹ. Tháng 5.1978, Bredinxki lại đến thăm, tình hình diễn ra hoàn toàn khác. Lúc đó, quyền lực của Đặng đã tăng lên rõ rệt, ông tỏ ý Trung quốc đồng ý đàm phán vấn đề bình thường hóa.
Sau đó, sự xấu đi trong quan hệ Trung-Xô lại trở thành liều thuốc kích thích tốt... Quan hệ Trung-Xô không còn đất để hòa hoãn nữa. Mỹ thấy Liên xô bành trướng ở Nam Á, cũng có phản ứng tích cực trở lại, liền tiếp nhận ba điều kiện rút quân khỏi Đài Loan, đoạn giao và hủy bỏ điều ước với Đài Loan, chỉ bảo lưu quyền bán vũ khí cho Đài Loan. Liên kết với Mỹ để chống Nga đó cũng là ý của Mao lúc còn sống, Đặng không bỏ lỡ thời cơ, thúc đẩy tiến trình đó. 1.1.1979, Trung-Mỹ chính thức lập quan hệ ngoại giao, hoàn thành cuộc đàm phán kéo dài 8 năm. Tiến trình này hội nhập với sự chuyển biến của Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa 11, đánh dấu sự bắt đầu của một thời đại mới.
Tiếp ngay sau dó, Đặng bắt đầu cuộc đi thăm chính thức nước Mỹ đầu tiên của người lãnh đạo tối cao của Trung quốc trong vòng 30 năm lại đây. Ngoài việc củng cố và phát triển tình hữu nghị Trung-Mỹ đã hình thành, chuyến đi này của Đặng còn có ba sứ mạng: Liên hiệp với Mỹ cùng ngăn chặn Liên Xô để giảm nhẹ sức ép ở biên giới Trung-Xô; đưa việc giải quyết vấn đề Đài Loan, hoàn thành thống nhất Tổ quốc vào chương trình làm việc cụ thể, tìm kiếm sự hợp tác kinh tế kỹ thuật cho chương trình hiện đại hóa vừa phát động.
Đặng định ngày lên đường đi thăm Mỹ vào mồng một đầu năm âm lịch. Hôm đó, mọi người đều bận đón năm mới, mong đón điềm lành đầu năm. Đặng chọn ngày đó để bay qua đại dương kết bạn đầu năm, khiến Ca-tơ rất cảm động. Trong lời chào mừng vào hôm sau, Ca-tơ nói: “Thưa ngài phó thủ tướng, hôm qua là đầu năm theo lịch cũ, là ngày Tết của các ngài, là ngày lễ truyền thống để nhân dân Trung quốc bắt đầu một lịch trình mới. Tôi nghe nói, trong dịp đầu năm này, mọi thần linh từ thiện của các ngài đều mở hết các cửa. Đó là lúc dẹp bỏ mọi xích mích trong gia đình, là lúc đi thăm bạn bè thân thích. Đối với hai nước chúng ta, hôm nay là giờ khắc đoàn tụ và bắt đầu một lịch trình mới. Hôm nay là giờ khắc hòa giải, là giờ khắc mở lại cánh cửa từ lâu đã bị đóng kín”.
Trong bữa tiệc lớn ở Oasingtơn, Đặng đọc lời phát biểu: “Hai nước chúng ta trong 30 năm qua đã ở vào trạng thái ngăn cách và đối lập, nay tình hình không bình thường đó đã qua rồi”. Đặng nồng nhiệt bắt tay Ca-tơ trước mặt các nhà báo và phấn khởi nói: “Nay nhân dân hai nước đang bắt tay nhau”.
Ngoài việc liên hiệp ngầm với nhau để chống Liên xô, người lãnh đạo hai nước còn ký một loạt hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật và giao lưu văn hóa. Nội dung bao gồm: cùng đặt lãnh sự, cùng phái lưu học sinh, hợp tác trong lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng, vật lý năng lượng cao và kỹ thuật không gian. Ca tơ nói, những hiệp nghị đó đại biểu cho “một trào lưu mới không thể đảo ngược” trong quan hệ Trung-Mỹ. Còn Đặng thì nói, những cái đó “mới chỉ là bắt đầu, mà chưa phải là kết thúc”, sau này “còn nhiều con đường và lĩnh vực hợp tác giữa hai bên đang chờ đợi chúng ta khai thác”.
Sự bất đồng chỉ có hai điểm. Nhật ký của Ca tơ viết: Đặng cực lực phản đối kế hoạch cử các giáo sĩ nước ngoài đến Trung quốc truyền giáo, nhưng ông ta đồng ý trên nguyên tắc việc cơ quan truyền thông Mỹ đặt phân xã ở Trung quốc. Đặng không tán thành việc bán vũ khí cho Đài Loan, ông ta yêu cầu từ sang năm Ca tơ cần có thái độ thận trọng trong việc bán vũ khí cho Đài Loan, còn hy vọng Mỹ và Nhật thúc giục Đài Loan đàm phán với Trung quốc.
Trong 8 ngày ở Mỹ, Đặng dùng một nửa thời gian để đi thăm 3 thành phố trung tâm công nghiệp lớn của Mỹ là átlanta, Seatlle và Huxtân. Sự sắp xếp chương trình đó tạo cơ sở cho việc triển khai hợp tác kinh tế sau này. Ông đặc biệt lưu ý đến kỹ thuật cao và thành tựu hiện đại của Mỹ, nhiều lần nói rằng ở Mỹ có rất nhiều điều để Trung quốc học tập. Đó không phải là lời nói khách khí hoặc khiêm tốn. Ở Seatlle, Đặng nói một câu kết luận: “Chặng cuối cùng trong hành trình của tôi là thành phố được các bạn gọi là “cánh cửa lớn thông sang phương Đông”. Điều này khiến chúng tôi ý thức rõ rằng, hai nước chúng ta là hàng xóm cách một dải nước. Thái Bình Dương không nên là trở ngại giữa hai nước chúng ta, mà nên là sợi dây liên hệ giữa chúng ta”.
