watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mưu lược Đặng Tiểu Bình-Phần 6- C - tác giả Xuân Duy, Quỳnh Dung Xuân Duy, Quỳnh Dung

Xuân Duy, Quỳnh Dung

Phần 6- C

Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung

6.8. “15 năm quá ngắn. Vậy dứt khoát để 50 năm”
Với Hương Cảng sau năm 1997, Đặng tuyên bố luôn một loạt năm điều không thay đổi: “Chế độ xã hội kinh tế hiện hành không thay đổi, pháp luật cơ bản không thay đổi phương thức sinh hoạt không thay đổi, địa vị của một cảng tự do, địa vị là trung tâm thương mại và tài chính của Hương Cảng không thay đổi, Bắc Kinh ngoài việc phái quân đến đóng, không cử cán bộ tham gia vào chính quyền đặc khu, điều đó cũng không thay đổi”
Còn tại sao lại đưa ra những lời hứa đó, Đặng nói rõ ràng không giấu giếm: “Không bảo đảm Hương Cảng và Đài Loan tiếp tục thực hiện chế độ tư bản thì không thể bảo đảm được phồn vinh và ổn định ở những nơi đó, cũng không thể thực hiện được việc hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Tiền đề của hoà bình thống nhất cần được các phía đều chấp nhận, nếu dùng chủ nghĩa xã hội để thống nhất thì Hương Cảng không thể chấp nhận được, “dù có bị buộc phải chấp nhận, cũng sẽ tạo thành cục diện hỗn loạn”
Câu nói đó khiến người ta có cảm giác là bảo đảm không thay đổi là để ổn định lòng dân Hương Cảng, để tiện cho việc hòa bình thống nhất khi đến thời hạn. Điều người Hương Cảng lo lắng là, sau khi thống nhất có thay đổi không? Do đó cần đưa ra lời hứa trong tương lai dài hơn.
Với Hương Cảng, ban đầu định là sau 15 năm không thay đổi. Ngày 29.10.1984, Đặng hội kiến với các bạn Hương Cảng, nói tới vấn đề kỳ hạn, có phát biểu: “15 năm quá ngắn. Vậy dứt khoát để 50 năm thôi”.
Một bạn Nhật Bản không hiểu rõ điều đó, liền hỏi Đặng: Đã nói không thay đổi, tại sao còn có kỳ hạn 50 năm? Căn cứ vào điều gì? Hay là còn có tính toán gì? Kỳ thực, những người có nghi hoặc không chỉ gồm người bạn Nhật Bản đó. Hương Cảng đến năm 1997 mới thu hồi, trước đó bảo đảm không thay đổi là để giải quyết hòa bình.
Giải quyết xong rồi thì dựa vào điều gì để bảo đảm không thay đổi?
Đặng nói ra “cách nghĩ” của ông: “Cần xuất phát từ mục tiêu suốt mấy chục năm của chúng tôi để xét ý nghĩa của việc không thay đổi” Mục tiêu chiến lược ba bước, không bước nào tách rời chính sách cải cách mở cửa. Bước thứ nhất đã được thực tiễn chứng minh. Bước thứ hai tới cuối thế kỷ này, tuy còn là ẩn số, nhưng Hương Cảng cũng tới lúc đó mới thu hồi, nên không cần phải lo có sự thay đổi Đặng căn cứ vào đó để suy ra: Trung quốc muốn thực hiện hiện đại hóa còn phải đi tiếp bước thứ ba, tức đến giữa thế kỷ sau mới tiếp cận trình độ những nước phát triển trung bình. Như thế chẳng phải là 50 năm sao?
Parasi Tainâysơ của Hungari và Đa-vít Trương của Mỹ cùng tiên sinh Lục Khanh ở Hương Cảng, nêu ra mấy lý do làm căn cứ cho việc Trung quốc không vội thu hồi Hương Cảng, cũng có thể coi là căn cứ để sau 50 năm không thay đổi:
1) Hương Cảng là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Trung quốc, đại bộ phận sản phẩm xuất khẩu của đại lục đều đi qua trạm đầu tiên là Hương Cảng có lượng vận chuyển hàng năm là 5 triệu tấn. Nếu thay đổi địa vị cảng tự do của Hương Cảng thì Trung quốc sẽ mất đi 1/ 3 thu nhập ngoại tệ, là một tổn thất lớn về kinh tế.
2) Thay đổi, thì vốn của tư nhân và của nước ngoài sẽ chạy khỏi Hương Cảng. Khác với Thượng Hải là nơi tiền vốn chỉ hoạt động ở trong nước, không chạy đi đâu được, vốn ở Hương Cảng có thể chạy bất cứ lúc nào, như con tàu chở ngọc đi trên biển, có thể đi bất cứ đâu. Ngoài ra, Hương Cảng còn là chiếc cửa sổ để nhìn ra thế giới, cũng là bãi thí nghiệm của cải cách mở cửa.
Đặng còn dưa ra thí dụ nói về ý nghĩa của việc không thay đổi: Có người từng tỏ ra rất lo lắng trước việc thuê mướn nhân công ở trong nước, chủ trương cần can thiệp, cấm chỉ. Đặng chủ trương cứ để yên hai năm rồi sẽ nói, hai năm đã qua, lại nói cứ để xem sao dã. Không phải là Đảng Cộng sản không cấm được điều đó. “Muốn cấm cũng dễ, nhưng như thế là chính sách lại thay đổi, dễ dẫn tới sự xao động nhân tâm” Từ đó suy ra, đối với Hương Cảng tương lai, muốn thay đổi cũng rất dễ. Nhưng sau khi thay đổi, Đặng lo sẽ xảy ra hỗn loạn “đù không xảy ra xung đột vũ lực Hương Cảng cũng sẽ trở thành một Hương Cảng tiêu điều, không còn là Hương Cảng mà chúng ta mong muốn”. Như vậy, lời hứa 50 năm không thay đổi là lời hứa trịnh trọng, không phải là sự bốc đồng nhất thời về tình cảm, tuỳ tiện nói huyên thiên, cũng không phải là có thủ đoạn gì, “chỉ là để ổn định nhân tâm ở Hương Cảng, mà là xét tới mối quan hệ giữa sự phồn vinh ổn định của Hương Cảng với chiến lược phát triển của Trung quốc”. Để thực hiện chiến lược phát triển đó “chúng tôi còn mở mấy “Hương Cảng” ở nội địa... thì làm sao lại thay đổi chính sách đối với Hương Cảng được?”.
Hứa là 50 năm không thay đổi, có phải có nghĩa là sau đó sẽ thay đổi? Tuy người Hương Cảng không suy nghĩ xa đến như vậy, nhưng vấn đề này cũng rất thú vị. 50 năm không thay đổi vì Trung quốc chưa phát triển lên, cần tới sự phồn vinh và ổn định của Hương Cảng. 50 năm sau, Trung quốc phát triển lên rồi, Hương Cảng phồn vinh hay không không còn quan trọng thì lúc đó có thể thay đổi chăng? Đặng dùng một cách nói khác: “Trước 50 năm không thể thay đổi, sau 50 năm không cần thiết phải thay đổi”.
Lý do là: “Sau 50 năm, chúng tôi càng giao dịch nhiều với quốc tế càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn, chính sách mở cửa càng không thể thay đổi” Thêm nữa “Đến 50 năm sau, đại lục phát triển lên rồi, lúc đó còn giải quyết vấn đề một cách nhỏ nhặt như vậy sao?”.
Cuối cùng mọi người hiểu rõ, chính sách với Hương Cảng, Đài Loan 50 năm không thay đổi, thậm chí toàn bộ chính sách mở cửa và cải cách cũng không thay đổi. Nhưng Trung quốc có một đặc điểm, là việc thay đổi chính sách hoàn toàn phụ thuộc vào người cầm quyền. Khi Đặng còn sống thì không ai dám thay đổi, nhưng sau Đặng thì ai dám bảo đảm?
Nói đến thế, Đặng đành chỉ đưa ra “sự ủng hộ của nhân dân”: Những chính sách ấy được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, nhân dân đều ủng hộ, thì không ai thay đổi được ai muốn thay đổi, người đó sẽ bị đánh đổ. “Tôi không còn, nhưng tin rằng những người kế tục tôi sẽ hiểu được lý lẽ đó”.
