Phần 7
Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung
7.1. Từ “hai phe” đến “ba thế giới” lại đến quan điểm về mâu thuẫn “Đông tây nam bắc” của Đặng
Chiến lược quốc tế, mưu lược ngoại giao, cần được xuất phát từ cách nhìn cơ bản đối với tình hình thế giới, giống như Gia Cát Lượng ở Long Trung: Bàn suốt đại thế trong thiên hạ, sau đó mới hiến cho Lưu Bị mưu lược “chia hưởng một phần ba thiên hạ”.
Đảng Cộng sản Trung quốc từ ngày dựng nước trước sau có ba khái niệm công thức để phân tích tình hình thế giới: Những thập niên 50, 60, Mao Trạch Đông dùng khái niệm “hai phe”. Sau đó, Trung-Xô phân liệt, phe xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại, thập kỷ 70 chuyển sang “ba thế giới”. Đến thập kỷ 80, công thức phân tích của Đặng Tiều Bình, có thể gọi là “Đông Tây Nam Bắc” luận:
“Ngày nay, những vấn đề thực sự lớn trên thế giới, mang tính chất chiến lược toàn cầu, thì một là vấn đề hòa bình, một là vấn đề kinh tế hoặc có thể gọi là vấn đề phát triển. Vấn đề hòa bình là vấn đề giữa phương Đông và phương Tây, vấn đề phát triển là vấn đề giữa Nam và Bắc. Khái quát lại, đó là bốn chữ “Đông Tây Nam Bắc”
Cái đặc sắc của Đông Tây Nam Bắc luận là khi xét về quan hệ quốc tế đã suy xét riêng về chính trị và về kinh tế.
Quan hệ giữa phương Đông và phương Tây có chủ đề chống chiến tranh, gìn giữ hòa bình. Mưu lược cơ bản của Đặng là bảo vệ hòa bình thế giới, chống chủ nghĩa bá quyền, dùng 5 nguyên tắc chung sống hòa bình để xây dựng trật tự chính trị thế giới mới, xây dựng nền ngoại giao độc lập tự chủ cho Trung quốc.
Quan hệ giữa nửa phía Nam và nửa phía Bắc là quan hệ giữa những nước chưa phát triển với những nước phát triển. Mưu lược cơ bản của Đặng là tăng cường hợp tác Nam-Nam, thúc đẩy đối thoại Nam-Bắc, xây dựng trật tự kinh tế thế giới mới trong đó các nước phát triển và các nước chưa phát triển đều được phát triển.
Lý luận về “ba thế giới” của Mao đã vượt qua cả “hai phe” vốn có. Lý luận về “Đông Tây Nam Bắc” của Đặng lại vượt cả “ba thế giới”. “Ba thế giới” chỉ tương đương với quan hệ Nam Bắc. So với Mao, tầm nhìn chiến lược thế giới của Đặng còn thêm cả “quan hệ Đông Tây”. Chính điểm đó đã làm cho quan hệ ngoại giao của Trung quốc trong thập kỷ 80 sống động hẳn lên.
Theo sự phân chia “ba thế giới”, Trung quốc chỉ có thể xếp mình vào thế giới thứ ba. Điều đó rõ ràng là có ý nghĩa quan trọng đối với Trung quốc trong việc đoàn kết rộng rãi với các nước thế giới thứ ba ở á, Phi, Mỹ Latinh và tranh thủ các nước thế giới thứ hai cùng chống chủ nghĩa bá quyền. Nhưng chỉ hạn chế trong thế giới thứ ba thì rất bất lợi cho sự phát triển của bản thân Trung quốc, trước hết là tăng thêm nghĩa vụ của Trung quốc với các nước bè bạn trong thế giới thứ ba, làm cho Trung quốc phải mang gánh nặng lớn trong quá trình tiến lên hiện đại hóa. Thứ hai là không tiện cho Trung quốc độc lập, tự chủ tiến hành công việc ngoại giao ra tất cả các phía. Lý luận về “ba thế giới” là một chiến lược phòng ngự tích cực của Trung quốc với tư cách là một nước yếu. Vấn đề là Trung quốc tuy về kinh tế thuộc các nước chưa phát triển, nhưng về chính trị, quân sự lại có ưu thế tương đối lớn, cần phải tích cực tiến mạnh, có sự đóng góp trên quốc tế vừa cần đoàn kết thế giới thứ ba để ép các nước phát triển, vừa cần lợi dụng ưu thế của mình vượt ra khỏi phạm vi thế giới thứ ba, phát huy tác dụng của mình trên vũ đài quốc tế rộng rãi. Lý luận “Đông Tây Nam Bắc” của Đặng chính là mưu lược ngoại giao để Trung quốc vừa đứng trong thế giới thứ ba, vừa vượt ra khỏi thế giới thứ ba, khiến cho Trung quốc có thể tự chủ và linh hoạt trên vũ đài quốc tế
Lý luận “Đông Tây Nam Bắc” đặt Trung quốc vào hai mối quan hệ, trong quan hệ Đông-Tây thì ở vị trí “Đông”, trong quan hệ Nam-Bắc thì ở vị trí “Nam”, khiến cho vai trò quốc tế của Trung quốc có tác dụng kép. Như vậy, có lợi gì cho Trung quốc?
Parak đã phân tích: Tại sao Trung quốc lại chiếm địa vị quan trọng như vậy trong chiến lược của Oasingtơn và Mátxcơva, và những nước khác trên thế giới lại hết sức chú trọng đến họ như vậy? Câu trả lời là: Mặc dù Trung quốc tự miêu tả mình là người bị uy hiếp, bị lép vế, nhưng họ lại lợi dụng một cách nhanh nhạy, mọi thủ đoạn chính trị, kinh tế, quân sự. Kết quả, đối với tất cả các nước, Trung quốc đều trở thành một nước có vai trò quan trọng. Vai trò không rõ ràng nhưng lại hết sức linh hoạt đó là bí quyết để trong thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, Trung quốc đã thực hiện thành công chiến lược ngoại giao độc lập, tự chủ và hoà bình ra tất cả các phía.