Trong 8 ngày, Đặng hội đàm không mệt mỏi với Tổng thống và các quan chức Mỹ, hội kiến với hàng trăm nghị viên, thống đốc bang, thị trưởng và các nhân vật nổi tiếng trong giới kinh doanh và giới giáo dục, đồng thời còn nói chuyện với mấy ngàn người, trả lời hết tốp nhà báo này đến tốp nhà báo khác. Hơn 2.000 nhà báo đi theo để phỏng vấn, đưa tin; thời gian cao điểm của ba mạng lưới truyền hình Mỹ đều biến thành “thời gian Đặng Tiểu Bình”. Dư luận thế giới phổ biến cho rằng, sự tiếp đãi long trọng và hoan nghênh chưa từng có đối với Đặng Tiểu Bình, là điều chưa thấy của lịch sử ngoại giao ở Mỹ. Ký giả của Tân Hoa Xã bình luận: Trong lịch sử ngoại giao giữa Trung quốc với nước ngoài “lập trưởng của Trung quốc đối với công việc quốc tế và quan hệ Trung-Mỹ được công chúng Mỹ hiểu sâu sắc một cách trực tiếp bằng phương thức hữu hiệu đó, là điều trước nay chưa từng có”.
Cơn lốc về Đặng Tiểu Bình cuốn lên tại Mỹ đã thúc đẩy quan hệ Trung-Mỹ lên tới đỉnh cao chưa từng có. Nhưng có người vì vậy có cảm giác sai lầm rằng Trung quốc cầu cạnh Mỹ, coi thường Trung quốc, thậm chí cho rằng, vì chiến lược chống Liên xô, Trung quốc đã nuốt trôi vấn đề Đài Loan. Đặng thấy cần thiết phải hạ bớt cơn sốt.
Sự thực, các nhân tố ràng buộc cũng đang thay đổi. Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Liên xô có thái độ kiềm chế. Điều đó có nghĩa rằng tình hình căng thẳng Trung-Xô có phần dịu đi. Và trong giai đoạn cầm quyền về sau của Ca-tơ, Mỹ đã ban bố “luật về quan hệ với Đài Loan”, tiếp đó, trong cương lĩnh tranh cử của Rigân, lại có một số lời lẽ khiến người ta không yên tâm. Đồng thời, ở trong nước, mặt trận chống Hoa Quốc Phong có sự rạn nứt, đường lối cải cách của Đặng chịu sức ép lớn. Do đó, trong năm thứ hai sau khi thăm Mỹ, Đặng bắt đầu hạ thấp giọng về quan hệ Trung-Mỹ. Một số năm sau, phía Trung quốc không ngừng đưa ra kháng nghị với Mỹ về vấn đề Đài Loan, và nước Mỹ trả miếng lại bằng vấn đề nhân quyền và chế độ “tối huệ quốc”. Hai bên không ngừng tranh cãi, nhưng việc hợp tác kinh tế kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hiệp định.
7.11 Tháng 5.1989, Đặng Tiểu Bình 86 tuổi hội kiến với Goócbachốp 59 tuổi, không phải ở một nơi nào thuộc Liên xô, mà ở bắc kinh của Trung quốc
Sự đối lập Trung-Xô có hai nguyên nhân, một là, sự bất đồng về hình thái ý thức xã hội, tranh luận xem ai là Mác-Lênin chính thống, hai là, tranh chấp về biên giới đã tồn tại từ lâu: Thời nước Nga Sa hoàng đã chiếm mất hơn 150 vạn km vuông lãnh thổ Trung quốc; trong thập kỷ 60, Liên xô lại dàn một triệu quân trên biên giới Trung-Xô. Đặng Tiểu Bình đã từng là một chiến sĩ chống Liên xô xuất sắc ông đã từng đối diện đọ sức với Khơrútsốp, được Khơrútsốp gọi là “anh chàng thấp bé rất khó đối phó”. Năm 1974, tại diễn đàn liên hiệp quốc, Đặng đã công bố trước thế giới lập trưởng của Trung quốc: So sánh với Mỹ “về mặt ức hiếp các nước khác, thì siêu cường quốc mang nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa còn hung ác hơn”.
Liên xô trở thành kẻ thù chủ yếu đối với Trung quốc, còn nguy hiểm hơn Mỹ, không phải vì hình thái “xét lại” và chế độ xã hội, mà vì Liên xô có sự uy hiếp hiện thực đối với sự an toàn của Trung quốc lớn hơn Mỹ rất nhiều. Sự tranh luận về hình thái ý thức xã hội, nói về phía Trung quốc, thuần tuý là sản phẩm của “cách mạng văn hóa”. Người Trung quốc xoá bỏ thành kiến với “chủ nghĩa xét lại” dễ hơn xóa bỏ lòng nghi ngờ với “chủ nghĩa tư bản”. Cuối thập kỷ 70, Trung quốc kết thúc “cách mạng văn hóa” bắt đầu dẹp bỏ rối loạn, trở lại đúng đắn thì hình tượng kẻ thù của “xét lại Liên xô” cũng tự động tiêu tan. Đó có thể coi là một cơ hội để hai nước bắt đầu tiếp xúc và đối thoại. Không ngờ, lúc đó Brêgiơnép lại tăng thêm hai trở ngại mới: ủng hộ Việt Nam xâm nhập Campuchia* (* Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập) và trực tiếp tiến công ápganitxtăng, hình thành thế bao vây hình chữ “C” đối với Trung quốc.