Như vậy, không ai còn có thể phủ nhận thành ý trong lời hứa 50 năm không thay đổi của Đặng nữa. Song, nước ngoài vẫn có người nói: “Bản thân lòng thành là một thứ duy tâm, mà lịch sử hơn 80 năm qua của đại lục là duy vật, không thể thay đổi bằng ý chí chủ quan” (Tống ân Vinh). Đặng không thể sống tới lúc lời hứa của ông được thực hiện, thì làm sao có thể tin vào lời hứa của ông ta rằng mọi việc sau mấy chục năm nữa vẫn không thay đổi? Chỉ có thể căn cứ vào pháp luật. Người ta không thể tin vào một cá nhân, thì nên tin vào pháp luật? Pháp luật có tính ổn định. Vì vậy Đặng chỉ thị: “Luật cơ bản về Hương Cảng ít nhất phải bao quát 50 năm”. Có được căn cứ pháp luật như vậy có thể chứng minh 50 năm không thay đổi không phải là lời nói thuận miệng, mà là có ghi chép vào văn bản. Điều đó cũng là sự ước thúc với những người kế tục về sau, Giữ tín nghĩa là phong độ của dân tộc Trung Hoa và của đất nước lâu đời này. Ngay dù trong những năm động loạn, chính phủ và đảng Trung quốc cũng vẫn coi trọng lời hứa về những vấn đề quốc tế, giấy trắng mực đen rõ ràng, làm thế nào muốn thay đổi là thay đổi được?
Sau khi đã chứng minh và bảo đảm nhiều như vậy về sự không thay đổi, Đặng cảm thấy không vừa ý. Tại sao lại chỉ buộc một phía đại lục chịu trách nhiệm về sự không thay đổi? Vì vậy, ông nói lật lại: không nên chỉ nói có một bề là sợ thay đổi. Thay đổi cũng không phải là việc xấu, có cái thay đổi là tốt. Vấn đề là thay đổi cái gì. Chúng ta không thể nói dưới chế độ tư bản ở Hương Cảng, mọi cái đều hoàn mỹ? Đưa Hương Cảng tới sự tốt đẹp hơn, chẳng phải cũng là thay đổi sao? Thay đổi như vậy, có cái gì là không tốt? Người Hương Cảng cần phải hoan nghênh mới đúng. Đặng nói với các nhân sĩ Hương Cảng: “Nếu có người nói mọi thứ đều không thay đổi thì các ông không nên tin” Vì vậy, “luật cơ bản không nên chi tiết quá”. Cần chừa chỗ cho những thay đổi khi cần. Còn cần thay đổi đến mức nào, có thể suy ra từ vấn đề thuê mướn người. Đặng đã nói, vấn đề thuê mướn người “vẫn cần phải can thiệp, vì chúng ta không để xảy ra sự phân hóa hai cực quá lớn. Nhưng vào lúc nào, dùng phương pháp nào, cần phải nghiên cứu, can thiệp cũng cần có sự kiềm chế”.
Xem ra, điều mà người Hương Cảng cần quan tâm không phải là lúc nào đại lục có thể thay đổi chính sách với Hương Cảng, mà là người Hương Cảng nên tìm hiểu giới hạn của chính sách đó như thế nào, học lấy phương thức phương pháp cư xử với Trung ương. Nếu ở Hương Cảng xảy ra sự kiện mà Trung ương không muốn có, thí dụ có người muốn biến Hương Cảng thành một căn cứ chống đại lục thì cần ngăn chặn, không thể để xảy ra chuyện vượt giới hạn.

6.9. Cư dân Hương Cảng bắt đầu phép đếm ngược để tính thời gian trao trả Hương Cảng . Lúc đó, sự giao nhận thuận lợi mà Đặng hy vọng khẳng định sẽ được thực hiện
Theo Tuyên bố chung Trung-Anh, ngày 1.7.1997, nói cụ thể hơn là vào 0 giờ, 0 phút, 0 giây, trên bầu trời Hương Cảng sẽ có sự thay đổi lớn: Lá cờ Anh được hạ xuống, lá cờ đỏ 5 sao được kéo lên, toàn quyền Hương Cảng do Anh bổ nhiệm sẽ trao quả ấn quyền lực cho người đứng đầu khu hành chính đặc biệt do chính phủ Trung quốc ủy nhiệm.
Ngày hôm đó, vào giờ phút đó, quang cảnh trên đường Nữ hoàng của Hương Cảng và trên Quảng trường Thiên An Môn Bác Kinh sẽ ra sao? Nhân dân Trung quốc vừa rửa được mối nhục táng quyền nhục quốc hơn 100 năm vừa chúc mừng sinh nhật lần thứ 76 Đảng Cộng sản Trung quốc. Lúc đó, Đặng Tiểu Bình vừa 94 tuổi còn kém 17 ngày. Ông rất mong sống tới ngày đó, tới Hương Cảng nhìn tận mắt quang cảnh đó, dù rằng có ngồi trên xe đẩy đi tới Hương Cảng để đứng trên mảnh đất đó, cùng nhân dân chung hưởng thắng lợi, tự hào vào giờ phút lá cờ đỏ 5 sao lần đầu tiên tung bay trên bầu trời Hương Cảng. Nhưng trước đó 13 năm, Đặng đã dự tính tới một mặt khác của vấn đề : Hạ cờ Anh xuống, thay bằng cờ đỏ 5 sao là việc dễ dàng nhưng “không thể dự kiến được tới ngày 30.6.1997, chỉ trong một đêm, sẽ thay hết những người làm việc”.
Điều đó có thể giải thích, ba điều ước về Hương Cảng là những điều ước bất bình đẳng, Trung quốc không thừa nhận tính hợp pháp của chúng, chúng không có giá trị ước thú gì với Trung quốc, Trung quốc có thể thu hồi Hương Cảng bất cứ lúc nào. Trước kia chưa thu hồi là vì điều kiện chưa thành thục, đầu thập kỷ 80, điều kiện đã thành thục, tại sao lại phải đợi tới năm 1997? Ngoài ra, lúc nào thu hồi thì báo cho Anh lúc đó là được, nước Anh không có lý do thoái thác việc trao trả lãnh thổ Trung quốc, tại sao phải tốn công đàm phán với Anh?
Trước khi chính thức thu hồi Hương Cảng, Trung quốc cố ý để ra một thời gian, nhiều lần bàn bạc nghiêm túc với Anh qua con đường ngoại giao. Làm như vậy, không phải để làm ra vẻ lịch sự, cũng không phải sợ người Anh không chịu giao, mà là xuất phát từ sự suy nghĩ sâu xa này: Tranh thủ sự phối hợp của Anh, thực hiện sự quá độ bình ổn, trao nhận thuận lợi để đạt tới mục đích vừa thu hồi được chủ quyền ở Hương Cảng, vừa không làm ảnh hưởng tới phồn vinh và ổn định ở đây.
Nhưng sự tình bao giờ cũng có hai mặt: có cái lợi, tất có cái hại. Nếu thu hồi trong chốc lát (hoặc đầu thập kỷ 80 khi mới tiếp xúc với Anh liền tuyên bố lập tức thu hồi, hoặc chưa đề cập tới, đợi tới năm 1997 hay một thời gian thích hợp nào đó là đột nhiên tuyên bố thu hồi) nhanh chóng dứt khoát, làm cho Anh trở tay không kịp, không có chỗ cò kè mặc cả, bớt được tranh cãi. Nhưng thu được về như vậy rồi sẽ ra sao? Khẳng định sẽ dẫn tới hỗn loạn thậm chí động loạn. Người Hương Cảng, pháp chế Hương Cảng sẽ không chịu nổi tiếng sét giữa trời quang. Đại lục dù có biện pháp thu xếp tình hình, vẫn rất có khả năng là sau khi thu hồi chủ quyền, chỉ nhận được một cảng tiêu điều chứa đầy hậu hoạn, một cảng trống rỗng, một cảng chết.
Cứ từ từ đàm phán cũng có tính hai mặt. Để ra một thời gian cho người dân Hương Cảng, tình hình Hương Cảng dần dần thích ứng, có lợi cho việc tiếp quản sau này, nhưng đồng thời cũng tạo cơ hội cho nước Anh tiếp tục kiếm chác. Nước Anh biết lúc nào mình sẽ phải rời Hương Cảng, và trước khi rời khỏi, họ vẫn có quyền chi phối địa phương này, thì tất sẽ nắm lấy cơ hội để vơ vét, thậm chí có thể tạo ra đủ chuyện phiền phức.
Đặng không lo lắng sự việc sau năm 1997, chỉ lo lắng thời kỳ quá độ trước năm 1997. Sau 1997 có thay đổi không, thay đổi thế nào là việc của Trung quốc, Trung quốc sẽ tự thu xếp. Còn trước 1997, quyền quản trị vẫn còn trong tay người ta, sẽ không tránh khỏi xảy ra một số sự việc không hợp ý mình. Những điều đáng quan tâm nhất là:
1) Tư bản Anh dẫn đầu rút vốn đi, làm cho Hương Cảng trở thành một cảng rỗng.
2. Dùng hết quỹ dự trữ, làm cho đồng tiền Hương Cảng với tính cách là một đồng tiền chuyển đổi được, sẽ bị lung lay.
3. Nguồn thu hiện tại, chủ yếu là tiền cho thuê đất bị cạn kiệt, tạo nên khó khăn tài chính cho chính quyền đặc khu sau này.