7.2. Tuy nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại, nhưng chiến tranh thế giới có thể tránh được
Đánh giá tình hình thế giới ta có cảm giác về nó như thế nào, cho rằng mây đen chiến tranh đang bao phú hay là đã có điềm lành hòa bình, điều đó không chỉ là sự nhận thức đối với thế giới bên ngoài, mà còn trực tiếp quyết định phương châm nội chính ngoại giao của một nước. Đối với Trung quốc càng là như vậy. Dân số Trung quốc bằng tổng số dân của Mỹ, Nhật, Liên xô và toàn thể châu Âu cộng lại, nhưng về kinh tế thì lạc hậu hơn các nước phát triển rất nhiều, nên không thể không quan tâm tới vấn đề chiến tranh và hòa bình.
Sự đánh giá cơ bản của Trung quốc về tình hình thế giới, ở thời Mao Trạch Đông là “chiến tranh đã sát gần, cần chuẩn bị đánh sớm, đánh lớn”. Thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 thì nghiêng về nhận định “Chiến tranh không thể tránh khỏi, nhưng có thể đẩy lùi về thời gian”. Giữa thập kỷ 80, Đặng Tiểu Bình đưa ra phán đoán mới: “Tuy nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại, nhưng chiến tranh thế giới có thể tránh được”.
Phán đoán của Đặng dựa trên những sự thực sau: Chỉ có hai siêu cường mới có khả năng phát động chiến tranh thế giới. Nhưng hai nước Xô-Mỹ đều có lực lượng hủy diệt đối phương, do đó hình thành thế đe doạ cân bằng, không ai dám ra tay trước. Thêm nữa, chiến lược toàn cầu của hai bên Xô- Mỹ đều bị vướng và sa vào rất sâu, dù hai bên vẫn đang chạy đua vũ trang nhưng Liên xô đã ở vào thế cưỡi hổ, không thể nghĩ tới việc tham gia chiến tranh thế giới, mà ngược lại, lại muốn có tình hình hòa dịu. Thứ hai là trên thế giới, lực lượng hòa bình tăng mạnh hơn lực lượng chiến tranh, rất ít kẻ điên cuồng muốn phát động chiến tranh hạt nhân. Thêm nữa, cuộc cách mạng kỹ thuật mới trên thế giới phát triển rầm rộ, cuộc cạnh tranh tương lai trên thế giới do lực lượng kinh tế và khoa học kỹ thuật chứ không phải do lực lượng quân sự quyết định, điều này Xô Mỹ không thể không suy xét tới.
Đặng nhìn thấy sự chuyển biến trong cuộc cạnh tranh giữa các nước từ nay về sau sẽ là từ thủ đoạn vũ lực chuyển sang thủ đoạn hòa bình, dù là chủ nghĩa đế quốc cũng không cho rằng chiến tranh là thủ đoạn tốt nhất để mưu lợi cho quốc gia. Nhận thức đó đã thay đổi cách nhìn của Trung quốc cho rằng bản tính của chủ nghĩa đế quốc là nguồn gốc sinh ra chiến tranh. Một thời gian dài trước kia, sở dĩ cho rằng chiến tranh là không thể tránh khỏi vì xuất phát từ kiến giải cho rằng chủ nghĩa đế quốc là nguồn gốc của chiến tranh.
Trong “cách mạng văn hóa” Vương Gia Tường, vì đề nghị vứt bỏ cách nhìn nhận đó, mà bị phê phán là theo chủ nghĩa đầu hàng và xét lại. Trên thực tế, dù quyền chủ động chiến tranh ở trong tay đế quốc nhưng phía bị động áp dụng thái độ gì, là đối kháng hay hợp tác, cũng rất có quan hệ. Chiến tranh có thể tránh được không do hai bên có muốn hay không quyết định, bao gồm phía bị động có nhận thức rằng ngoài việc đánh thì không còn biện pháp ứng phó nào khác. Nếu cho rằng nhất định phải đánh, nhất quyết sống mái một phen, thì sẽ hình thành cục diện đối kháng như giữa Liên xô và Mỹ, khó phân biệt được bên nào chính nghĩa, bên nào phi nghĩa.
Mưu lược ngoại giao của Trung quốc xuất phát từ chủ trương đánh hay hòa, xét từ căn bản, được quyết định bởi thái độ đối với trật tự thế giới hiện có.
Như tiên sinh Trịnh Vũ Thạc đã nói, sự chuyển biến thái độ của Trung quốc đã đem lại sự “bán cấp tiến” cho nền ngoại giao của họ, tức là nghiêng về phía cải cách chứ không phải lật đổ toàn bộ thể chế hiện có trên thế giới. Sự chuyển biến đó khiến Trung quốc nhạt dần với sứ mạng cách mạng thế giới, mà nghĩ nhiều về lợi ích hiện thực của nước mình, thay đổi thái độ thù địch với thế giới phương Tây. Biểu trưng rõ rệt nhất là không dùng từ “chủ nghĩa đế quốc” mang nặng sắc thái hình thái ý thức để gọi các đối thủ ngày hôm qua, mà đổi sang dùng “chủ nghĩa bá quyền”, “chính trị cường quyền”, “nước phát triển”, “siêu cường quốc” có tính chất trung tính hơn. Đây là phong cách cộng thêm vào tinh thần cao ngạo không sợ ma, không sợ quỷ tiến thêm một bước giao du với ma quỷ, đồng ý chung sống hòa bình với các nước có chế độ xã hội khác mình. Kết quả là từ thù địch chuyển sang tiếp xúc, từ đối kháng chuyển sang hòa giải, từ bài xích chuyển sang cộng tác, tạo ra khả năng để Trung quốc mở rộng sự giao dịch và hợp tác quốc tế.
