Chương 3
Tác giả: André Chedid
Ông Joseph đeo vào tay đứa cháu trai chiếc nhẫn có khắc hình con bọ hung màu cát rồi nói:
- Đây là chiếc nhẫn của bố cháu, giờ nó là của cháu. Hãy luôn mang nó bên mình. Nó hơi rộng nhưng ông đã làm cho nó vừa với tay cháu rồi đấy.
Cố gắng nở một nụ cười, ông siết chặt đứa cháu vào lòng và vuốt ve.
Ông gửi đứa cháu cho một người bạn mà ông đã liên lạc được sau nhiều năm ông ta chuyển đến sống ở bên kia biển Thái Bình Dương.
Hai người đi trên một chiếc tàu trở hàng đến Chypre. Tiếp đó, bằng những phương tiện kinh tế nhất: đường biển và đường sắt, sau năm đến bảy ngày lênh đênh họ đặt chân đến Paris.
Ga Lyon. Giữa trưa một ngày cuối tháng 5 năm 1987.
Mới chớm hè nhưng mặt trời như đang muốn phả hơi nóng như thiêu đốt của nó lên bầu không gian vẫn còn dư âm của mùa xuân tươi đẹp. Những tia nắng gay gắt như muốn nuốt trôi cả thành phố, xuyên thủng những mái kính của căn phòng đại sảnh, chiếu sáng những chiếc toa, đầu tàu và làm cho một dọc đường ray sáng lóa. Dưới ngọn đuốc ánh sáng ấy, thì ngay cả bóng dáng của những đám mây phủ màu tro lên những khuôn mặt và những phiến đá cũng bị xua tan. Ngạo nghễ bước qua một mùa xuân ẩm mốc, mùa hạ hân hoan báo tin chiến thắng của mình.
Tại nhà ga đến của chuyến tàu từ Marseille, mắt chăm chú, tim đập mạnh Antoine và Rosie đang đợi đứa cháu trai của mình.
- Anh có nghĩ là chúng ta có thể nhận ra nó không? - Cô vợ hỏi.
Từ mười lăm năm nay, khi cuộc nội chiến vô nghĩa do các thế lực bên ngoài xúi giục nổ ra, đôi vợ chồng này đã chuyển đến sống ở Paris. Những cuộc xung đột liên miên và phi nghĩa như trói chặt quê hương nhỏ bé của họ, kìm hãm nó trong chiếc bẫy không lối thoát. Chính vì lẽ đó mà họ không bao giờ có ý định trở lại nữa.
Cái gia tài khiêm tốn của người chú già sống lưu vong từ lâu nay cũng đủ để họ mở một cửa hiệu giặt là. Cả hai đã xếp xỉ gần năm mươi rồi. Công việc này cũng đem lại cho họ một khoản thu nhập tương đối.
Trước kia, khi cả hai còn sống ở quê hương, Rosie bán những đồ trang sức mỹ ký. Cô cũng bị cám dỗ bởi những mặt hàng xa xỉ, cũng học đòi theo kiểu mốt của những “phụ nữ nổi tiếng thế giới” được giới thiệu đầy trên những trang tạp chí. Cô còn là một phụ nữ không biết lo xa và hay phù phiếm. Rất yêu nhưng rất hay ghen. Antoine luôn chê bai cái tính vô tâm và điệu đà của vợ.
Sang sống ở Pháp, sau khi mua một cửa hàng nhỏ, cô bắt đầu thể hiện một cách xuất sắc vai trò “bà chủ” có trách nhiệm. Cô cũng bắt đầu thay đổi tỉnh cách. Cô để một búi tóc trắng không nhuộm, chiếc váy màu nhã nhặn đến bắp chân và đôi giày đế bằng, màu sẫm. Còn về chồng cô thì khỏi phải nói. Anh ta vô cùng hài lòng khi thấy vợ mình càng ngày càng đúng với hình ảnh một người vợ: tận tụy, nấu nướng giỏi và còn là người quản lý tài ba.
Nhưng rất nhanh chóng, anh đã bỏ người vợ chịu thương chịu khó để phải lòng một ả Claudette - một phụ nữ trẻ đỏng đảnh trên chiếc giày đế nhọn, lố lăng trong bộ jupe ngắn với những chếc vòng cổ mỹ ký có mặt hình trái tim tráng men rẻ tiền.
ả này thường đến cửa hiệu hai lần trong tuần để lấy những đống quần áo đã giặt rồi mang đến tận nhà cho khách hàng. ả còn kiêm cả nhiệm vụ sửa chữa những thiếu sót và một vài công việc vặt khác.