4. Chính quyền Anh ở Hương Cảng lập ra một đội ngũ khác trong thời kỳ quá độ, tạo nên những khó khăn không lường trước được cho việc bàn giao sau này.
Rõ ràng, trong thời kỳ quá độ nếu xảy ra những tình hình đó, thì không những không có cách gì giữ được phồn vinh, mà còn dẫn tới rung động, hỗn loạn, hoặc là loạn khiến cho không tiếp thu được, hoặc là loạn sau khi tiếp thu, cuối cùng cũng dẹp được loạn nhưng không có phồn vinh nữa.
Tiếp xúc, đàm phán là để tranh thủ chính phủ Anh tích cực hợp tác, bao gồm kiềm chế các nhà doanh nghiệp và thương gia, không để họ làm những việc gây tổn hại đến phồn vinh và ổn định sau này cho Hương Cảng. Nhưng nước Anh dựa vào cái gì để hợp tác? Phải chăng để tỏ lòng cảm tạ người chủ đã để họ chiếm dụng hơn 100 năm?
Hương Cảng trước kia chỉ là hòn đảo nhỏ vắng vẻ không hề được nói tới trong sử sách. Mà ngày nay nhà cửa nguy nga, tấc đất ngàn vàng, trở thành trung tâm tiền tệ và thương mại đứng hàng thứ ba thế giới, được gọi là “hòn ngọc phương Đông”. Đặng yêu cầu nước Anh trao trả cho Trung quốc vào đúng kỳ hạn “hòn ngọc”đó nguyên vẹn. Từ nay, Anh có thể sử dụng thêm một thời gian nữa, nhưng không được gây tổn hại cho nó, không được để có một vết xước, còn phải ra sức giúp đỡ dể Trung quốc học được cách quản lý nó sau này.
Nước Anh có thể nói: cái mà tôi thuê trước kia chỉ là một đảo hoang, mà ngày nay là một “hòn ngọc”? Đòi Anh quốc trao trả lại, hoặc nói cách khác là vứt bỏ, thì sao có thể tự nguyện được? Nếu nói có ngày họ không thể không rời bỏ, họ cũng không thể chịu trách nhiệm với cái sắp phải từ bỏ. Dù họ không cố ý gây phiền phức, họ cũng phải nghĩ cách làm thế nào để trong mấy năm còn lại vơ vét được thêm. Cho nên đòi nước Anh làm theo ý Trung quốc trong thời kỳ quá độ, để tạo điều kiện cho Trung quốc tiếp quản trong tương lai từ tay họ, là một việc rất khó khăn. Cái khó của Đặng là, vì Trung quốc thiếu kinh nghiệm, cần có một quá trình thích ứng để tìm hiểu người dân Hương Cảng và tình hình Hương Cảng, không thể thu hồi ngay trong chốc lát, mà để nước Anh quản lý thêm một thời gian, nhưng lại không thể để nước Anh làm rối loạn trong thời gian đó, nếu không sau này tiếp quản sẽ càng thêm khó khăn. Do đó nảy ra vấn đề: Trong thời gian Trung quốc chưa tiếp quản cũng không thể phó mặc không quản. Nếu quỹ dự trữ dùng hết, đồng tiền Hương Cảng lại mất giá, thì sẽ xảy ra động loạn. Trong thời kỳ quá độ, chúng tôi không thể không hỏi đến quỹ dự trữ được sao?
Còn vấn đề đất đai nữa, nếu đem bán hết đất dùng vào chi tiêu hành chính, trút hậu quả lên đầu chính quyền Hương Cảng sau này, thì không can dự sao dược? Làm thế nào để thực hiện được việc chưa tiếp quản mà đã quản lý được? Biện pháp tốt nhất là hai chính phủ đàm phán về mọi công việc trong thời kỳ quá độ.
Đàm phán, nước Anh chưa hẳn đã nghe theo Trung quốc cả. Nhưng qua đàm phán, có thể kéo chính phủ Anh và chính quyền Anh ở Hương Cảng vào trách nhiệm đó. Không đàm phán, coi như buông xuôi không quản, để mặc cho rối loạn, không xoay trở được. Đàm phán, không sợ họ không hợp tác, ít nhất họ cũng không thể đi tới chỗ đoạn giao với Trung quốc. Đặng từng nói với Thủ tướng Anh, ông chỉ lo trong thời gian quá độ xuất hiện những hỗn loạn dược cố tình tạo ra. “Trong đó không chỉ có người nước ngoài, mà có cả người Trung quốc nữa, nhưng chủ yếu là người Anh. Tạo ra hỗn loạn thì rất dễ. Chúng tôi tiến hành tiếp xúc, đàm phán chính là để giải quyết vấn đề đó”
Đặng không nói về chủ quyền, cũng không lo sự việc sau năm 1997, chỉ nhấn mạnh trọng điểm vào thời kỳ quá độ, lý do là như vậy. Làm sao để người Anh, trên một mức nhất định, làm theo ý kiến của Trung quốc, để tạo cơ sở cho việc sau này Trung quốc chính thức tiếp quản Hương Cảng được thuận lợi.
Cuộc đàm phán việc xếp sắp trong thời kỳ quá độ và việc chuyển giao chính quyền Hương Cảng bắt đầu từ tháng 4.1984. Trong đó, thắng lợi lớn nhất là thành lập tiểu tổ liên lạc Trung-Anh.
Bắt đầu, Anh không đồng ý: Trước năm 1997, làm thế nào ở Hương Cảng là việc của Anh, lập ra một tiểu tổ liên lạc Trung-Anh có khác gì hai nước “cùng quản lý” Hương Cảng?
Đặng nói lý lẽ với bộ trưởng ngoại giao Anh: Trong thời kỳ quá độ, có rất nhiều việc phải làm, nếu không có một cơ cấu làm việc thì sao được? Phía Anh có thể cho rằng lập ra cơ cấu làm việc đó thì phía Trung quốc sẽ có lợi, Đặng tỏ ý: Tiểu tổ đó có thể đặt tại Hương Cảng và luân lưu họp ở Hương Cảng, Luân Đôn, Bắc Kinh. Như vậy có thể nói là cân bằng? Phía Anh đành nhận đàm phán về việc đó.
Đàm phán trong ba tháng, phía Anh vẫn không thông, cho rằng Trung quốc đòi lập trước tiểu tổ liên hợp tức là đòi can dự trước vào công việc của Hương Cảng. Đến tháng 7, cách thời gian biểu do Đặng quy định 2 tháng, bộ trưởng ngoại giao Anh lại thăm Trung quốc, phía Trung quốc đưa ra một biện pháp linh hoạt: nếu Anh đồng ý lập tiểu tổ liên hợp và lấy Hương Cảng làm trụ sở thường trú, thì có thể thương lượng về thời gian tổ đó vào Hương Cảng và thời gian kéo dài sự tồn tại của nó sau năm 1997. Kết quả thương lượng là: Tiểu tổ liên hợp tiến vào Hương Cảng ngày 1.7.1988, đến 1-1-2000 mới rút đi, như vậy, là “cùng quản lý” một thời gian, chắc là phía Anh phải mãn ý?
Sứ mạng của tiểu tổ liên hợp Trung-Anh là điều hành những biện pháp cụ thể trong hiệp nghị Trung-Anh, bàn bạc và xem xét về những “biện pháp để tiến hành thuận lợi công việc trong thời kỳ quá độ trước năm 1997”. Có được cơ cấu này, làm những gì trong thời kỳ quá độ ở Hương Cảng không chỉ do phía Anh quyết định nữa. Trung quốc sẽ có cơ hội tham dự, lúc đó mọi hành động của Anh đều đặt dưới sự giám sát đôn đốc của Trung quốc. Những việc Trung quốc không đồng ý thì Anh không làm được.
Tháng 9.1984, tuyên bố chung Trung-Anh được ký kết, việc quá độ đã được pháp luật bảo đảm. Việc đó xảy ra trước lễ quốc khánh mấy ngày. Sau quốc khánh ba ngày Đặng hội kiến đoàn đại biểu Hương Cảng về dự lễ quốc khánh, đề cập tới việc tham dự rộng rãi hơn: “Không thể dự kiến rằng, đến 30.6.1997, chỉ trong một đêm có thể thay thế hết người làm việc. Nếu làm như vậy, những người mới không quen thuộc công việc, nếu không để xảy ra động loạn thì cũng là hỗn loạn. Trong khoảng 6, 7 năm ở giai đoạn sau của thời kỳ quá độ, các ngành các giới nên giới thiệu một số người trẻ tuổi có năng lực tham gia vào việc quản lý của chính quyền Hương Cảng, thậm chí vào cả lĩnh vực tài chính tiền tệ. Không thể không tham dự, vì không tham dự thì không nắm vững tình hình. Trong quá trình tham dự, sẽ có dịp phát hiện, chọn lựa nhân tài, chuẩn bị cho việc quản lý Hương Cảng sau năm 1997” Đặng còn nói “điều kiện của người tham dự chỉ có một điều “đó là người yêu nước”. Công việc Hương Cảng không phải là không có người quản lý. Nhưng trong những người quản lý không phải đều là người yêu nước cả. Để những người yêu nước tham dự vào, tức là dần dần chuyển quyền quản lý Hương Cảng từ tay những người thân Luân Đôn sang tay những người thân Bắc Kinh. Đương nhiên, việc tham dự đó không phải do Bắc Kinh trực tiếp đứng ra, mà là người Hương Cảng tham dự - “chính phủ trung ương ủng hộ việc người Hương Cảng tham dự”.