Phán đoán về tình hình thế giới của Đặng đã hướng dẫn chính sách ngoại giao Trung quốc từ xuất phát điểm chiến tranh chuyển sang xuất phát điểm hòa bình. Đặng không thấy hứng thú về việc chiến tranh dẫn tới cách mạng hay cách mạng ngăn ngừa chiến tranh, mà điều quan trọng là bản thân Trung quốc cần một hoàn cảnh quốc tế hoà bình ổn định, để tập trung tinh lực xây dựng hiện đại hóa. “Trung quốc quá nghèo, cần phát triển lên, chỉ có trong hoàn cảnh hòa bình, mới thực hiện được. Muốn tranh thủ hoàn cảnh hòa bình, thì cần phải hợp tác với mọi lực lượng hòa bình trên thế giới” Ngoại giao hòa bình không chỉ là một khẩu hiệu có tính sách lược, mà xuất phát từ sự suy xét lợi ích chiến lược chiến tranh đòi hỏi tốn thời gian và tài nguyên. Trung quốc không nhát gan sợ sệt, mà chỉ ngại tham gia chiến tranh sẽ làm lỡ mất tiến trình hiện đại hóa đã bị lỡ rất lâu, sẽ làm rối loạn trình tự bốn hiện đại, sẽ lại làm lỡ mất cơ hội phát triển. Ngược lại, triển khai rộng rãi nền ngoại giao hòa bình và hợp tác quốc tế, có thể tranh thủ được kỹ thuật và nguồn vốn cần thiết cho xây dựng hiện đại hóa Trung quốc.
7.3. Chủ trương chống bá quyền, vừa trấn áp được kẻ mạnh, lại kết giao được với kẻ yếu. Kẻ yếu đi theo, kẻ mạnh sẽ không dám coi thường.
Chống bá quyền, giữ gìn hòa bình, là phương châm ngoại giao số một của Đặng Tiểu Bình. Ông nói: “Giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa bá quyền, giữ gìn hòa bình thế giới, kiên định đứng về phía các lực lượng hòa bình, kẻ nào bá quyền thì chống lại kẻ đó, kẻ nào gây chiến thì chống lại kẻ đó, xây dựng hình tượng Trung quốc là một lực lượng hòa bình, một lực lượng ngăn chặn chiến tranh, là vô cùng quan trọng”
Chống bá quyền, nếu chỉ là không phục tác phong bá đạo giữa đường thấy chuyện bất bình là tuốt gươm trợ lực, như kiểu hiệp khách anh hùng nghĩa khi, thì chẳng có gì là “vô cùng quan trọng”, vì Đặng suy nghĩ tới vấn đề thực tế.
Vậy ý nghĩa thực tế của vấn đề chống bá quyền, giữ gìn hoà bình đối với Trung quốc là thế nào? Trong nền văn hóa Trung quốc có tinh thần nghĩa hiệp giúp yếu chống mạnh, lấy mạnh ăn hiếp yếu gọi là bá. Có người nghiên cứu, tinh thần nhân văn đó có lợi cho sự sinh tồn của kẻ yếu. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, Trung quốc rõ ràng còn là một kẻ yếu, trên rất nhiều mặt đều chưa thể hiện được là mạnh, càng chưa có thể đọ sức mạnh với các nước phát triển phương Tây, đặc biệt, là với hai siêu cường. Do đó, giữ gìn nguyên tắc nhất luật bình đẳng giữa các nước không kể lớn nhỏ, không cho phép lớn ăn hiếp nhỏ, mạnh ăn hiếp yếu, rõ ràng là có lợi cho bản thân Trung quốc.
Điều càng quan trọng hơn là trên thế giới ngày nay, những nước yếu vẫn chiếm số lượng lớn so với các nước mạnh. Nước mạnh không có nhiều, đặc biệt là mạnh tới mức có thể xưng bá lại càng ít. Sách lược của Đặng là giao thiệp với tất cả các nước, không kể là nước lớn nước nhỏ, nước mạnh nước yếu, không từ chối ai. Nhưng nếu ai xưng bá quyền, ăn hiếp nước nhỏ yếu thì dù không nhằm vào Trung quốc, Trung quốc cũng lên tiếng bênh vực lẽ phải, phản đối kẻ cường quyền. Lập trường chống bá quyền đó, đương nhiên sẽ làm mất lòng một số ít nước, nhưng lại tạo được quan hệ đoàn kết tốt với đa số nước. Có được sự ủng hộ của tuyệt đại đa số, thì Trung quốc vốn không thật mạnh, sẽ trở thành có sức mạnh. Những người không hài lòng vì Trung quốc chống bá quyền, cũng không làm gì được Trung quốc. Chủ trương chống bá quyền, vừa trấn áp được kẻ mạnh, lại kết giao được với kẻ yếu, làm cho kẻ yếu lũ lượt đi theo, mà kẻ mạnh không dám coi thường, đương nhiên là vô cùng quan trọng.
Trung quốc không chỉ cần đứng về phía kẻ yếu, để đoàn kết với các nước thế giới thứ ba chiếm 3/4 số nước trên thế giới, mà còn đứng về phía lực lượng hoà bình, thì con đường càng rộng. Số nhân khẩu và số nước ủng hộ hoà bình trên thế giới càng nhiều, thì dù những người muốn kiếm lợi vì chiến tranh cũng không thể coi thường ngọn cờ hoà bình. Giương cao ngọn cờ hoà bình là đủ để hiệu triệu thiên hạ, khiến chủ nghĩa bá quyền càng bị cô lập: Đặng liên hệ việc chống bá quyền với giữ gìn hoà bình, để chứng minh rằng bá quyền không có lợi cho hoà bình thế giới. Về tình hình thực tế của Trung quốc, đối phó với chủ nghĩa bá quyền còn có năng lực, phương pháp; nhưng điều thực sự lo lắng hơn là chiến tranh, vì Trung quốc cần tập trung tinh lực thực hiện hiện đại hóa. Đặng lấy việc giữ gìn hoà bình để kêu gọi chống bá quyền, nói rõ việc chống bá quyền ở Trung quốc không đơn thuần là sách lược phòng ngự, không phải là không quen nhìn tác phong bá quyền mà chống bá quyền, mà còn có nội dung tích cực, tức là ngăn trở nhân tố chiến tranh, tranh thủ một hoàn cảnh bên ngoài hoà bình ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng hiện đại hoá của Trung quốc.