Trong tình hình không có hy vọng hòa hoãn với Liên xô, Đặng không thể không kế thừa chiến lược quốc tế của những năm cuối đời Mao Trạch Đông: Liên hiệp với Mỹ để cùng ngăn chặn dã tâm bành trướng của Liên xô. Phương pháp này quả nhiên đem lại hiệu quả. Qua việc Đặng sang thăm Mỹ đầu năm 1979, Liên xô giữ thái độ im lạng khi Trung quốc dạy bài học cho Việt Nam * (* Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập) nên đã không làm cho sự việc phát triển thành xung đột trực tiếp Trung-Xô. Đặng tuy nổi tiếng là có thái độ cứng rắn với Liên xô, nhưng cũng như Lưu Thiếu Kỳ, ông luôn cho rằng giữ hòa bình với Liên xô là rất quan trọng. Công cuộc hiện đại hóa vừa phát động, điểm căn bản trong chiến lược của Đặng đối với Liên xô là làm hòa dịu tình hình căng thẳng, phòng chiến tranh nổ ra. Trung quốc không có nhu cầu đọ tài cao thấp với Liên xô về quân sự, chỉ cần có một hoàn cảnh bên ngoài hòa bình ổn định để chuyên tâm vào xây dựng hiện đại hóa.
Cải thiện quan hệ với Liên xô còn có một ý nghĩa quan trọng nữa: Có thể làm cho Trung quốc không vì sự uy hiếp của Liên xô mà quá phụ thuộc vào Mỹ. Như vậy, trên vũ đài quốc tế, Trung quốc càng có mảnh đất rộng rãi để hoạt động.
Trên thực tế, từ sau nguy cơ năm 1979 bắt đầu thập kỷ 80, quan hệ Trung-Xô liền xuất hiện dấu hiệu hòa hoãn. Tuy giữa Liên xô và Trung quốc còn một món nợ lịch sử lớn, hễ nhắc tới là dễ công phẫn, nhưng Đặng xuất phát từ hiện thực, chỉ yêu cầu Liên xô bỏ sự uy hiếp với biên giới Trung quốc, trở về trạng thái của thập kỷ 50 là mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Yêu cầu này là rất thấp, Liên xô chỉ cần thu hẹp dã tâm bá quyền một chút là thực hiện được.
Đương nhiên, hy vọng Liên xô từ bỏ dã tâm bá quyền chỉ là mong muốn của một bên. Còn việc có từ bỏ hay không, cuối cùng quyết định bởi những thay đổi trong nội bộ Liên xô. Liên xô một mực muốn cùng Mỹ tranh giành bá quyền toàn cầu, nhưng thực lực kinh tế của họ rõ ràng không bằng Mỹ, nên sẽ có ngày họ không trụ nổi.
Do chiến tuyến đối ngoại kéo quá dài nên tiến vào thập kỷ 80, Liên xô dần dần lộ rõ thực chất ngoài mạnh trong rỗng. Nền ngoại giao hòa bình và việc cải cách nội chính của Trung quốc vốn cũng cùng là nước xã hội chủ nghĩa như Liên xô có lẽ ít nhiều đã gợi mở cho Liên xô: Chiến lược bỏ hết sức vào phát triển của Trung quốc so với chiến lược bỏ hết sức vào khuếch trương đối ngoại, thì cái nào cần chọn lựa hơn? Trong cao trào cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa trong thập 80, Trung quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình đã dẫn đầu. Năm 1982, cải cách ở nông thôn đã bước đầu có hiệu quả. Trong lúc đó, hoạt động mậu dịch Trung Xô bắt đầu khôi phục trở lại từ 1982 đến 1986, buôn bán giữa hai nước tăng lên 7 lần. Lợi ích do cải cách đem lại càng có sức hấp dẫn hơn món “thịt bò xào khoai tây” mà Khơrútsốp nói năm nào rất nhiều. “Ông anh cả” ngày trước bỗng thấy “chú em nhỏ” châu Á có nhiều cái để học tập.
Năm 1985, Goócbachốp lên cầm quyền, đã mở đầu việc cải cách. Và ông chủ mới của điện Kremli còn đi xa hơn tổng thiết kế sư của Trung quốc nhiều. Hai nước đều đi theo con đường cải cách cùng xét lại chuyện cũ và từ bỏ những tệ hại của thể chế cũ. Dù cách nghĩ không giống nhau, nhưng cũng đã mở đường cho việc xóa bỏ tinh thần thù địch trong hơn 20 năm.
Theo ý Đặng, chỉ cần Liên xô không tạo ra căng thẳng ở biên giới, từ bỏ sự uy hiếp đối với Trung quốc, thì không cần cò kè đến chuyện gì khác, hãy cứ làm tốt công việc của mình đi đã. Nhưng Mỹ thì lại rất muốn làm suy yếu Liên xô, vậy hãy để cho Mỹ đi cò kè với Liên xô. Sự uy hiếp và ưu thế của Liên xô đều dựa vào lực lượng quân sự. Điều đó sẽ bị làm giảm qua các cuộc mặc cả về tài giảm vũ trang kéo dài giữa Liên xô và Mỹ. Liên xô không còn là uy hiếp với Mỹ thì sự uy hiếp của họ với Trung quốc cũng không tồn tại nữa.
Xét về phía Liên xô, đã đồng ý kết thúc chiến tranh lạnh với Mỹ, thì còn cần gì đối kháng với Trung quốc nữa? Do đó, trong vấn đề cải thiện quan hệ với Trung quốc, Liên xô tỏ ra chủ động. Đầu năm 1986, Liên xô đề xuất kiến nghị để các chuyên gia Liên xô quay trở lại Trung quốc, Đặng không tỏ ra vồ vập. Tháng 7, Goócbachốp lại đưa ra quả bóng màu, biểu thi rằng phía Liên xô đồng ý lấy dòng chính của Hắc Long Giang làm đường phân chia biên giới giữa hai nước; Liên xô sẵn sàng vào bất kỳ lúc nào cùng với phía Trung quốc thảo luận về việc tạo ra không khí láng giềng tốt ở bất kỳ cấp nào, hy vọng rằng trong một tương lai không xa, biên giới Trung- Xô sẽ trở thành một khu vực hòa bình và hữu nghị.