Tuyên bố chung Trung-Anh và tiểu tổ liên hợp Trung- Alth đã kiềm chế phía Anh, khiến họ không thể tự tiện gây lộn xộn. Đồng thời, mặt trận thống nhất yêu nước do đồng bào Hương Cảng là đối tượng được tăng cường. Trong danh sách quốc hội và ủy ban hiệp thương chính trị xuất hiện một số đại biểu Hương Cảng, áo Môn. Tháng 5.1984, khi các đại biểu đến họp, Bắc Kinh lần đầu tiên mời các nhà báo Hương Cảng đến Bắc Kinh theo dõi hai hội nghị. Đặng trong khi rất bận rộn, cũng dành thời gian hội kiến với họ, nói chuyện thân thiết và chụp ảnh kỷ niệm. Ngày 1-10 năm đó, một đoàn đại biểu đông đảo đồng bào Hương Cảng về Bắc Kinh dự lễ quốc khánh, gồm đủ các ngành, các giới, các quan điểm. Đặng tiếp riêng họ và giải thích về chính sách của Trung ương đối với Hương Cảng, nêu lên hy vọng tha thiết, đề nghị họ sau khi trở về Hương Cảng sẽ tuyên truyền giải thích cho năm triệu đồng bào, mong đồng bào năng về thăm đất nước. Sau đó, nhân sĩ Hương Cảng thường về thăm Bắc Kinh, Bắc Kinh cho họ đi khắp nơi trong toàn quốc để khơi dậy nhiệt tình yêu nước. Người Hương Cảng đầu tư và quyên góp ở đại lục đều được ủng hộ, khuyến khích và ca ngợi là hành dộng yêu nước. Qua những hoạt động đó, Bắc Kinh đã mở rộng có hiệu quả ảnh hưởng của mình trong cư dân Hương Cảng, dân tình Hương Cảng ngả nhiều về phía Bắc Kinh, tạo ra cơ sở quần chúng cho việc quá dộ được yên ổn.
Năm 1984, thời kỳ quá dộ bắt đầu diễn ra một cách bình ổn theo thiết kế của ông Đặng. Năm 1986, thảo ra luật cơ bản cho khu hành chính đặc biệt Hương Cảng để quy hoạch tương lai cho Hương Cảng. Ngày 13.4.1987, tuyên bố chung Trung quốc - Bồ Đào Nha về vấn đề áo Môn được ký. Đến đây, ba đối tượng thống nhất mà Đặng cần hoàn thành là Hương Cảng - áo Môn - Đài Loan đã giải quyết gần trọn vẹn được hai. Xem ra chính sách “một quốc gia hai chế độ” có thể thực hiện được. Ba ngày sau, Đặng tiếp kiến ủy ban khởi thảo luật cơ bản, phát biểu một bài nói rất quan trọng về tương lai Hương Cảng. Bài nói đó dành riêng nói về hai vấn đề trong luật cơ bản, thái độ hết sức rõ ràng.
Vấn đề thứ nhất đề cập tới chế dộ chính trị tương lai của Hương Cảng. Theo dự kiến của chính sách “một quốc gia hai chế độ”, tương lai, Hương Cảng sẽ thực hiện chủ nghĩa tư bản, khác với đại lục. Điểm này là khẳng định. Nhưng Đặng nhấn mạnh, chế độ tương lai của Hương Cảng không thể rập theo y như phương Tây, như kiểu thực hiện tam quyền phân lập, chế độ nghị viện... Đặng đặc biệt nói tới việc không thể áp dụng chế độ phổ thông đầu phiếu, vì nó không bảo đảm được những người quản lý Hương Cảng tương lai là những người yêu nước ở Hương Cảng.
Vấn đề thứ hai đề cập tới quan hệ giữa chính phủ trung ương với chính quyền Hương Cảng tương lai, Đặng nhấn mạnh tới sự cần thiết có sự can dự của Trung ương: “Nếu biến Hương Cảng thành một căn cứ chống lại đại lục với chiêu bài dân chủ, thì làm thế nào? Như vậy, không thể không can dự, trước hết là cơ quan hành chính Hương Cảng phải can dự, chứ chưa cần huy động quân đồn trú. Chỉ khi xảy ra động loạn, đại động loạn, mới huy động quân đồn trú. Nhưng vẫn là phải can dự”
Hai quan điểm đó đã hoạch định phạm vi hoạt động tương lai của Hương Cảng về mặt chính trị. Liên hệ tới việc xử lý của chính phủ hồi đầu năm đối với phong trào học sinh và hành động chống tự do hóa càng ngày càng rõ ràng, các nhân sĩ bên ngoài thấy được cái dân chủ theo quan niệm của họ khác rất nhiều với cái dân chủ mà Đảng Cộng sản có thể cho phép. Cuộc động loạn năm 1989 và biện pháp xử lý cuộc động loạn đó càng làm cho nhận thức đó thêm sâu sắc. Nhưng đến tháng 4.1990, luật cơ bản về Hương Cảng đã được cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước thông qua. Đại cục đã định rồi, những người có ý khác cũng phải bỏ ý định của họ.
Song, khi thời kỳ quá độ chưa kết thúc, Hương Cảng vẫn chưa hoàn toàn nằm trong tay Bắc Kinh, nếu có mâu thuẫn thì vẫn dễ bùng nổ. Tháng 10.1992, toàn quyền mới của Hương Cảng đề ra “phương án cải cách chính trị” khiến thời kỳ quá độ bình ổn trong 7, 8 năm lại gặp phải sóng gió.
Viên toàn quyền mới toan tiến hành một cuộc cải cách lớn về thể chế chính trị trước năm 1997, mà phương hướng cải cách hoàn toàn đi ngược lại với thiết kế của Đặng về tương lai Hương Cảng.
Đặng nói Hương Cảng sau năm 1997 cũng không thể thực hiện tam quyền phân lập theo kiểu phương Tây. Nhưng phương án cải cách lại muốn mở rộng quyền lực của cục lập pháp Hương Cảng, biến chính thể Hương Cảng từ chỗ hành chính là chủ đạo sang lập pháp là chủ đạo. Chính thể hành chính chủ đạo có lợi cho việc khống chế của Trung ương đối với chính quyền địa phương, biến đổi sang lập pháp là chủ đạo có nghĩa là cơ quan hành chính sẽ bị cơ quan lập pháp khống chế. Như vậy, Hương Cảng sẽ rơi vào tình trạng tranh luận liên miên về chính trị, cơ quan hành chính sẽ rất khó thi hành quyền lực, quyết sách hành chính sẽ mất tính ổn định, thế lực chính trị nước ngoài sẽ dễ nhúng tay vào công việc của Hương Cảng, mà chính phủ trung ương, ngược lại sẽ rất khó khống chế tình hình Hương Cảng. Mỗi khi Hương Cảng có việc, Trung ương không có cách gì thông qua thủ đoạn hành chính để ra lệnh cho chính quyền Hương Cảng can dự, Bắc Kinh chỉ có hai cách lựa chọn, một là bỏ qua, một là can thiệp quân sự.
Đặng nói: “Chúng tôi nói, những người quản lý Hương Cảng phải là những người yêu nước ở Hương Cảng, phổ thông đầu phiếu có nhất định chọn được những người như thế không?” Phương án cải cách của toàn quyền mới đòi mở rộng phạm vi bầu cử trực tiếp, như việc bầu cử cục lập pháp trước kia là do bầu cử gián tiếp, nay đổi thành bầu cử trực tiếp theo từng ngành, việc cử Cục thị chính cũng chuyển từ chỉ định sang bầu cử trực tiếp. Làm như vậy là để tranh chấp người với Bắc Kinh. Nếu đúng như vậy, thì không thể bảo đảm sau năm 1997 sẽ có những người yêu nước quản trị Hương Cảng.
Ngay từ 8 năm trước, Đặng đã nhắc nhở bộ trưởng ngoại giao Anh: “Hy vọng chính quyền Anh ở Hương Cảng không lập nên một ê kíp của mình trong thời kỳ quá độ, để gán lên đầu chính quyền khu hành chính đặc biệt tương lai”. Toàn quyền Anh đúng là muốn lập một ê kíp riêng. Ông ta muốn bàu trực tiếp một Cục lập pháp vào năm 1995 và sau đó sẽ “bàn giao lại”, để biến thành cục lập pháp sau năm 1997 gồm người của ê kíp mình. Cộng thêm thể chế lập pháp là chủ đạo, thì ai có thể thay đổi được?