Những ngày đầu khi ả xuất hiện, Antoine luôn quanh quẩn tại cửa hiệu. Rồi dần dần, luôn cảm thấy vui thích với sự có mặt của ả, anh đã không thể che giấu được vẻ bối rối của mình. Mặc dù rất khó chịu nhưng Rosie vẫn cố gắng tỏ ra không hay biết gì. Vì sau khi đi khám, bác sỹ nói chồng cô bị huyết áp cao. Cô cần tránh cho anh những cáu giận không cần thiết vì tim anh rất dễ bị tổn thương và sẽ nguy hiểm ngay cả với những phật ý nhỏ nhất.
Chẳng còn cách nào để thay đổi, Rosie chỉ còn biết dựa vào đứa cháu họ của mình. Cô hi vọng sự xuất hiện của nó sẽ buộc Antoine phải xử xự đúng mực hơn. Bởi vì dẫu sao, anh ta cũng phải để cho cậu bé có một chút gì đó để tôn trọng.
- Chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra nó, em yêu ạ. - Antoine trả lời vợ. Chị Annette của em là người chu đáo nên từ hơn mười một năm nay, kể từ khi nó ra đời chúng ta bao giờ cũng nhận được ảnh của nó.
Tất cả hành khách đã rời tàu tràn xuống sân ga rất đông. Họ hối hả đi về phía cửa. Rosie và Antoine rất lo sẽ không tìm được đứa nhỏ, nhưng chính thằng bé cũng đang đi tìm họ với tấm biển ghi tên hai vợ chồng Mazzar bằng chữ viết hoa treo trên cổ.
- Joseph! Joseph! Lại đằng này! Họ cùng kêu lên khi thoáng trông thấy chú bé.
Bằng một động tác rất nhanh chú bé tháo tấm biển ra và lao về phía họ.
- Dì Rosie! Chú Antoine!
Quá bất ngờ trước sự xuất hiện của thằng bé, cả hai đều lùi lại.
Đến lượt mình, chú bé cũng đứng yên bất động rồi mới cất lên được những tiếng run rẩy:
- Chú Antoine đấy ư?... Dì Rosie đấy ư?... Đúng là chú dì thật sao?
Chiếc áo bị khoét mất một bên nách đã làm cho họ nhận thấy một cánh tay của chú bé đã bị cụt. Họ như chết lặng người, đứng đó, bàng hoàng, sửng sốt và không nói thêm được một lời nào nữa.
Như hiểu được những phản ứng đó, chú bé tiến về phía họ. Chú kiễng chân, giang cánh tay rắn chắc còn lại vòng qua cổ người phụ nữ và người đàn ông, kéo họ lần lượt về phía mình và ôm hôn thắm thiết.
Lúc ấy, Rosie chỉ có đủ thời gian để nói nhỏ vào tai chồng mình:
- Đáng nhẽ ông phải nói trước cho chúng ta...
Nhưng tự nhiên cảm thấy xấu hổ trước thái độ ghê sợ đó của mình, cô cúi xuống kéo đứa cháu vào ngực. Trong một tâm trạng cực kỳ hổ thẹn, cô siết chặt nó vào lòng hơn nữa. Rồi cô hôn lên tóc, lên má cậu bé và thì thầm:
- Ôi đứa cháu nhỏ bé của cô, đứa cháu yêu quý của cô...
Bất giác, cô nhận thấy một cảm giác kỳ lạ ngay dưới làn môi của mình. Một khoảng trống nhỏ. Đúng rồi, một vết lõm bên gò má phải. Như không hay biết gì, cô kín đáo xem xét vị trí trên gò má của cậu bé mà môi cô vừa lướt qua. Cô nhận thấy một vết sẹo lõm vào như vết tích của một vụ nổ để lại. Bên kia bờ Địa Trung Hải luôn luôn là địa ngục của trần gian. Họ sẽ phải làm gì đây? Chẳng làm được gì. Điều duy nhất mà họ có thể làm được là sẽ cố gắng không bao giờ nghĩ đến nó nữa.
Ngoại trừ cánh tay bị cụt ra, trông cậu
bé cũng khá điển trai. Mái tóc nâu xoăn tít rất hợp với khuôn mặt tròn của cậu. Chiếc mũi thẳng với hai cánh mũi phập phồng như được vẽ rất tinh tế, đôi mắt đen và sáng như hai quả ôliu. Đôi vai rộng chắc nịch, đôi chân thì cuộn cơ bắp cùng với làn da rám nắng. Tất cả như làm toát ra từ người cậu bé một thứ ánh sáng vô định.