Một ý nghĩa khác của việc chống bá quyền, gìn giữ hoà bình còn là để đánh tan lập luận về “sự uy hiếp của Trung quốc”. Nếu theo mục tiêu dự định, tới lúc nào đó, Trung quốc sẽ tiếp cận trình độ của các nước phát triển, lại có lãnh thổ rộng lớn, nhân khẩu đông đúc như thế này, thì đến lúc đó, Trung quốc có xưng bá, quay lại ăn hiếp những người anh em nhỏ bé cũ không? Rất nhiều nước trung bình và nhỏ, vì mang tâm lý đó mà có thái độ “kính nhi viễn chi” đối với Trung quốc, thậm chí còn dành ra một tay, một mặt họ ủng hộ lập trường chống bá quyền của Trung quốc, nhưng lại lo ủng hộ quá mức, khiến Trung quốc nhanh chóng mạnh lên, không có lợi cho mình. Giương cao ngọn cờ chống bá quyền, nói rõ Trung quốc vĩnh viễn đứng về phía thế giới thứ ba, về phía lực lượng hòa bình. Như vậy, ít nhất là về mặt lý luận, sự phát triển của Trung quốc tức là sự tăng trưởng của lực lượng hoà bình thế giới, sự lớn mạnh của bản thân thế giới thứ ba, có gì là đáng sợ?
7.4. Đặng kế thừa mưu lược của Mao, tuyên bố Trung quốc đứng về phía thế giới thứ ba
Đặng Tiểu Bình đánh giá rất cao chiến lược chia ra “ba thế giới” của Mao, ca ngợi nó đã có tác dụng không thể lường hết đối với việc đoàn kết nhân dân thế giới chống chủ nghĩa bá quyền, làm thay đổi so sánh lực lượng chính trị trên thế giới, phá tan kế hoạch của Liên xô muốn cô lập Trung quốc trên trường quốc tế, cải thiện điều kiện của Trung quốc trên trưởng quốc tế, nâng cao uy tín quốc tế của Trung quốc.
Sau khi bước vào thời kỳ lịch sử mới, tình hình mọi mặt của Trung quốc và thế giới có rất nhiều thay đổi, Đặng vẫn nhắc lại là Trung quốc đứng về phía thế giới thứ ba. Một lần, ông nói với một người bạn trong thế giới thứ ba: Trung quốc là một ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, lá phiếu đó của Trung quốc là của thế giới thứ ba. Trung quốc thuộc về thế giới thứ ba” Ai cũng biết rằng thế giới thứ ba đều là nước nhỏ, nước nghèo, nước yếu, Trung quốc xét về kinh tế là nước nghèo, nước yếu, nước nhỏ. Về chính trị thì là một nước lớn không thể coi thường, nếu muốn tỏ vẻ một chút, Trung quốc hoàn toàn có thể nhân danh một nước lớn. Nhưng làm như thế không phù hợp với trí tuệ truyền thống của Trung quốc về hành động của kẻ yếu. Kẻ yếu có một biện pháp làm cho mình trở thành kẻ mạnh trên thực tế, đó là tự xếp mình về phía những kẻ yếu, xuất hiện với tư thế đại biểu cho những kẻ yếu. Nếu trên thế giới này những kẻ yếu chiếm đa số thì cách làm như thế sẽ biến mình thành kẻ mạnh, đủ để đứng ngang hàng những kẻ mạnh chiếm thiểu số. Đặng thừa kế mưu lược của Mao Trạch Đông, tuyên bố Trung quốc đứng về phía thế giới thứ ba, đại biểu cho thế giới thứ ba để phát biểu. Làm như vậy có hai ý nghĩa lớn:
Một là, có thể đoàn kết đại đa số để cùng chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, làm tăng thêm sức nặng của Trung quốc trong các công việc quốc tế. Trung quốc vốn không phải là lớn mạnh, nhưng có đông đảo bạn bè, thế giới thứ ba, đủ để buộc bất kỳ siêu cường quốc nào phải nể trọng.
Hai là, có thể thông qua hợp tác Nam-Nam với các nước thế giới thứ ba, giành được cái lợi giống như các nước phát triển hợp tác với Trung quốc, đồng thời dùng hợp tác Nam-Nam để thúc đẩy đối thoại Nam-Bắc và hợp tác Nam-Nam, gây sức ép với các nước phát triển, thí dụ như yêu cầu các nước phát triển xuất phát từ lợi ích toàn cầu, bỏ tiền ra giúp cho các nước chậm phát triển cùng được phát triển.
7.5. Có một số nước trong thế giới thứ ba muốn Trung quốc đứng đầu; nhưng chúng ta tuyệt đối không thể đứng đầu. Đó là một quốc sách căn bản
“Đứng về phía thế giới thứ ba” có rất nhiều cách “đứng”. Đứng được tốt, sẽ có lợi cho Trung quốc; đứng không tốt, ngược lại, sẽ có nhiều phiền phức. Một lần Đặng Tiểu Bình nhắc nhở các đồng chí trong đảng: “Có một số nước trong thế giới thứ ba muốn Trung quốc đứng đầu. Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể đứng đầu. Đó là một quốc sách căn bản”
Đứng đầu thì làm sao? có bài học lịch sử: Liên xô đã một thời gian dài đứng đầu các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho “anh em” trong “đại gia đình” tranh cãi om sòm, nhà nào có vấn đề là phải đến duy trì trật tự, đối ngoại còn phải gánh vác nghĩa vụ bảo đảm an toàn. Kết quả trở thành người khổng lồ về quân sự nhưng ngoài mạnh trong rỗng, thấp lùn về kinh tế, trong ngoài không cân xứng, cuối cùng không trụ nổi, phải phân chia ra để sống.
Thời kỳ “cách mạng văn hóa”, Trung quốc có mấy vị phái tả muốn bắt chước Liên xô, lấy “ba thế giới” của Mao Trạch Đông làm ngọn cờ hiệu triệu, biến Trung quốc thành căn cứ địa cách mạng thế giới. Bản thân mình rõ ràng ăn chưa no, còn muốn siết chặt dây lưng đóng vai trò hảo hán, khẳng khái viện trợ các nước anh em trong thế giới thứ ba, thề thốt đòi giải phóng toàn nhân loại thật là một vở kịch ồn ào?