Sự thay đổi như vậy có khác gì đào một hố sâu trên con đường quá độ bằng phẳng. Nếu thật như vậy, thì mưu hoạch quá độ bình ổn của Đặng trong mấy năm coi như vô ích, không bằng giành lấy Hương Cảng trước mấy năm. Cứ như vậy “quá độ” đến năm 1997, không nói đến việc bàn giao không thuận lợi, mà còn vấp phải hai khó khăn: Nếu ra tay thay đổi lại thì sẽ sinh ra chấn động và bị chỉ trích là “không cho phép dân chừ”. Nếu không thay đổi, thì coi như nước Anh chỉ rút về hình thức, Hương Cảng rất có thể biến thành một căn cứ chống đại lục với chiêu bài dân chủ, và một khi như vậy thì ngoài việc sử dụng vũ lực, không còn biện pháp nào khác.
Vậy làm thế nào? Biện pháp duy nhất là tiến công mạnh mẽ về ngoại giao, không ngừng chỉ trích việc làm đó của Anh là vi phạm tinh thần tuyên bố chung Trung-Anh, vi phạm nguyên tắc gắn bó với luật cơ bản, vi phạm việc hiểu biết và hiệp nghị đã đạt được giữa Trung quốc và Anh, cố ý gây trở ngại cho việc quá độ bình ổn và bàn giao thuận lợi, hòng quyết định công việc của Hương Cảng sau năm 1997, cài thế lực thân Anh phản Hoa vào, phá rối việc Trung quốc thực hiện chủ quyền Hương Cảng. Dù nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng uy hiếp dòi “trưng cầu dân ý” đòi giao cho Cục lập pháp thảo luận thông qua, phía Trung quốc vẫn không đồng ý, không chấp nhận, không nhượng bộ mà kiên quyết chống lại. Hai bên giao thiệp suốt nửa năm trời không đạt tới hiệp nghị nào, lại thêm, năm 1994 Bắc Kinh thất bại trong việc tranh cử đăng cai ôlimpích quốc tế, quan hệ Trung-Anh đã xuống thấp tới điểm không.
Cuối cùng, phía Anh vẫn phải nhượng bộ, vì họ không muốn quan hệ giữa hai nước tan vỡ, làm mất cơ hội làm ăn trên thị trường Trung quốc. Tháng 10.1994, Trung-Anh lại đạt được hiệp nghị. Cuộc đọ sức cuối cùng trong thời kỳ quá độ lại kết thúc bằng thắng lợi của Trung quốc. Nay xem ra thì không còn trở ngại nào nữa. Nước Anh gần đây đã cho Trung quốc vay 1,5 tỷ đô la để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh và để kết thúc quá khứ. Cư dân Hương Cảng bắt đầu dùng cách đếm ngược để tính những ngày còn lại tới 1997, ngày trở về với Trung quốc.
Lúc đó, sự tiếp quản thuận lợi mà Đặng mong mỏi nhất định sẽ được thực hiện.

6.10. “Một quốc gia hai chế độ” vốn được thiết kế để giải quyết vấn đề Đài Loan, trước hết vận dụng cho Hương Cảng, có thể cung cấp kinh nghiệm để giải quyết vấn đề phức tạp hơn là Đài Loan
Lục Khanh cho biết, ngày 15.6.1982, tại Đại hội dường nhân dân, Đặng Tiểu Bình tiếp kiến 12 nhân sĩ phái tả Hương Cảng, có một vị phát biểu khẳng khái: “Hiện nay, nói về thu hồi Hương Cảng, vấn đề lớn nhất là lòng tin. Nếu năm 1957, đề xuất việc thu hồi thì tin rằng tuyệt đại đa số người Hương Cảng sẽ tán thành, nhưng hiện nay thì khác. Trong 25 năm từ 1957 đến nay, chúng ta đã đi rất nhiều đường vòng, làm rất nhiều việc sai lầm, gây đổ vỡ lớn cho Trung quốc. Do đó, nhân dân mất lòng tin. Chúng ta không thể trách người Hương Cảng, mà cần tự trách mình. Ngày nay, điều quan trọng nhất là tranh thủ nhân tâm, mọi điều khác đều là thứ yếu”. Theo nói lại, nghe những lời đó, Đặng Tiểu Bình không những không cho là trái tai, mà còn biểu lộ sự tán đồng.
Vấn đề Hương Cảng cần tranh thủ nhân tâm, vấn đề Đài Loan lại càng cần như vậy. Người Hương Cảng bị tổn hại chỉ trong 25 năm, còn những người đứng đầu Đài Loan và đại lục thì đã tích oán trong nửa thế kỷ. Hai đảng Quốc-Cộng đã có hai lần hợp tác, kết quả ra sao, đã có ấn tượng rất sâu. Những học giả người Mỹ gốc Hoa nhận xét rằng: căn cứ kinh nghiệm đàm phán trước kia với Đảng Cộng sản khiến cộng sản càng ngày càng mạnh hơn, Quốc Dân đảng đã có tâm lý chống đối lại việc đàm phán về thống nhất. Nếu Trung Cộng hy vọng thông qua đàm phán để thống nhất đất nước, thì họ phải thành thực chứng minh và tránh ý đồ đồng hóa Đài Loan và phá hoại Quốc Dân đảng. Trừ phi Trung Cộng có thể làm tiêu tan tâm lý nghi ngờ của Quốc dân đảng, chứ bình thường thì Quốc dân đảng sẽ không thể đàm phán với Đảng Cộng sản và ký bản hiệp nghị mà họ cho rằng sẽ đưa họ tới chỗ chết. Chứng minh lòng thành thực cần có sự thực. Lịch sử giao dịch với Đảng Cộng sản, khiến cho Quốc dân đảng đến nay còn lo ngại trong lòng. Vậy ngày nay, trước khi nói chuyện với Đài Loan, dùng biện pháp gì để chứng minh là sau này sẽ không nuốt sống họ? Việc giải quyết vấn đề Hương Cảng như vậy sẽ có giá trị chiến lược rất lớn đối với việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Vấn đề Hương Cảng được giải quyết tốt, có thể có tác dụng mẫu mực đối với Đài Loan: Các ông xem, mô thức Hương Cảng thành công như vậy, thì Đài Loan các ông tại sao lại không chấp nhận được mô thức đó? Đặng hiểu rất rõ lý lẽ đó, nên ông nói: “Có thể thực sự thực hiện được thuận lợi sự thống nhất giữa đại lục và Đài Loan không, một là nhìn vào kết quả thực hiện một quốc gia hai chế độ ở Hương Cảng, hai là xem nền kinh tế của chúng ta có thực sự phát triển không”
“Một quốc gia hai chế độ” vốn được thiết kế cho Đài Loan, trước hết áp dụng cho Hương Cảng, thu được kết quả, nhưng cũng không loại trừ là gặp may, nên cần suy nghĩ về vấn đề giản đơn này để tìm ra kinh nghiệm giải quyết vấn đề phức tạp hơn là Đài Loan.
Thời cơ giải quyết vấn đề Hương Cảng ít nhất đã thành thục vào đầu thập kỷ 80. Đặng không vội thu hồi, mà đợi 2 năm mới tuyên bố, điều đó là dễ hiểu, là vì để giành được sự hợp tác của phía Anh, để người Hương Cảng có quá trình thích ứng, để có thể bình ổn một chút. Tại sao phải đợi mười mấy năm, tới mãi năm 1997? Đó không phải là duyên cớ chưa đến kỳ hạn, vì ba bản điều ước đã không còn hiệu lực thì không có vấn đề kỳ hạn. Thời hạn cho thuê 99 năm chỉ nói lên nếu thu hồi sau năm 1997 là không thỏa đáng, nhưng không nói lên rằng nhất định phải đợi tới năm 1997. Nguyên nhân thực sự là như Đặng nói: “Giải quyết vấn đề Đài Loan cần có thời gian”.