Với biểu thị đó của Goócbachốp, Đặng tỏ ra “hoan nghênh một cách thận trọng”. “Hoan nghênh” vì nó có điểm mới, hiếm có trong hơn 20 năm nay. “Thận trọng”, vì Đặng nghe thấy ở Bộ ngoại giao Liên xô một giọng điệu khác. Do đó, Đặng lại đưa quả bóng lại phía sân của Liên xô, thông qua giới báo chí, nói cho Liên xô biết: Tiền đề để cải thiện quan hệ là trừ bỏ “ba trở ngại lớn” giữa Trung- Xô: Liên xô rút quân ra khỏi Mông Cổ và biên giới Trung- Xô, rút quân khỏi ápganitxtăng, đốc thúc Việt Nam đình chỉ xâm lược Campuchia * (* Đây là lập trường sai trái của tác giả cuốn sách này- Biên tập). Trong cuộc nói chuyện vào tháng 7, Goócbachốp tuyên bố Liên xô đang nghiên cứu rút số lớn quân khỏi Mông Cổ, và hứa trước cuối năm 1989, sẽ rút 6 trung đoàn ra khỏi ápganitxtăng nhưng không đề cập tới vấn đề Campuchia....
Tư thế của Đặng rất cao. Ông nói: Chỉ cần Liên xô từ bỏ ba trở ngại, thì dù ông đã 82 tuổi, không còn nhiệm vụ đi thăm nước ngoài nữa, ông cũng vui lòng phá lệ, tới bất cứ nơi nào của Liên xô để gặp Goócbachốp, thực hiện việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Tháng 5 năm 1989, Đặng Tiểu Bình 86 tuổi đã gặp mặt Goócbachốp 59 tuổi. Nhưng không phải ở một nơi nào thuộc Liên xô, mà ở Bắc Kinh, thủ đô Trung quốc.
Từ năm 1961, những người lãnh đạo hai đảng đã ngừng tiếp xúc trên thực tế, đến lúc đó cũng gần 30 năm rồi. Đặng kiến nghị lợi dụng dịp hội ngộ đó để tuyên bố việc bình thường hoá quan hệ Trung- Xô. Nhưng để tạo ra quan hệ tốt cho tương lai, Đặng đã nói thẳng với Goócbachốp về những món nợ cũ giữa hai nước, không hề khách khí: Từ việc nước Nga Sa hoàng xâm chiếm 150 vạn km vuông lãnh thổ Trung quốc, tới việc bao vây chiến lược đối với Trung quốc, để chứng minh rằng trong lịch sử người chiếm lợi nhiều nhất từ Trung quốc ngoài Nhật Bản thì tới nước Nga, mà trong gần 30 năm nay, người tạo nên mối uy hiếp chủ yếu với Trung quốc, lại là Liên xô. Đây không phải là sự tố cáo Đặng tuyên bố, ông nói những điều đó không yêu cầu phải trả lời, cũng không yêu cầu biện luận, chỉ là để các đồng chí Liên xô biết Trung quốc nhận thức “quá khứ” như thế nào, trong đầu người. Trung quốc nghĩ vấn đề gì. Như vậy, có lợi cho việc làm rõ khái niệm “mở ra tương lai”: Trung quốc đồng ý kết thúc quá khứ, nhưng không quên mọi nỗi khuất nhục của quá khứ là để suy nghĩ về tương lai. Tương lai sẽ như thế nào? Điều này còn xem các đồng chí Liên xô sẽ như thế nào.
7.12. Tam giác lớn của thế giới
Không chỉ một lần Đặng Tiểu Bình nói tới tam giác lớn của thế giới. Một lần, ông nói với người bạn Nhật Bản: trên thế giới, người ta đang bàn bạc về tam giác lớn của thế giới. Nói thẳng thắn, lực lượng của chúng tôi ở góc này của tam giác còn quá mỏng yếu”. Đó không phải là phủ nhận sự tồn tại của tam giác mà là cảm thấy Trung quốc, ở góc này của tam giác còn phải cố gắng nhiều. Một lần khác, ông nói với các đồng chí mình “trên thế giới” đang nói tới tam giác lớn Xô - Mỹ - Trung. Chúng ta không dùng cách nói đó, chúng ta đánh giá tỉnh táo về sức mạnh của mình, nhưng chúng ta tin rằng Trung quốc có sức nặng đầy đủ trong công việc quốc tế”
Sức nặng của Trung quốc từ đâu tới? có phải do diện tích đất đai lớn, nhân khẩu đặc biệt đông đảo? Có đông bè bạn thuộc thế giới thứ ba ủng hộ? Những nhân tố đó dù có là nguyên nhân, cũng chưa phải là chủ yếu. Chủ yếu là người Trung quốc, trước kia là Mao Trạch Đông, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, hiểu được bí quyết giải quyết quan hệ giữa các nước lớn, tinh thông “nguyên lý tam giác học”. Chỉ nói về quan hệ song phương, không kể là giữa Trung-Mỹ, hay Trung-Xô, Đặng đều chú trương “hòa vi quý”. Hòa hảo với Mỹ có lợi cho chính sách cải cách mở cửa, có thể nhận được nhiều mối lợi từ phương Tây. Hòa dịu với Liên xô, có thể làm giảm sức ép biên phòng, tránh được chiến tranh bùng nổ, yên tâm xây dựng bốn hiện đại. Vì vậy Đặng chủ trương vừa cải thiện quan hệ với Mỹ, vừa cải thiện quan hệ với Liên xô, nhưng từ chối làm vật phụ thuộc hoặc liên minh với bất kỳ siêu cường nào.
Cuối thập kỷ 70, để chống lại dã tâm bá quyền của Liên xô, Đặng đã kế thừa chiến lược của Mao, chuyển từ chống hai nước bá quyền sang chống một nước bá quyền, chủ động xích lại gần Mỹ. Nhưng, trong khi giao hảo với Mỹ, Đặng cố sức tránh đứng hẳn vào tập đoàn với Mỹ. Ngay trong “tuần trăng mật” năm 1979, ông cũng vẫn giành sự linh hoạt cho mình. Thí dụ, khi họp bàn với Tổng thống Ca tơ, ông chủ trương hai nước Trung-Mỹ nên phối hợp hành động kiềm chế Liên xô, nhưng cho rằng không cần thiết lập liên minh chính thức. Hội nghị người đứng đầu hai nước thành công, nên tuyên bố rộng rãi cho thế giới biết, Đặng chọn hình thức “ra thông cáo báo chí chung” chứ không chọn hình thức tuyên bố chung của hai người đứng đầu. Như vậy, để tỏ ra có phần nào phi chính thức và ít sức ràng buộc.