Theo Đặng, đứng về phía thế giới thứ ba, nói lời công bằng thì có thể được. Nhưng quyết không thể đứng đầu, vì như thế tuyệt đối không có lợi gì:
Một là, lực lượng của bản thân Trung quốc không đủ, không đóng nổi vai đứng đầu. Đứng đầu, tức là gỡ hết các quả bầu trên tường treo vào cổ mình. Chừng ấy quả bầu sẽ có ngày đè xuống khiến Trung quốc không đứng thẳng lưng lên được, ít nhất cũng làm cho hành động không thuận tiện. Lại thêm, Trung quốc vốn nghèo, việc của bản thân đã làm không hết, làm sao có năng lực bao hết chừng ấy anh em. Huống chi anh bao như thế, vừa tốn sức lại vừa không nhất định làm anh em vừa lòng. Xây dựng tốt nước Trung Hoa có một tỷ nhân khẩu, thì tự nó đã là một cống hiến rất lớn cho nhân loại. Vứt bỏ việc no ấm của một tỷ dân không chăm lo. Lại đi ôm lấy trách nhiệm đứng đầu thì có gì là cần thiết?
Hai là, khi đã đứng đầu, thì sẽ mất rất nhiều chủ động. Đứng đầu, coi như đã cột chặt Trung quốc vào con thuyền của thế giới thứ ba, lại còn phải làm thuyền trưởng, có trách nhiệm với an toàn của tất cả thuyền viên.
Thế giới thứ ba, nói về lý luận, là coi những nước giàu, nhất là những siêu cường, là kẻ thù. Đứng đầu họ, thì phải có tác dụng lãnh đạo, dẫn đầu những anh em nghèo đó đối kháng với các nước giàu, với các siêu cường. Nếu như vậy, Trung quốc sẽ không thể độc lập tự chủ giao dịch với các nước phát triển, không có cách gì vận dụng sách lược cơ động linh hoạt trong khi xử lý quan hệ với các nước lớn. Trung quốc đứng về phía các nước thế giới thứ ba là một con bài có sức nặng trong việc giao dịch với các siêu cường. Nhưng nếu lại lún sâu vào đó, thì Trung quốc sẽ thành một con bài trong tay các nước khác. Như thế có khác gì nhốt mình trong tổ kén gây trở ngại cho bản thân mình, chặn đứng con đường để Trung quốc triển khai hợp tác với các nước phát triển, giành tiền vốn và kỹ thuật, có lợi cho công cuộc xây dựng hiện đại hóa của Trung quốc.
7.6. Vượt qua chế độ xã hội và hình thái ý thức
Tư duy mới về ngoại giao của Đặng Tiểu Bình trong thập kỷ 80, nếu khái quát bằng một câu, thì đó là: “Suy xét về quan hệ giữa nước này với nước khác, chủ yếu cần xuất phát từ bản thân lợi ích chiến lược của nước mình... không nên so đo về sự khác biệt trong chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội”
Trước kia, việc giao dịch và hợp tác đối ngoại của Trung quốc tại sao không mở ra được cục diện? Có nguyên nhân từ phía người khác, cũng có nguyên nhân từ phía mình. Nguyên nhân về phía mình, chủ yếu là đem những giáo điều “tính chất xã hội chủ nghĩa hay tính chất tư bản chủ nghĩa” vận dụng trong quan hệ quốc tế, dùng chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội để quyết định quan hệ địch ta. Cùng một chế độ, có cùng quan điểm, mới có thể là bạn bè, ngược lại thì là kẻ thù. Trung-Mỹ coi nhau là thù địch hơn 20 năm, Trung quốc trường kỳ bất hợp tác với các nước phương Tây, giữa Trung quốc và Liên xô có hơn 20 năm đối kháng, trong đó nguyên nhân về phía đối phương, nói theo như ta thì một anh là đế quốc chủ nghĩa, một anh là tư bản chủ nghĩa, một anh là chủ nghĩa xét lại, cộng thêm tinh thần không tin ma, không sợ quỷ, thề thốt đòi tiêu diệt đế quốc, xét lại, phản động thì làm sao có thể tiếp xúc, đối thoại, hợp tác?
Đặng dùng một câu để nói rõ thực chất của vấn đề: Đó đều là tự mình gây trở ngại cho mình. Trở ngại trong quan hệ giữa nước này với nước khác không thuần túy chỉ là ảo ảnh do con người tạo ra, nguồn gốc của nó còn do xung đột về lợi ích. Vấn đề là xung đột lợi ích khi đã gắn với thiên kiến về chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội thì sẽ trở nên phức tạp và sâu sắc lên. Xung đột lợi ích thuần tuý thì hoàn toàn có thể bình tĩnh ngồi lại với nhau, qua hiệp thương, đàm phán để tìm ra biện pháp giải quyết mà hai bên đều có thể chấp nhận. Sau khi gộp cả vấn đề chế độ và quan điểm vào, thì hai bên xung đột sẽ coi nhau như kẻ thù, không ai chịu nghe theo lý lẽ của ai, không còn chỗ để thương lượng nữa, nhượng bộ là coi như đầu hàng, không có khí phách. Biện pháp duy nhất để giải quyết chỉ còn là đánh đổ, tiêu diệt. Tiêu diệt không nổi thì gây căng thẳng, chiến tranh lạnh, không bên nào chịu thua bên nào.
Từ chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội mà xét quan hệ giữa các quốc gia, thì trong khi trách cứ người khác, cũng cô lập luôn cả mình. Muốn là bè bạn thì anh phải có chế độ giống với tôi, có quan điểm nhất trí với tôi; không thể kết bạn với “sài lang”, chơi bời với “ma quỷ”. Như vậy thì có mấy bè bạn để giao du? Đặng ý thức rất rõ chính sách vạch đất để giam mình đó, coi như đã tự cô lập mình với thế giới. Trung quốc muốn thực hiện bốn hiện đại hóa, thì phải mở cửa với tất cả các nước. Mở cửa ra các phía yêu cầu phải dỡ bỏ các chướng ngại nhân tạo. Dỡ bỏ chướng ngại, mới là chính sách ngoại giao hiện thực: “Có thể kết giao với tất cả mọi người” Thế giới thứ ba cần giao dịch, các nước phát triển càng cần giao dịch; cần giao dịch với Bắc Triều Tiên, cũng cần giao dịch với Nam Triều Tiên; không kể mèo đen mèo trắng, hễ có lợi cho sự phát triển của Trung quốc, thì đều nên kết giao. Đặng biết rằng “Dùng tư tưởng đó để xử lý quan hệ giữa các quốc gia, nếu không có dũng khí chiến lược thì không được”. Bởi vì kết giao với tất cả mọi người, bao gồm kết giao với”ma quỷ”, kết giao với kẻ thù cũ. Do đó, đồng thời càng cần đến trí tuệ “trong khi kết giao tìm được cái lợi tránh được cái hại”.