Một giáo sư ở Niuoóc nói: cảm giác cá nhân của tôi, trong con mắt Trung Cộng, trước khi giải quyết vấn đề Đài Loan, vấn đề Hương Cảng không những không vội giải quyết, mà còn cố ý để kéo dài ra. Tại sao lại như vậy? Chính vì để làm một mô thức công khai, hấp dẫn Đài Loan trong tương lai. Vấn đề Hương Cảng vốn không cần đàm phán nhiều, vì đó là lãnh thổ Trung quốc, Trung quốc lúc nào cũng có quyền thu hồi. Lúc nào sẽ quyết định thu hồi, nhiều nhất là thông tri cho Anh một câu là đủ lịch sự rồi. Dù giống như ấn Độ thu hồi vùng Goá, căn bản không thông tri cho Bồ Đào Nha, trực tiếp đưa quân đội tới, thì trên thế giới cũng không ai có thể có ý kiến gì. Đặng thì không vội không chậm, cứ đường hoàng lịch sự, thận trọng tiếp xúc, đàm phán với Anh. Đàm phán hết vòng này đến vòng khác, sợ đàm phán thất bại, cần nhân nhượng thì nhân nhượng. Trong đó, cố nhiên có sự tính toán tranh thủ sự hợp tác của phía Anh để việc thu hồi được yên ổn, nhưng quan trọng hơn là Đặng ý thức được rằng: “Giải quyết vấn đề Hương Cảng sẽ trực tiếp có ảnh hưởng tới vấn đề Đài Loan”
Hai bên Trung-Anh đã trải qua một loạt cuộc tiếp xúc đàm phán, ký kết, có thể nói lên một cách có hệ thống với Đài Loan rằng: Ngày nay Đảng Cộng sản giải quyết vấn đề này với sự tuân thủ quy tắc và thấu tình đạt lý? Đó không phải là đối với nước ngoài, còn đối với người mình, đồng bào Đài Loan thì càng không cần phải nói. Song Đài Loan và Hương Cảng có sự khác nhau.
Hương Cảng là thuộc địa của Anh, những hiệp ước giữa Trung quốc và Anh có giá trị quốc tế, không bên nào có thể vi phạm. Đài Loan và đại lục, hai đảng Quốc-Cộng chỉ là chính trị nội bộ của một nước, vấn đề nội chính cần tuân thủ hiệp nghị ở Trung quốc là tương đối khó khăn. Trong lịch sử, giữa Quốc-Cộng đã có bao nhiêu lần hội đàm? Cuối cùng đều là do thực lực giải quyết vấn đề, không có bên nào chịu vì văn bản hiệp nghị mà vứt bỏ quyền nuốt sống đối phương. Như vậy xem ra, những thoả hiệp đạt được giữa Trung quốc và Anh về việc giải quyết vấn đề Hương Cảng không nhất định có thể thuyết phục được Đài Loan. Thế thì, dùng biện pháp nào để cho Đài Loan tin tưởng vào Đảng Cộng sản, với tư cách là đảng cầm quyền, có thể giữ lòng tin trong việc giải quyết vấn đề nội bộ cũng như trong vấn đề quốc tế? Tuyên bố, nói chuyện, thề thốt v. v... đều không đủ để giải quyết vấn đề, chỉ có thể tiến hành lập pháp. Mọi người không đủ lòng tin vì chính trị Trung quốc không được pháp chế hoá, luôn luôn là người chết thì chính sách chết theo. Nếu thực hiện lập pháp, sẽ thay đổi được hình tượng nhân trị. Vì vậy, thiết lập khu hành chính dặc biệt Hương Cảng- càng phải đặc biệt hơn các khu tự trị dân tộc khác, trước hết phải lập pháp trên hiến pháp, sau đó tập hợp chuyên gia, cố vấn bỏ ra năm năm trời thận trọng soạn ra bộ luật cơ bản cho Hương Cảng. Đặng rất coi trọng bộ luật cơ bản này. Ông nói: “Chủ trương “một quốc gia hai chế độ” của chúng ta có thực sự thành công được không, cần thể hiện trên bộ luật cơ bản về khu hành chính đặc biệt Hương Cảng. Bộ luật cơ bản này còn làm mẫu mực cho áo Môn, Đài Loan” Luật cơ bản về Hương Cảng không phải dừng để gò bó người Hương Cảng, mà để người Hương Cảng yên tâm, và tiến lên để Đài Loan có thể tin tưởng: “Một quốc gia hai chế độ” và quy định bao nhiêu năm không thay đổi... không phải là lời nói tùy tiện hay một thủ đoạn, mà là để chấp hành thực sự, mong phía Đài Loan xóa bỏ được tâm lý thiếu tin tưởng.

6.11. Mỗi khi nhắc tới “nhà đương cục” Đài Loan, bao giờ Đặng cũng nói thêm mấy chữ “và nhân sĩ các giới”
Đầu thập kỷ 80 và trước đó, chính sách của đại lục với Đài Loan đều nhằm vào “nhà đương cục Đài Loan”, lấy Quốc dân đảng đang cầm quyền làm đối thủ. Điều đó khiến một số lực lượng chính trị khác ở Đài Loan và một số người Hoa ở nước ngoài có ý kiến. Những ý kiến đó được Đặng Tiểu Bình coi trọng. Do đó, năm 1984, khi thủ tướng chính phủ đọc bài nói trong buổi chiêu đãi quốc khánh, mỗi khi nhắc tới “nhà đương cục” Đài Loan, thì Đặng ngồi phía sau đều thêm vào mấy chữ “và nhân sĩ các giới”.
Đây không phải là chuyện từ ngữ nói chung, mà có quan hệ tới vấn đề lớn của sách lược mặt trận thống nhất. “Ba mặt giao lưu giữa hai bờ eo biển” là sự tiếp cận nhau về kinh tế, văn hóa, chính trị. Liên lạc với “nhân sĩ các giới” ngoài các nhà đương cục là mở rộng phạm vi hoạt động trong lĩnh vực chính trị.
Nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan có lập trường vừa chống cộng vừa phản đối Đài Loan độc lập. Về mặt phản đối Đài Loan độc lập, Quốc-Cộng có tiếng nói chung, nhưng lập trường chống cộng lại gây trở ngại cho hai bên. Do trong lịch sử, hai lần hợp tác, Quốc dân đảng đều cho là mình bị thua thiệt, bị lừa, bây giờ lại đề xuất hợp tác lần thứ ba, chỉ lấy Quốc dân đảng làm đối thủ đàm phán, thì họ rất khó tiếp thu. Nếu họ khăng khăng không chịu ngồi vào bàn đàm phán, thì làm thế nào? Chẳng lẽ dùng vũ lực cũng không được? Trong tình hình đó, muốn tránh dùng thủ đoạn vũ lực, chỉ có một biện pháp, là tìm tòi nước cờ linh hoạt trên bàn cờ chính trị, mà nước cờ linh hoạt về chính trị thì phải có quan hệ tam giác mới hình thành được Hai lần hợp tác trước kia, tuy đều miễn cưỡng, nhưng đều thực hiện được, vì lúc đó có kẻ thù chung trước mặt, lúc đầu là chính quyền quân phiệt, sau đó là quân xâm lược Nhật Bản. Ngày nay không có kẻ thù chung nào. Hương Cảng thu hồi tương đối thuận lợi, vì trước mặt là thực dân Anh, mà trong đàm phán Trung-Anh lại giữ vững nguyên tắc “ghế hai chân”. Vấn đề Đài Loan không có được điểm lợi ngoại giao đó. Như vậy, mọi lực lượng phải tìm ngay tại Đài Loan, mà tại Đài Loan có lực lượng có thể tìm được Thí dụ Đảng dân tiến luôn lo lắng cuộc hội đàm giữa hai bờ eo biển chỉ tiến hành giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản, mà yêu cầu hội đàm giữa hai chính phủ trước hết cần được ba chính đảng ở Đài Loan nhất trí đồng ý. Lý do là hiện nay Đài Loan đã là thể chế chính trị nghị viện, trừ phi quốc hội có quyết định, nếu không thì bất kỳ người nào, gồm cả tổng thống Lý Đăng Huy và “viện trưởng” Liêu Chiến, đều không có quyền thay mặt toàn thể nhân dân Đài Loan để trả lời chính sách với Đại lục. Đảng Dân tiến phản đối Quốc-Cộng đàm phán với nhau là sợ mình bị bỏ rơi. Điều đó chứng tỏ rằng Đài Loan không phải là một tấm thép, mà có mâu thuẫn có kẽ nứt. Có mâu thuẫn thì có thể lợi dụng. Lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa làm tan rã, đánh tỉa từng đối tượng một, đó chính là mưu lược mặt trận thống nhất kỳ diệu.
Trong vấn đề thống nhất, Đảng Dân tiến còn giữ khoảng cách xa hơn Quốc dân đảng. Nhưng “nhân dân Đài Loan” mà họ nói tới thì đáng được coi trọng. Năm xưa, Tưởng Giới Thạch trong giờ phút cuối cùng của “tiễu cộng” sở dĩ buộc phải đồng ý liên hợp với Đảng Cộng sản để chống Nhật, là vì có nhân tố quan trọng là cao trào quần chúng kháng Nhật trong toàn quốc. Ngày nay, muốn buộc Quốc dân đảng ngồi lại đàm phán. thì ý nguyện của nhân dân Đài Loan và các lực lượng đối lập ở Đài Loan khẳng định có sức nặng quan trọng.
“Trong vấn đề Đài Loan. diện tiếp xúc cần rộng, ngoài nhà đương cục Quốc dân đảng là đối thủ, cần mở rộng diện cộng tác” Vì lý do đó nếu nhà đương cục chưa chuyển, thì trước hết nên giao lưu trên ba mặt kinh tế, văn hóa, tình cảm giữa dân gian, dể thúc đẩy việc tiếp xúc chính trị với nhà cầm quyền, đó là xuất phát từ sự suy xét như vậy.