Đặng biết rằng giao dịch với Mỹ cần có một “độ” nhất định. Sau “tuần trăng mật”, cần phải lạnh nhạt một chút. Để thay đổi cảm giác sai lầm của Mỹ cho rằng “Trung quốc không có gì đáng kể”, “Trung quốc phải cầu cạnh Mỹ”, từ đầu thập kỷ 80, Đặng không ngừng tỏ thái độ không hài lòng đối với hiện trạng quan hệ Mỹ - Đài Loan. Sau khi Rigân lên làm Tổng thống, phía Trung quốc nhiều lần khiển trách Mỹ đã bán vũ khí cho Đài Loan, thậm chí còn doạ sẽ hạ thấp cấp quan hệ giữa hai nước nếu Mỹ vẫn không thay đổi lập trường. Năm 1982, Đặng còn nói với giới báo chí: Vấn đề Đài Loan là một trở ngại lớn trong quan hệ Trung - Mỹ. Khi Maicơ Oalasơ hỏi ông xem Mỹ nên có hành động gì trong vấn đề này, Đặng nói: Có thể khuyến khích Đài Loan tiến hành “giao lưu trên 3 mặt” với lục địa, tạo điều kiện để đàm phán về thống nhất đất nước.
Mặt khác, không thể để quá lâu, đề phòng trở lại trạng thái đối địch trước kia. Sau “sự kiện ngày 4-6”, quan hệ Trung - Mỹ xuống tới mức thấp nhất. Đặng rất căm giận trước việc các nước phương Tây đứng đầu là Mỹ trừng phạt Trung quốc, đã khiển trách mạnh mẽ, không hề tỏ ra sợ hãi. Nửa năm sau, sự việc nhạt dần, Đặng lại cảm thấy “quan hệ Trung-Mỹ cần phải tốt lên”, và nhờ đại sứ của Tổng thống Mỹ chuyển tới Ca tơ lòng thành thật của ông: “Ở phương Đông, có một ông già Trung quốc rất quan tâm đến việc cải thiện và phát triển quan hệ Trung-Mỹ”. Đặng thấy được ý nghĩ của Mỹ: Trung quốc vì lợi ích của chiến lược chống Liên xô, nên có thể bỏ qua vấn đề Đài Loan. Ông cảnh cáo các bạn Mỹ không nên lợi dụng quan hệ bè bạn để chèn ép Trung quốc. Trung quốc tại sao phải chống Liên xô? Chỉ vì Liên xô uy hiếp an toàn của Trung quốc. Sự thực, bắt đầu từ thập kỷ 80, sự uy hiếp của Liên xô với Trung quốc dần dần giảm đi, còn giữa Mỹ và Liên xô mới thực sự có cãi vã lớn. Xuất phát từ nhu cầu chiến lược, Mỹ đã đơn phương kiềm chế Liên xô, việc Trung-Mỹ liên hiệp để chống Liên xô không còn ý nghĩa lớn nữa. Mỹ dựa vào cái gì để chơi con bài Liên xô với Trung quốc, chẳng lẽ Trung quốc không thể chơi con bài Liên xô với Mỹ?
Đến giữa thập kỷ 80, xu thế hòa hoãn Trung-Xô càng rõ rệt, cuối cùng Đặng đã chơi con bài này, bắt đầu tìm điều kiện hòa giải với Liên xô. Tháng 10.1988, Đặng tuyên bố hai nước Trung-Xô sẽ có cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên từ 30 năm nay vào năm 1989. Một số quan chức ngoại giao phương Tây chú ý thấy: Đặng đã chọn thời điểm trước mấy tháng để công bố về Hội nghị Thượng đỉnh Trung-Xô không phải là ngẫu nhiên. Không tới một tháng nữa, sẽ có cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, Trung quốc đưa ra tuyên bố đó là để tỏ cho người lãnh đạo sắp tới của Mỹ thấy Trung quốc dự định sẽ phát huy mạnh mẽ tác dụng trên mặt ngoại giao, không thể chơi con bài Trung quốc được
Tháng 5.1989, khi chính thức gặp Goócbachốp ở Bắc Kinh, Đặng đề nghị nhân dịp này tuyên bố bình thường hoá quan hệ Trung-Xô. Lúc đó, có người lo lắng, sau khi Trung quốc và Liên xô có quan hệ tốt với nhau, có thể hình thành một tập đoàn cộng sản mới uy hiếp phương Tây hay không? Níchxơn, người đã hiểu Trung quốc nói quả quyết: Điều đó không có khả năng, Đặng cần cải thiện quan hệ Trung-Xô, nhưng không thể khôi phục tình hình của thập kỷ 50, không thể trở lại làm “người em nhỏ” của Liên xô. “Trừ phi Trung quốc hoàn toàn vứt bỏ phương Tây, nếu không thì quyết không thể ngả vào lòng người láng giềng đáng sợ phương Bắc đó được”.
Phần trên đã nói Đặng mấy lần đề cập tới tam giác lớn thế giới, đều ở thời kỳ giữa thập kỷ 80. Lúc đó, qua cải cách, thực lực của Trung quốc tăng lên nhiều, hình tượng Trung quốc cũng đã khác, Đặng quyết định thực hiện sự chuyển biến về chiến lược ngoại giao. Ông nói: “Có một thời gian trước kia, để đối phó với sự uy hiếp của Liên xô, chúng ta đã thực hiện chiến lược “một tuyến”, tức là “một tuyến” từ Nhật Bản, qua châu Âu đến Mỹ. Nay chúng ta thay đổi chiến lược đó, đó là một sự chuyển biến to lớn” Chuyển biến đó tức là thoát ra khỏi lòng của Mỹ. Rồi sẽ ngả vào đâu? Không phải là lại ngả vào lòng Liên xô, mà là đứng riêng, độc lập tự chủ, không làm mất lòng ai, không dựa dẫm vào ai.