- Đứa cáu bé bỏng của cô, đứa cháu bé bỏng của cô - Rosie nhắc đi nhắc lại.
Nước mắt vòng quanh, cô ôm sát đứa bé vào lòng chặt hơn nữa, như người mẹ đang ôm ấp, vuốt ve đứa con nằm trong bụng.
Toàn thân cô rung lên vì xúc động và vì một cảm xúc nào đó mà cô không thể lý giải nổi. Phải chăng chính tình mẫu tử đang trỗi dậy trong cô đã làm cho cô có những tình cảm như vậy trong thời lúc này? Giữa dòng người hối hả và những tiếng ồn ào náo nhiệt cứ đeo đẳng mãi trên sân ga, chỉ đứng đó cách hai bước, trong khi Antoine cảm thấy sốt ruột thì cô vẫn chìm đắm trong sự xúc động, trong những cái vuốt ve, lướt nhẹ ngón tay lên mái tóc dầy của chú bé.
Đứa trẻ cũng cảm thấy những tình cảm thân thương, trìu mến đó đang truyền sang người mình. Lúc này, hình ảnh người mẹ và sự dịu dàng của bà lại in đậm trong tâm trí cậu. Từ một năm nay, nó chỉ sống một mình với ông nên cho đến bây giờ nó mới tìm lại được cái cảm giác thân thương đó.
- Joseph, đứa con bé bỏng của mẹ!...
- Cháu không phải là Joseph, cậu bé nói nhỏ. Cháu tên là Omar-Jo. Dì Rosie ạ.
Quá xúc động, cô không nghe thấy những gì mà cậu bé đã nói. Bây giờ đối với cô, chỉ còn lại những lời ngọt ngào như tiếng ru từ lòng mẹ mà cô cứ nhắc lại không nhàm chán:
- Joseph yêu dấu, đứa con bé bỏng của mẹ...
Lần này, thoát khỏi vòng tay ôm chặt của dì Rosie, chú bé đứng thẳng trước mặt hai người và nói dõng dạc:
- Tên cháu là Omar-Jo.
Thấy hai người không phản ứng gì, cậu bé lại nhấn mạnh lần nữa:
- Tên cháu là Omar-Jo. Omar là tên bố, còn Jo là tên ông Joseph.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi, xa dần và xóa mờ những kỷ niệm của quá khứ. Rosie bất giác nhớ đến cái “đám cưới bất hạnh” ấy. Nó cũng giống như cuộc hôn nhân của người chị họ “Annette tội nghiệp”. Với cô, có niềm tin vào tôn giáo sẽ làm cô trở nên cứng rắn hơn. Nhưng đối với Antoine thì như ngược lại. Lòng tin của anh chỉ giới hạn trong khuôn khổ thị tộc. Cô thần nghĩ, không biết thằng bé kỳ lạ này theo giáo lý nào, tín ngưỡng nào nhỉ?
- Này cháu, cháu theo tôn giáo nào vậy?
- Cháu theo Chúa. Thằng bé đáp.
- Cháu muốn nói gì cơ?
- Nghĩa là cháu theo tôn giáo của mẹ và cha cháu... và tất cả những tôn giáo khác nếu như cháu cũng biết về chúng.
Rosie cắt ngang sự im lặng của nó và nói:
- Cháu có nghĩ là chúng có thật không?
- Nếu như Chúa tồn tại..., cậu bé đáp.
- Giá như có Chúa nhỉ! Antoine hốt hoảng nói. Anh chưa bao giờ thực hiện bổn phận của mình với Chúa, nhưng rồi bức tượng Đức Chúa - con trai của nhà thờ La Mã đã an ủi anh.
- Nếu như có Chúa trên đời, chú bé nói với giọng bình thản, Người sẽ yêu quý tất cả chúng ta. Chính Người đã tạo ra thế giới này, vũ trụ này và con người này. Người sẽ lắng nghe mọi lời cầu nguyện của chúng ta.
Thật không đúng lúc khi nhớ đến Chúa trong cảnh lộn xộn, huyên náo dưới cơn mưa bất thần ập đến, trút những hạt mưa xuống mái kính của nhà ga rồi lại biến đi một cách kỳ lạ.
- Đây không phải là nơi chúng ta nói về Chúa đâu. Rosie nói. Chúng ta về thôi.
- Chúa có mặt ở khắp mọi nơi... Cậu bé vừa nói nhỏ vừa tìm kiếm một cách vô ích dấu hiệu đồng tình trên khuôn mặt hai người.
Im lặng, Rosie nắm lấy cánh tay còn lại của thằng bé và dắt nó đi theo chồng về phía bãi xe.