Thêm nữa, hiện nay Quốc dân đảng đã mất quyền chủ đạo tuyệt đối với Đài Loan, nhất là sự phát triển của Đảng Dân tiến đã phá vỡ cục diện độc quyền của Quốc dân đảng, dần dần đã trở thành đảng cầm quyền ở từng tỉnh hoặc từng huyện. Nhưng cương lĩnh hạt nhân của Đảng Dân tiến là “Đài Loan độc lập”. Trong tình hình đó, nếu chỉ nhằm vào đối thủ cũ là Quốc dân đảng, mà không chú ý đến lợi ích của các đảng phái khác thì rõ ràng là giúp làm lớn mạnh thêm phong trào đòi độc lập của Đài Loan. Nhưng, điều cần chú ý là, hiện nay có một thế lực trong nội bộ Quốc dân đảng đứng đầu là Lý Đăng Huy, đang tăng cường hoạt động chia rẽ Tổ quốc, hợp lưu cùng bọn đòi cho Đài Loan độc lập. Điều đó cần phải kiên quyết phản đối.

6.12. Sớm muộn sẽ xuất hiện điều kiện “Đàm phán vấn đề thống nhất” do Đặng dự kiến, bởi vì những cuộc trao đổi kinh tế, văn hóa, tình cảm cuối cùng sẽ phá vỡ sự ngăn cách cách để tiến sang lĩnh vực chính trị
Đặng Tiểu Bình vốn cho rằng việc giải quyết vấn đề Hương Cảng sẽ có thể có tác dụng làm mẫu đối với Đài Loan. Nhưng không ngờ, mô thức Hương Cảng tiến hành đẹp đẽ như vậy mà phía Đài Loan không mảy may rung động.
Năm 1980, Quốc vụ viện công bố điều kiện ưu đãi không thu thuế nhập khẩu đối với hàng hóa Đài Loan, nhà đương cục Đài Loan không những không hưởng ứng mà còn áp dụng biện pháp trừng phạt với loại hoạt động dân gian đó.
Năm 1981, chủ tịch Ban thường vụ Quốc hội Diệp Kiếm Anh phát biểu 9 điểm về chính sách để biểu lộ sự hữu hảo với Đài Loan. Năm 1983, chủ tịch ủy ban hiệp thương chính trị Đặng Dĩnh Siêu lại đưa ra tín hiệu “mọi cái đều có thể thương lượng”. Nhưng phản ứng của phía Đài Loan đều rất lạnh nhạt, cho tới năm 1986, Đài Loan vẫn chưa có động tĩnh gì lớn.
Đài Loan không vội đàm phán khiến Đặng thấy rất nôn nóng. Người đã cao tuổi, muốn sớm được nhìn thấy Tổ quốc thống nhất đó là một mặt. Điều quan trọng hơn là, vấn đề Đài Loan nếu cứ kéo dài như thế, thì hậu quả rất đáng lo. Trừ ba năm sau đại chiến thứ hai, Đài Loan có tự do đi lại với đại lục, còn thì đã cách tuyệt với đại lục trong 90 năm. Địa phương này có khác với Hương Cảng, không có mối liên hệ nào về đất đai, kinh tế và đời sống xã hội với đại lục về mặt chính trị, đã hình thành một thể chế được cư dân trên đảo tiếp nhận về cơ bản. Trước mắt, cái liên kết hai bờ eo biển, ngoài ý thức đồng tông, chỉ còn là mối thù oán đã hình thành trong lịch sử giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản. Phía Đài Loan hiện vẫn chưa từ bỏ quốc sách “thu hồi đại lục”, điều này là một trở ngại lớn cho việc thực hiện “một quốc gia hai chế độ” của Trung ương đối với địa phương, nhưng về khách quan, lại ngăn cản sự phát triển của thế lực đòi cho Đài Loan độc lập. Nếu một ngày nào đó, nhà đương cục Đài Loan tỏ ra nhạt nhẽo hoặc từ bỏ cương lĩnh “thống nhất Tổ quốc”, thì sợi dây liên hệ hai bờ eo biển chỉ còn lại có tình cảm dân tộc mà thôi. Mà tình cảm là thứ có thể nhạt dần theo thời gian. Giống như những người rời đất nước thế hệ thứ nhất như tiên sinh Vũ Hữu Nhậm, còn nghĩ tới việc lá rụng về cội, nhưng đến đời thứ hai, đời thứ ba, cả lá và cội đã đều ở trên đảo, thì còn nghĩ như vậy không? Đến lúc đó, mới nói rằng chúng ta đều là con cháu Viêm Hoàng nên cần thống nhất trong một quốc gia, thì còn có bao nhiêu người nghe? Hai bờ eo biển đã cách tuyệt hàng mấy chục năm, nay lại tiếp tục không tiếp xúc, giao lưu, qua lại thì nứt rạn càng ngày càng sâu, không biết sẽ có một ngày nào đó Đài Loan sẽ vĩnh viễn tách rời khỏi đại gia đình Trung Hoa mà hình thành cục diện “hai nước Trung quốc” hoặc “một Trung quốc, một Đài Loan”.
Dụ dỗ thế nào họ cũng không “cắn câu”điều kiện ưu đãi thế nào cũng không có tác dụng. Ngoài quan hệ thân thích hiện còn, không có một cơ sở liên hệ hiện thực nào để phát huy. Nói yêu nước, Đài Loan không có thời gian dài nằm dưới sự thống tri thực dân như Hương Cảng, nên sức hấp dẫn của Mặt trận thống nhất yêu nước không lớn. Nói thống nhất, người Đài Loan cũng cảm thấy hứng thú, nhưng ai thống nhất với ai? Thống nhất với đại lục, đa số sợ mất đi điều kiện sống hiện có. Nói tới việc hợp tác Quốc- Cộng lần thứ ba, sẽ rất dễ gợi lại những ký ức không mấy đẹp đẽ xưa kia, lại làm tăng thêm tình cảm chống đối của đối phương. Thế thì, dùng biện pháp gì để mở ra cánh cửa, phá vỡ được bế tắc đây?
Đài Loan khác với Hương Cảng, chỉ đưa vào làm mẫu thì không đủ để hấp dẫn họ. Năm 1986, trong khi tiếp nhà báo Mỹ, Đặng tỏ ý hy vọng nước Mỹ “cổ võ, khuyến khích Đài Loan trước hết hãy liên hệ với lục địa về ba mặt: Buôn bán, giao thông, bưu điện. Qua những tiếp xúc đó, có thể làm tăng thêm sự hiểu biết giữa hai bờ eo biển tạo điều kiện cho hai bên đàm phán về vấn đề thống nhất”
Sách lược “liên hệ về ba mặt” đã đáp ứng tâm tình nhớ quê hương của những người già ở Đài Loan. Cách biệt ba bốn chục năm ai không muốn về thăm lại quê cha đất tổ trong lúc còn sống để tìm lại họ hàng thân thích? Nhà đương cục Đài Loan không thể ngăn trở ý nguyện của nhân dân, cuối cùng, vào năm 1987, đã bỏ lệnh cấm về thăm đại lục. Về phía đại lục, không những không hỏi han về lý do “theo địch phản quốc” của những người đó, mà ngược lại, còn tiếp đãi như thượng khách, do chính phủ đứng ra chăm lo mọi mặt, hết sức ưu đãi. Thí dụ như ở phòng đợi của nhà ga, có cửa bán vé dành riêng cho đồng bào Đài Loan và cho quân nhân, với những người đầu tiên về định cư, hàng tháng chính phủ sẽ phát trợ cấp sinh hoạt, được hưởng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Người Đài Loan về thăm họ hàng đã mở ra bước đầu trong việc giao lưu giữa hai bờ eo biển. Mà đã có bước thứ nhất thì không lo gì không có bước thứ hai, thứ ba. Bởi vì mưu lược giao lưu về ba mặt đã đưa ra những hấp dẫn về kinh tế. Anh có thể không cảm thấy hứng thú về thống nhất đất nước, nhưng không thể làm ngơ trước cơ hội phát tài. Cùng với từng làn sóng người về thăm họ hàng, thân thích, giới công thương Đài Loan cũng tấp nập vào đại lục để mở luồng làm ăn buôn bán. Quốc vụ viện cũng không bỏ lỡ cơ hội, ban bố những quy định khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư vào đại lục, khiến giao lưu giữa hai bên từ chỗ đơn thuần là buôn bán phát triển sang đầu tư. Đó là việc có lợi cho cả hai bên. Thương nhân Đài Loan ham thích thị trường đại lục không kém gì thương nhân nước ngoài, tại sao lại không tận dụng ưu thế gần gũi này? Đại lục dù sao cũng phải tiếp nhận đầu tư của nước ngoài, thì tại sao không để mối lợi đó cho đồng bào Đài Loan? Rất nhanh chóng, hai bờ eo biển đã đi tới chỗ hiểu nhau qua việc giao lưu kinh tế hai bên đều có lợi. Năm 1990, Đài Loan chính thức cho phép thương nhân Đài Loan vào đại lục đầu tư, lập nhà máy và ra quy định về quản lý vật phẩm đem vào đại lục. Từ đó, giao lưu, buôn bán của hai bên tiến vào quỹ đạo pháp chế hóa.