Từ chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội để suy xét về quan hệ giữa các quốc gia, không những không kết giao được bạn bè, mà kết giao được cũng khó cư xử với nhau, rất dễ đi tới chỗ bế tắc. Bởi vì đã nhấn mạnh sự nhất trí thì khó chấp nhận người khác có ý kiến khác mình, có chút khác mình, liền cảm thấy không đủ là bè bạn, liền chỉ trích, can thiệp, áp đặt cho người khác.
Sự can thiệp bao giờ cũng là hai chiều, anh lớn tiếng chỉ trích người khác, người khác tất có quyền trả lời anh, kết quả là đất bằng nổi sóng, đã không hợp nhau, là tan tình bè bạn. Trước kia Trung quốc đã từng can thiệp vào việc của người khác. Sau khi cải cách mở cửa đã trở nên khoan dung hơn, không còn quản việc của người khác. Vấn đề còn lại là không cho phép người khác can thiệp vào Trung quốc như thế nào. Trong khi kết giao với những nước phát triển có ưu thế, Trung quốc nghiêng về phía không can thiệp vào việc của người khác, nhưng cũng không chịu để người khác can thiệp vào việc của mình. Đặng biết rằng một số nước hay tùy tiện bình luận về Trung quốc cũng chính là vì đã gộp cả quan hệ nhà nước với chế độ xã hội và quan niệm giá trị. Do đó, nhấn mạnh việc vượt qua chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội, ngược lại, lại có lợi cho mình. Tôi không quản đến công việc của anh, thì cũng mong anh tôn trọng tôi, đừng quản tới công việc của tôi. Như vậy mới có thể độc lập tự chủ, chung sống hòa bình với mọi quốc gia khác.
So đo những điểm khác biệt về chế độ xã hội và hình thái ý thức xã hội đưa lại cho Trung quốc hai điều bất lợi lớn: ít bạn bè và luôn có xích mích. Đặng mới bỏ qua một chút, đã giành dược hai điểu lợi lớn: Bè bạn nhiều lên và độc lập, tự chủ.
7.7. Đối kháng sẽ mất bè bạn, liên minh sẽ mất tính độc lập
Đặng Tiểu Bình cho rằng, Trung quốc khi xử lý mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào, đều cần cố gắng tránh hai chính sách cực đoan: Đối kháng và liên minh. Đối kháng sẽ mất bè bạn, liên minh sẽ mất tính độc lập.
Phương thức lý tưởng nhất ở giữa hai cực đoan đó là nền ngoại giao hòa bình, độc lập tự chủ. Điều cốt lõi của nó là hòa bình hữu hảo với bất kỳ nước nào, nhưng cần giữ một khoảng cách nhất định. Đó mới là sự lựa chọn có lợi nhất cho Trung quốc.
Từ khi cải cách mở cửa đến nay, Đặng đã hết sức cố gắng, lần lượt chấm dứt trạng thái đối địch hoặc cách bức với Mỹ, Nnật, Tây Âu và Liên xô. Nhưng với bất kỳ nước nào, Đặng cũng đều giữ khoảng cách, không quá gần gũi, cũng không liên minh. Trung quốc luôn luôn hữu hảo với các nước thế giới thứ ba, nhưng không tạo thành “đại gia đình quốc tế”. Có một số nước thế giới thứ ba chủ động yêu cầu Trung quốc đứng đầu, Đặng kiên quyết từ chối. Trung quốc cùng Nhật Bản, một cường quốc kinh tế ở châu Á chỉ cách nhau một vùng biển hẹp, cư xử như láng giềng thân mật, nhưng không cùng với Nhật tạo thành phạm vi thế lực Năm 1979, Đặng sang thăm Mỹ, thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ, rõ ràng có dụng ý nhằm chống lại chủ nghĩa bá quyền Liên xô, nhưng không có ý định tham gia “tập đoàn chính trị” với Mỹ. Kết thúc cuộc đi thăm, lại công bố bản thông cáo báo chí mà không có tuyên bố chung giữa hai nước, vì làm như vậy có phần không chính thức hơn, ít sức ràng buộc hơn. Cuối thập kỷ 80, cải thiện quan hệ với Liên xô, nhưng không còn “vừa là đồng chí vừa là anh em” như từ trước thập kỷ 60 nữa, mục đích cũng là để giữ sự độc lập tự chủ.
Thái độ vừa kết bạn, vừa không quá thân mật đó, không thể hiểu là không trung thực với bè bạn, mà là mưu lược ngoại giao kiểu Trung quốc vừa kết bạn rộng rãi, vừa không làm mất tính độc lập.
Đối đãi với bè bạn với khoảng cách như nhau mới có thể giữ được nhiều bè bạn. Nếu quá thân mật với một hoặc mấy bè bạn, thì tất làm những bạn khác cảm thấy bất an, nên không có lợi cho việc kết giao rộng rãi. Nếu Trung quốc hợp thành một tập đoàn với một hoặc mấy nước khác, thì có nghĩa là đoạn giao với những nước ngoài tập đoàn không thể cùng giao du với họ được. Mà nước liên kết trong tập đoàn có thật đáng tin cậy không, lại là một vấn đề
Giữ một khoảng cách nhất định với bạn bè tiện cho việc giải quyết quan hệ bạn bè. Nếu quá gần gũi, lại bị ràng buộc, khiến mình mất rất nhiều tính chủ động. Ngược lại giữ khoảng cách nhất định, người khác sẽ sợ anh bỏ đi sang phía khác, làm tăng sức mạnh của phía khác. Như vậy anh lại được chủ động, không phải hành động theo sắc mặt của người khác. Nếu họ có gì sai trái, anh còn có thể có ý kiến phê phán. Nếu quá thân mật, sẽ không dễ phê phán, hễ phê phán là có thể xa cách. Giữ khoảng cách nhất định, sức ràng buộc sẽ nhỏ, mức độ tự do của mình sẽ lớn hơn. Tuy là bè bạn, nhưng vẫn có sự bảo lưu ngoài việc bảo lưu quyền giao dịch với người thứ ba, còn bảo lưu quyền phê phán với bản thân bè bạn đó nữa, thậm chí cả quyền từ bỏ anh nếu anh không còn đủ tư cách là bè bạn. Có sự bảo lưu thì có thể tự do giao dịch, có thể độc lập phát biểu ý kiến của mình. Như vậy, càng có lợi cho Trung quốc độc lập tự chủ, phát huy tác dụng trong công việc quốc tế, mà không phải trong bất cứ việc gì cũng phải xoay quanh người khác.