Đặng hiểu rõ trong tam giác Trung - Mỹ - Xô, góc của Trung quốc tương đối mỏng yếu. Dù Trung quốc dựa vào bên nào, cũng chỉ có thể đóng vai trò một người bạn nhỏ hoặc một người anh em nhỏ, tự mình mất rất nhiều chủ động, lại có thể trở thành con bài trong tay người khác. Ngoài ra, còn có hai điều bất lợi lớn: Tất sẽ làm mất lòng một phía, không dưng chuốc lấy kẻ thù; tất sẽ mất bè bạn trong thế giới thứ ba, làm cho mình trở thành cô lập. Kết quả là nếu chỉ muốn ngả vào lòng người khác, thì thế sự xoay vần, nếu kẻ đó đứng không vững, bị sụp đổ, thì mình lại càng cô lập.
Đặng hiểu được nguyên lý tam giác: Trong một hệ thống nếu chỉ có hai cực, sẽ thường hình thành cục diện bế tắc xuất hiện thế tam giác, thì sẽ có cục diện sống động, và luôn luôn có lợi cho kẻ tham gia sau. Nếu dựa vào một phía nào đó, thì tam giác sẽ biến thành hai cực, co kéo với cực bên kia, coi như cột mình vào chiến xa của người khác, bị động khắp nơi, phải cầu cạnh người khác. Ngược lại, không dựa vào ai, giữ khoảng cách đều với hai cực kia, bản thân sẽ có địa vị độc lập, mà hai bên đều phải làm thân với Trung quốc ở trung gian. Lúc đó, nếu cần tỏ thái độ với một phía, chỉ cần ngả một chút về phía kia là được.
Hoàn toàn linh hoạt, nắm quyền chủ động trong tay mình, thì người khác không chơi được con bài Trung quốc, mà Trung quốc lại có thể tùy lúc chơi một trong hai con bài. Không dựa vào một phía nào, về hình thức, thì thấy như là trở về với lập trường cũ chống cả hai siêu cường. Có thể nói như vậy, song có điều phương thức đã hoàn toàn khác, không còn như trước kia, dùng biện pháp chống bá quyền kém thông minh là đối kháng, đoạn giao, thù địch với cả hai bên hoàn toàn không có lợi cho mình; mà là lấy việc cải thiện quan hệ với cả hai bên làm tiền đề, “ai bá quyền thì chống người đó”. Việc chống như vậy sẽ làm mất lòng người đó, nhưng không sao, họ không làm gì được, vì họ không dễ để anh chạy hẳn sang phía bên kia. Như thế gọi là “không làm mất lòng ai” (đều cải thiện quan hệ), “không dựa vào ai” (giữ khoảng cách nhất định), kết quả là “không sợ ai” (ai có sai lầm đều dám phê phán). Lập trường đứng giữa “ai bá quyền thì chống người đó” giữ tín nghĩa, chủ trì công lý, còn có một cái lợi lớn: Có thể đoàn kết mọi nước bất mãn với chủ nghĩa bá quyền xung quanh mình. “Như vậy sẽ tăng cường được địa vi quốc tế của Trung quốc, tăng thêm quyền phát ngôn của Trung quốc trên quốc tế”. Kết quả là Trung quốc vốn là một góc mỏng yếu, sẽ trở nên rất hùng hậu.
Pôn Kennơđi, nhà nghiên cứu về lịch sử hưng suy của các nước lớn nhận thấy: Tầm quan trọng của vai trò độc lập thực sự của Trung quốc trong hệ thống quốc tế ngày nay (và tương lai) được tăng cường rất nhiều do phong cách mà họ đã biểu hiện trong việc giải quyết mối quan hệ với các nước lớn khác. Trung quốc thường coi thường những yêu cầu và mong muốn của các siêu cường, nhưng trong một số trường hợp, hành động của họ lại gây bất ngờ cho người khác. Dù nhược điểm của họ rất dễ thấy, nhưng chưa bao giờ họ tỏ ra là hoàn toàn ngả theo và khuất phục trước Mátxcơva và Oasingtơn... Do tất cả những điều đó, Trung quốc có một địa vị độc đáo trên thế giới... Kỳ thực, căn cứ vào sức nặng của Trung quốc, trên một ý nghĩa nhất định, họ là một siêu cường quốc dự bị - nhưng không phải là một siêu cường quốc học theo kiểu Liên xô hoặc Mỹ, mà là một siêu cường quốc phản ánh địa vị độc đáo của Bắc Kinh trong nền chính trị toàn cầu.
7.13 Hãy để cho quá khứ quá đi, như thế không có nghĩa là quên quá khứ, nhưng cần chú ý mở ra tương lai
Trong mưu lược ngoại giao của Đặng Tiểu Bình, quan hệ Trung-Nhật chiếm một địa vị đặc biệt, trên một mức độ nhất định, thậm chí có tầm quan trọng vượt hơn cả việc cải thiện quan hệ Trung-Mỹ và quan hệ Trung-Xô. So với Trung-Mỹ và Trung-Xô, những điểm chung giữa Trung-Nhật có nhiều hơn. Giữa Trung-Xô, có thời gian xung đột biên giới trên mấy ngàn cây số; giữa Trung- Mỹ, có vấn đề rất nhậy cảm là Đài Loan. Về phía Nhật, họ có sự tranh chấp 4 hòn đảo phía Bắc với Liên xô, với Mỹ, tuy có hiệp ước an toàn, nhưng cạnh tranh kinh tế, nhất là cọ xát về thương mại càng ngày càng nghiêm trọng. Hai vấn đề đó đều không dễ giải quyết. Giữa Trung quốc và Nhật Bản chỉ có một đảo Điếu Ngư không có gì là quan trọng lắm, Đặng đã dùng biện pháp khéo léo là “cùng nhau khai thác” để vượt qua trở ngại đó. Nhật Bản tuy là cường quốc kinh tế, nhưng sau chiến tranh, địa vị chính trị trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế vẫn là địa vị của một nước chiến bại. Nhật Bản muốn thay đổi hiện trạng đó thì không thể coi nhẹ Trung quốc, một trong năm ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc.