Việc đồng bào Đài Loan về đại lục thăm thân nhân, thương nhân Đài Loan về đại lục đầu tư và sự tăng trưởng buôn bán giữa hai bên, đã có tác dụng thúc đẩy tích cực việc phát triển quan hệ giữa hai bờ eo biển. Trước hết là duy trì và củng cố ý thức cùng nguồn gốc và tình cảm dân tộc còn lại giữa hai bên. Đài Bắc luôn mong muốn “mở rộng không gian sinh tồn trên quốc tế”, sau khi mở rộng, sẽ giao đấu với Bắc Kinh với tư cách “thực thể chính trị ngang hàng”. Còn Bác Kinh vì ngăn trở Đài Loan độc lập và nước ngoài nhúng tay, nên trên trường quốc tế luôn áp dụng chính sách cô lập Đài Loan. Phàm những nước lập quan hệ ngoại giao với Trung quốc, đều phải chấp nhận một tiền đề: Thừa nhận chỉ có một Trung quốc và Đài Loan là một bộ phận của lãnh thổ Trung quốc hứa sẽ không có bất kỳ mối quan hệ nào chính thức với chính quyền Đài Loan. Làm như vậy, rõ ràng càng làm tăng thêm thù nghịch giữa Đài Bắc và Bắc Kinh!
Việc giao lưu kinh tế và trao đổi tình cảm giữa nhân dân hai bên lại có tác dụng bù đắp lại, chứng minh rằng những chính sách trên của đại lục không phải là cố ý cô lập đả kích Đài Loan, mà chỉ là mong Đài Loan gần đại lục thêm một chút. Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, các nước âu Mỹ thi nhau trừng phạt Trung quốc, thương nhân Đài Loan thừa cơ hội, tăng vọt đầu tư vào đại lục. Điều đó coi như đã giúp anh em đại lục trong lúc nguy nan, có lợi cho việc giúp đại lục chống lại sự trừng phạt của phương Tây. Thương nhân Đài Loan đương nhiên cũng được lợi, mối lợi béo bở không chảy ra ngoài. Từ đó hai bên đều có ý thức: Máu đào rút cục lại vẫn hơn là nước lã.
Kinh tế là cơ sở của chính trị. Kinh tế dựng nên vũ đài chính trị biểu diễn. Hai đảng Quốc-Cộng do đã từng trải qua những bước lịch sử không lấy gì làm êm đẹp, cộng thêm hơn 30 năm đối kháng phân lập, từ sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sự thù địch đã rất sâu. Trong tình hình đó, trước hết phải có thời gian gây dựng lại lòng tin. Trong chốc lát đã muốn Quốc dân đảng vui vẻ ngồi lại để cùng Đảng Cộng sản bàn bạc việc thống nhất đất nước và cùng hợp tác lần thứ ba, thì họ sẽ rất khó chấp nhận. “Giao lưu về ba mặt giữa hai bờ” là biện pháp tránh được vấn đề chính trị nhạy cảm đó. trước hết hãy chưa nói tới những vấn đề chưa giải quyết được mà để tới bước sau, trước hết hãy nói những chuyện phi chính trị như thông thương, vận tải, bưu điện, những vấn đề có lợi Như vậy, nhà đương cục Đài Loan không tiện cự tuyệt đương nhiên, không tránh khỏi việc họ gây khó khăn, nhưng không lâu sau, họ đã cho phép lập một “hội giao thông trên biển”, và đại lục lập tức hưởng ứng bằng một hội tương tự. Hai “đoàn thể dân gian” được chính phủ cho phép đã có tác dụng thay mặt chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nối liền hai bờ.
Năm 1992, người lãnh đạo hai hội trên đã có cuộc hội đàm ở Xingapo và ký kết 4 hiệp nghị. Đó là cuộc tiếp xúc ở cấp cao nhất giữa hai bên sau hơn 40 năm cách tuyệt. Từ đó, hai hội đã phát huy tác dụng môi giới, tích cực thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Như vậy, cuối cùng Đài Loan đã đàm phán với đại lục, có điều còn cách một lớp “găng tay trắng”.
Nhà văn Đài Loan ưu Tú Trân nhận thấy: Dù rằng quan hệ chính trị giữa hai bên còn xa vời, nhưng thương nhân Đài Loan đã bị thị trường mông mênh của đại lục vẫy gọi, việc buôn bán qua lại đã thường xuyên tấp nập. Đến 1994, tổng số đầu tư của Đài Loan vào đại lục đã lên với 3, 7 tỷ đô la, có 10. 305 hạng mục đầu tư, trở thành nguồn đầu tư lớn thứ hai vào đại lục sau Hương Cảng. Điều đó giúp đại lục giảm được sự phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào các nguồn đầu tư khác. Theo các nguồn tin, năm 1994, xuất siêu của Đài Loan hầu như đều nhờ vào buôn bán với đại lục. Có người tính toán rằng, trình độ phụ thuộc vào thị trường đại lục của Đài Loan trong 5-10 năm tới có thể vượt quá sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ. Đó đều là thành quả “giao lưu trên ba mặt”. Dù nhà đương cục Đài Loan tự hào về mức sống của nhân dân và giá trị sản lượng tính bình quân theo đầu người cao hơn đại lục bao nhiêu, không muốn hoặc không vội đàm phán với Đảng Cộng sản, nhưng trong cuộc “giao lưu trên ba mặt đó” họ đã bị “sa” vào một cách không tự giác. Biết làm sao được? Sức mạnh chính trị không thể cưỡng lại được với sức hấp dẫn của thị trường.
Cho đến nay trong “ba mặt giao lưu” chỉ có vấn đề “đường bay trực tiếp” là chưa giải quyết được. Song không nên lo ngại. Nhân sĩ Đài Loan đã nhận thức được rằng: Nếu Đài Loan không có đường bay trực tiếp với đại lục, họ sẽ hoàn toàn mất ưu thế cạnh tranh ở vùng Đông Nam. Nhìn thấy điều dó, Đài Loan gần đây đã đưa ra “trung tâm chuyển vận ngoài biên giới ở châu Á-Thái Bình Dương”. Những người thiết kế “trung tâm” đó nhấn mạnh “không thông qua hải quan, không nhập cảnh” để tránh vi phạm quy định “không được bay trực tiếp”. Nhưng, người ta chỉ nhìn qua là thấy ngay, đó thực tế là “sự biến tướng của đường bay trực tiếp”. Trước đây, phía đại lục không chịu ký vào quy định bằng văn bản việc bảo hộ lợi ích đầu tư của thương nhân Đài Loan, lý do là Đài Loan không hủy bỏ lệnh cấm trực tiếp bay thẳng tới đại lục. Ngày nay Bắc Kinh tỏ ý đồng ý đàm phán và ký kết một bản “hiệp nghị có tính dân gian”, đề ra việc bảo hộ rõ ràng bằng văn bản cho các khoản đầu tư của Đài Loan vào đại lục. Và nhà đương cục Đài Loan gần đây cũng tỏ ý sẽ bỏ chủ trương hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm của đại lục ở Đài Loan, cho phép chuyên gia học giả đại lục đến Đài Loan giảng bài v.v.. Đặng đã nói: “Giải quyết vấn đề Đài Loan phải tốn thời gian, nôn nóng quá là không được”. Dù rằng hai bên hiện nay mới chỉ tiếp xúc mà chưa có lòng tin, nhưng cứ đi lại như hiện nay, tiếp xúc tốt thì sẽ hiểu nhau và sẽ xây dựng được lòng tin với nhau, thì con đường hòa bình thống nhất càng ngày sẽ càng rộng. Điều kiện để “đàm phán về vấn đề thống nhất” mà Đặng thiết kế sớm muộn rồi sẽ được tạo ra, vì việc qua lại về buôn bán, văn hóa, tình cảm cuối cùng sẽ phá vỡ được ngăn cách và tiến sang lĩnh vực chính trị.
Mưu lược Đặng Tiểu Bình
Mục lục và lời tựa
Phần 1
Phần 1- B
Phần 1 - C
Phần 1- D
Phần 1- E
Phần 1 - F
Phần 2 - A
Phần 2 - B
Phần 2- C
Phần 3- A
Phần 3 - B
Phần 3- C
Phần 4- A
Phần 4- B
Phần 5
Phần 6- A
Phần 6- B
Phần 6- C
Phần 7
Phần 7- B
Phần 7 - Hết