Về mặt tình cảm, có thân mật một chút cũng không sao, và cũng là điều khó tránh. Đặng đặc biệt nhấn mạnh không thể tạo thành một tập đoàn có hiệp ước liên minh. Liên minh có ba tình huống:
Một là, người khác yếu, Trung quốc là minh chủ. Như vậy, có thể có cái lợi. Nhưng để Trung quốc có thể làm minh chủ hầu như chỉ có thế giới thứ ba, mà đối với những anh em nhỏ đó, thái độ của Trung quốc xưa nay là coi nghĩa vụ lớn hơn quyền lợi. Thêm nữa, con bài đó có thể có chút sức nặng về chính trị, nhưng không có gì về quân sự và kinh tế.
Hai là, làm một thành viên của liên minh. Người khác lớn mạnh hơn Trung quốc, Trung quốc gia nhập một tập đoàn như thế khác gì cột mình vào chiến xa của họ. Cột vào chiến xa của người khác, ngoài việc mất tự do, còn phó thác việc an toàn của mình cho người khác. Điều đó có nghĩa là phải hành động theo ý người khác, nếu xảy ra lục đục, thì không còn bảo đảm an toàn gì nữa.
Ba là, thực lực tương đương, đóng vai một bên liên minh bình đẳng. Trong nội bộ, nghĩa vụ và quyền lợi đều như nhau; đối ngoại, hai bên đều có thể chơi con bài của nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, xem ra cũng được, nhưng không phải là thượng sách. Thượng sách là làm bạn bè nhưng giữ một khoảng cách nhất định, bảo lưu quyền đi lại tự do. Quyền chủ động đó hoàn toàn trong tay ta. Nếu bên này không hay, ta có thể dịch sang bên kia, bên kia không tốt, ta lại dịch sang bên này. Kết quả ai cũng sợ Trung quốc rời xa, người khác không thể chơi được con bài của ta. Ngược lại, có lúc ta lại có thể chơi con bài của họ.
Không dựa vào bất kỳ ai, có thể bị cô lập không? Nếu Trung quốc quá nhỏ bé, không đáng kể gì, thì sẽ như vậy. Song Trung quốc bất kỳ về mặt nào, cũng không thể bị mọi người coi thường. Chỉ riêng thị trường rộng lớn của Trung quốc cũng khiến rất nhiều nước ngoài không thể bỏ được đương nhiên có điều kiện đó mà không dựa vào ai thì muốn không bị cô lập, còn cần có một tiền đề, đó là không gây sự với ai. Không gây sự với ai, kết bạn với tất cả, nhưng không dựa vào ai, giữ địa vị độc lập, thì kết quả sẽ thế nào? Nước nào cũng muốn tranh thủ, nước nào cũng sợ mất lòng. Như vậy, sức nặng của Trung quốc sẽ tăng thêm, bè bạn sẽ nhiều thêm.
Vì vậy Đặng nói: “Chúng ta kiên trì chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập tự chủ, không tham gia tập đoàn nào. Kết giao với tất cả, kết bạn với tất cả. Ai thực hiện chủ nghĩa bá quyền, ta sẽ phản đối người đó; ai xâm lược người khác, ta sẽ phản đối người đó. Ta nói lời nói công bàng, làm công việc công bằng, thì sức nặng chính trị của nước ta sẽ tăng lên. Chính sách đó rất có hiệu quả, ta cần kiên trì đến cùng”.
7.8. Trời có sập xuống đã có người to lớn chống đỡ, sợ cái gì?
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là một trong năm nguyên tắc chung sống hòa bình do Trung quốc khởi xướng. Đó vốn là một quy tắc để giải quyết quan hệ với ấn Độ, một nước láng giềng cố địa vị tương đương với Trung quốc trong thập kỷ 50. Không ngờ, tới thập kỷ 80 nó lại trở thành một vũ khí tự vệ vô cùng quan trọng trong nền ngoại giao Trung quốc, trở thành câu nói cửa miệng của Đặng Tiểu Bình và những người lãnh đạo khác của Trung quốc trước thế giới. Đặng thậm chí còn nói: “Nguyên tắc chủ yếu nhất trong trật tự quan hệ quốc tế mới, là không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”
Can thiệp vào công việc nội bộ khác với vũ trang xâm lược. Nó là một phương thức ngoại giao của một nước dựa vào thực lực của mình để gây sức ép hoặc ảnh hưởng tới nước khác. Có thể gây ảnh hưởng đối ngoại hay không hoặc có sợ ảnh hưởng của nước ngoài hay không chủ yếu phụ thuộc vào sự lớn mạnh hay không của nước mình. Nói chung, chủ trương can thiệp hoặc can thiệp một cách phớt lờ là lập trường của nước lớn, còn nước yếu thì nghiêng về chủ nghĩa không can thiệp.
Kinh tế kém phát triển, cộng thêm tâm lý không muốn để một số ít nước làm chúa tể thế giới, khiến Trung quốc trở thành người phản đối tự nhiên đối với hành vi can thiệp của nước lớn. Do nguyên nhân lịch sử và văn hóa, Trung quốc đặc biệt nhạy cảm với hành vi can thiệp. đương nhiên không thể nói nguyên tắc không can thiệp là một nguyên tắc phiến diện chỉ có lợi cho Trung quốc. Đặng tính toán đầy đủ đến việc nguyên tắc này có thể được sự ủng hộ rộng rãi trên thế giới. Tiếng kêu mạnh mẽ phổ biến của Tổ chức thống nhất châu Phi là yêu cầu nước khác đừng can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Ngoài ra, nhiều nước theo đạo Hồi chiếm 1/5 nhân khẩu thế giới cũng không chấp nhận việc can dự của các nước phương Tây. Cộng thêm Trung quốc, cũng chiếm 1/5 nhân khẩu thế giới, thì đội ngũ này đã đủ lớn.