Tháng 10.1978, Đặng Tiểu Bình sang thăm Nhật Bản để trao đổi văn bản ký kết điều ước hòa bình hữu hảo Trung-Nhật. Trong khi hội kiến Nhật Hoàng, Đặng nói một câu: “Điều ước Trung-Nhật có thể có một ý nghĩa sâu xa vượt khỏi dự liệu của chúng ta”. Đối với Trung quốc, Nhật Bản không tạo nên sự uy hiếp như Liên xô, đồng thời lại có tiềm lực hiện đại giống như Mỹ. Việc hữu hảo Trung-Nhật vừa có tác dụng kiềm chế Liên xô, vừa khiến cho Trung quốc không vì nhu cầu hiện đại hóa mà phải quá dựa vào Mỹ và phương Tây.
Năm 1972, Trung quốc lập quan hệ ngoại giao với Mỹ sớm hơn với Nhật Bản một bước nhưng sau này, việc bình thường hóa quan hệ Trung-Nhật lại đi trước việc bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ. Năm 1978, ba tháng trước khi sang Mỹ, Đặng đã đem tới Nhật tin tức về chủ trương cải cách mở cửa của Trung quốc. Trong thời gian thăm Nhật, hai bên Trung-Nhật đều tỏ ra rất có hứng thú với việc hợp tác kinh tế kỹ thuật Trung-Nhật. Nhật Bản hầu như đã chờ đợi từ lâu người khách hàng to lớn là Trung quốc. Điều đó rõ ràng là một kích thích với Mỹ. Lúc đó, việc bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ còn một chặng đường dài nữa. Mọi nước tư bản phát triển đều hy vọng đáp chuyến tàu đầu tiên tới thị trường rộng lớn của Trung quốc. Nước Mỹ sao có thể để cho đối thủ cạnh tranh ở Thái Bình Dương nhanh chân tới trước? Việc giao hảo với Nhật Bản khẳng định là một nước cờ quan trọng dể Trung quốc nầm quyền chủ động trong quan hệ tam giác Trung-Mỹ- Nhật và giải quyết quan hệ với Mỹ. Dù quan hệ giữa Trung quốc với Mỹ, thậm chí với tất cả phương Tây bế tắc, chỉ cần giữ được sự hợp tác với Nhật, thì Trung quốc vẫn có con đường ngỏ để học tập và nhập kỹ thuật của bên ngoài.
Tính món nợ lịch sử, có lợi nhiều nhất cho Trung quốc, thì đứng đầu là Nhật Bản, rồi đến nước Nga Sa hoàng và sau đó là Liên xô. Song Nhật Bản từ sau đại chiến, không còn chiếm một tấc đất nào của Trung quốc nữa. Mà Liên xô thì nợ cũ chưa trả một chút gì, lại mắc thêm nợ mới, là tạo nên sự uy hiếp lớn nhất với Trung quốc. Giữa Nhật - Xô cũng có nợ với nhau, đó là 4 hòn đảo phía Bắc. Giữa Trung-Nhật, trên phương diện cùng đối phó với Liên xô cũng có sự cần thiết không kém giữa Trung - Mỹ. Nhật tuy không muốn đối địch với Liên xô, nhưng việc họ trở thành một đồng minh với Trung quốc trong mặt trận chung chống Liên xô vào giữa thập kỷ 80 về trước, là không thành vấn đề nữa. Năm 1978, khi Đặng thăm Nhật lần đầu trong nghi thức đón tiếp ở nhà khách quốc gia có 28 đại sứ các nước ở Nhật tham gia. Theo yêu cầuổc phía Trung quốc, Nhật không mời đại sứ Liên xô. Đặng lợi dụng diễn đàn Nhật Bản, giải thích về điều khoản chống bá quyền trong điều ước, ngoài việc tự ràng buộc đối với hai bên Trung-Nhật, còn gồm cả việc phản đối hành động bá quyền của bất kỳ nước nào. Trước nhà báo các nước, Đặng nhấn mạnh: “Chống chủ nghĩa bá quyền là hạt nhân của điều ước hữu hảo Trung-Nhật”. Ba tháng sau, để kiềm chế hành động bành trướng của Liên xô ở Nam Á, Đặng sang thăm Mỹ. Trên đường về, Đặng lại ghé thăm ngắn ngày tại Nhật Bản, nhấn mạnh một lần nữa với những người lãnh đạo Nhật về vấn đề chống bá quyền, và sau đó mới có cuộc phản kích tự vệ chống Việt Nam. Đặng hy vọng giữa hai nước Trung-Nhật đời đời con cháu sẽ hữu hảo với nhau, không chỉ trong thế kỷ 20 mà còn nghĩ tới mấy thế kỷ sau. Những điều kiện có lợi về mặt này không ít. Thí dụ, hai nước đều thuộc châu Á; là hàng xóm láng giềng cách nhau một dải nước; đều là giống da vàng, thuộc hệ thống văn hóa phương Đông, có hơn hai ngàn năm qua lại hữu hảo trong lịch sử. Đặng rất chú ý lợi dụng những tài sản nhân văn quý giá đó để phát triển quan hệ Trung-Nhật. Thí dụ, trong thời gian thăm Nhật, Đặng đã đặc biệt bố trí một chuyến đi thăm ngôi chùa ở thành phố Na ra và nhận lời cho phép một vị hòa thượng trụ trì ở đó về nước thăm gia đình. Sau đó, trong quá trình hợp tác giao lưu kinh tế giữa hai nước, Trung quốc một mặt áp dụng biện pháp hữu hiệu để ngăn hàng hóa Nhật ồ ạt tràn vào Trung quốc, mặt khác lại sẵn sàng đón kỹ thuật cao và vốn liếng của Nhật. Năm 1988, Nhật Bản cho Trung quốc vay 800 tỷ yên, Đặng kinh ngạc trước số tiền lớn đó và thân gửi lời cảm tạ tới Thủ tướng Nhật. Đây có thể là lần đầu tiên Đặng gửi lời cảm tạ tới một nguyên thủ nước ngoài.