Không can thiệp là hành vi có tính song phương, yêu cầu người khác không can thiệp vào nước mình, tự mình cũng không can thiệp vào nước khác. Trung quốc muốn thực hiện việc không can thiệp vào nước khác là tương đối dễ. Xét trong lịch sử, người Trung quốc xưa nay chỉ chuyên chú tới việc làm sao chiến thắng và khống chế người khác trong nội bộ của đại quốc trung ương, chứ không có ham muốn chi phối gì với các di bang ở ngoại vực.
Mong muốn lớn nhất chỉ là người khác đừng tới quấy rối.
Trong thời kỳ “cách mạng văn hóa”, một số ít người có cuồng vọng biến Trung quốc thành căn cứ địa của cách mạng thế giới, đã làm một số việc gán ép cho người khác, xuất phát điểm vẫn là ý tốt muốn giúp đỡ người khác, và Trung quốc đã phải mất đi rất nhiều so với cái lợi thu được Chỉ những người không thông minh mới làm như vậy Từ ngày cải cách mở cửa đến nay, Trung quốc một lòng giữ quan hệ tốt với thiên hạ, lo chiến tranh ảnh hưởng đến xây dựng hiện đại hóa, đặt việc phát triển bản thân lên hàng đầu, việc của mình làm không hết, còn lòng dạ nào chú ý tới nước khác. Trung quốc không có ý, cũng không có sức đi can thiệp vào việc của người khác, thì việc “không can thiệp vào việc nội bộ của nhau” đối với Trung quốc, là vũ khí mạnh mẽ để chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, bảo vệ chủ quyền quốc giạ và sự tôn nghiêm dân tộc.
Trung quốc muốn thực hiện hiện đại hóa thì cần mở cửa ra bên ngoài, nhất là mở cửa ra các nước phát triển phương Tây. Trong tình thế đó, nếu không tách riêng nội chính với ngoại giao, cho phép việc can thiệp lẫn nhau, xem ra thì quyền lợi ngang nhau, anh can thiệp tôi, tôi cũng can thiệp anh, nhưng thực tế thì bất lợi cho Trung quốc. Vì Trung quốc ở vào thế yếu, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản chưa đủ khiến người ta tin. Nếu không ngăn cấm việc can thiệp lẫn nhau, thì Trung quốc không gây được ảnh hưởng gì với người khác, người khác đã dựa vào ưu thế về mọi mặt, đủ để làm thay đổi màu sắc của Trung quốc, đưa Trung quốc ngả sang phía tự mình không thể khống chế được. Đương nhiên, can thiệp không nổi với người khác, thì còn một phương pháp chống đỡ nữa, là đóng chặt cửa lại, không giao dịch với bên ngoài nữa. Nhưng như thế thì không có lợi cho xây dựng hiện đại hóa. Với sự suy tính không thể không mở cửa và lại không để xảy ra hậu quả Tây hóa toàn diện, thì không can thiệp lẫn nhau trở thành một biện pháp không thể thiếu được để bảo hộ mình.
Không cho phép can thiệp, cũng là một kỹ xảo trong cư xử quốc tế. Chính vì Trung quốc còn yếu, nên càng cần giữ độc lập tự chủ, không tin ma, không sợ quỷ, không chấp nhận can thiệp, không tỏ ra là mình yếu. Đây không phải là loại tinh thần A.Q., mà vì trước kẻ mạnh, anh càng sợ: càng tỏ ra yếu, người ta càng lấn tới. Người ta không vì anh mềm mỏng mà tốt với anh, ngược lại, càng cảm thấy dễ ăn hiếp anh, càng coi thường anh. Cứ được đằng chân lân đằng đầu như thế thì càng ngày càng phiền phức. Đương nhiên, thực hiện chiến tranh tâm lý với kẻ mạnh, cần có dũng khí rất lớn. Đặng đúng là không thiếu dũng khí. Trời có sập xuống thì đã có người to lớn chống đỡ, sợ cái gì?
Trung quốc có thể thay đổi, nhưng phải thay đổi theo ý mình chứ không thể để người khác khoa chân múa tay chỉ huy, bởi vì điều đó quan hệ tới lòng tự tôn của người Trung quốc. Đặng hiểu rằng nếu không có lòng tự tôn dân tộc, không coi trọng nền độc lập và sự tôn nghiêm dân tộc, thì không thể xây dựng được quốc gia. Một lần, ông nói “thực lòng” với Níchxơn: “Nếu Trung quốc không tôn trọng mình, thì Trung quốc sẽ không đứng vững được, không còn quốc thể nữa. Điều này quan hệ lớn lắm. Bất kỳ người lãnh đạo nào phạm sai lầm về vấn đề này sẽ bị đánh đổ, nhân dân Trung quốc sẽ không tha thứ cho họ”. Đúng như vậy, trong lịch sử cận đại, chính phủ nào bị nghi ngờ là bán nước đều không đứng vững được.
Vấn đề càng thực tế hơn là Trung quốc vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Vấn đề Đài Loan nếu bị quốc tế hoá, thì vấn đề thống nhất Tổ quốc sẽ không còn hy vọng. Dùng cái gì để ngăn trở việc quốc tế hóa vấn đề Đài Loan? Đó là nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ. Vấn đề Đài Loan là công việc chính trị nội bộ của Trung quốc, hai bờ eo biển hành động như thế nào là việc của Trung quốc. Bất kỳ nước nào muốn giữ quan hệ hữu hảo với Trung quốc, thì tiền đề là phải công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung quốc. Còn như sự kiện “ngày mồng bốn tháng sáu” (tức 4.6.1989, ngày Trung quốc đàn áp phong trào tự do hóa ở Bắc Kinh-ND), hội nghị người đứng đầu 7 nước phương Tây ra tuyên bố trừng phạt Trung quốc, phản ứng đầu tiên của Đặng là “Ai cho họ có quyền đó?”. Những phải bị phê phán trong phong trào 4-6 đều là phái Tây hóa. Nếu cho phép phương Tây nhúng tay vào, thì sẽ rất khó ổn định được tình thế.