Quan hệ Trung-Nhật không phải là không có trở ngại, trở ngại tiềm tàng lớn nhất là chiến tranh Trung-Nhật đã gieo vào lòng nhân dân hai nước những dấu ấn sâu sắc. Nhân dân Trung quốc rất khó xoá đi tình cảm thù địch đối với hành động đốt phá giết người của “giặc Nhật”. Song, trở ngại đó nhờ Đặng xoay chuyển, lại trở thành nhân tố có lợi cho việc phát triển quan hệ Trung-Nhật. Trong thời gian thăm Nhật, khi hội kiến với Nhật Hoàng, các quan chức chính phủ Nhật rất sợ ông trực tiếp truy cứu trách nhiệm của Nhật Hoàng đối với chiến tranh. Đặng nắm được tâm lý đó, ông không làm như đối với Goócbachốp: kể hết mọi tội lỗi của Sa hoàng và Liên xô đối với Trung quốc, mà áp dụng một phương pháp có sức chinh phục hơn: Trong khi Nhật Hoàng chưa đề cập tới quá khứ thì ông đã nói trước một cách rất sảng khoái: “Hãy để những sự việc của quá khứ qua đi, chúng ta từ nay về sau nên nhìn về phía trước”. Phong độ không kể lại những hiềm khích cũ khiến tội nhân chiến tranh trước kia rất cảm động. Đặng lập tức chiếm ưu thế. Trong bài nói, Nhật Hoàng đã bất ngờ bỏ đoạn chuẩn bị sẵn, thay vào bằng việc nêu lên “những sự việc bất hạnh” nhằm biểu thị sự hối lỗi. Sau đó, trong lời chúc rượu, Thủ tướng Nhật cũng chủ động bổ sung vào bài chuẩn bị sẵn, tỏ ra lấy làm tiếc về chiến tranh xâm lược Trung quốc. Đó là hiệu quả mà Đặng muốn đạt tới. Chiến tranh xâm lược Trung quốc của Nhật đã đem lại tổn thất không thể nào lường hết cho Trung quốc, riêng về người Trung quốc đã mất mấy chục triệu. Sau chiến tranh, Trung quốc giữ tư thế không đòi Nhật bồi thường, ngày nay hai nước giao hảo, lại rất đại độ không nêu lại hiềm khích cũ. Như vậy, đã tạo nên cho Trung quốc một ưu thế về tình người. Người Trung quốc đã kết bạn với tội nhân chiến tranh cũ, trong tâm lý người Nhật có cảm giác hổ thẹn. Đặng biết rằng điều đó có lợi cho việc phát triển quan hệ hữu hảo Trung-Nhật: Ngày nay tuy Trung quốc cần có sự giúp đỡ của Nhật để thực hiện hiện đại hóa, nhưng trước kia Nhật Bản đã mắc một món nợ tình người đối với Trung quốc.
Hãy để cho quá khứ qua đi, không có nghĩa là quên quá khứ. Đặng biết rằng muốn cho quan hệ hữu hảo Trung-Nhật được gìn giữ thì một điều kiện rất quan trọng là không được làm thay đổi sự thật lịch sử về việc Nhật Bản xâm lược Trung quốc. Cho nên, sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa, Đặng không quan tâm lắm tới những sự kiện như đảo Điếu Ngư, nhưng có tinh thần cảnh giác cao trước việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Trung quốc đã từng kháng nghi nghiêm chỉnh việc Bộ giáo dục Nhật Bản chữa lại sách giáo khoa, phủ nhận sự thực lịch sử về việc Nhật đã xâm lược Trung quốc. Năm 1985, các thành viên nội các của Nhật đến viếng đền thờ các tội phạm chiến tranh, Đặng đã gián tiếp nhưng nghiêm khắc đề xuất lời cảnh cáo. Học sinh đại học ở Bắc Kinh, Tây An đã tổ chức du hành thị uy trước và sau ngày 18-9 để kháng nghị chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, Đặng không hề phê bình học sinh đã gây rối. Năm 1987, quỹ quốc phòng Nhật Bản vượt quá mức quy định là 1%, Đặng cũng rất nhạy cảm, cảnh giác trước việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, đương nhiên có xuất phát từ việc duy trì hòa bình ở châu Á - Thái Bình Dương, nhưng chủ yếu không phải là sợ Nhật Bản lại xâm lược Trung quốc, mà không để cho Nhật chối tuột tội ác xâm lược Trung quốc. Đặng không ngừng nhắc nhở các bạn Nhật Bản không nên quên bài học đau đớn của quá khứ, ông biết rằng, muốn làm cho Nhật Bản trở thành vô hại với Trung quốc và lại là một người bạn dễ nắm được thì phải buộc họ gánh món nợ tình người đối với cuộc chiến tranh xâm lược Trung quốc, buộc họ có cảm giác hổ thẹn với Trung quốc. Không có quan hệ giữa hai nước nào như quan hệ Trung-Nhật. một mặt thân mật hữu hảo, hợp tác với nhau, coi nhau như bè bạn; mặt khác, Trung quốc lại có thể không kiêng nể gì, thông qua mọi phương thức để khiển trách những tội ác tày trời mà chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã phạm phải ở Trung quốc. Hai mặt đó chi phối lẫn nhau, khiển trách quá khứ là để mở ra tương lai.