hồi thứ mười bốn
Tác giả: Khuyết Danh
Địch Thanh thấy Lộ Huê vương cho ngựa thì mừng rỡ lạy tạ thưa:
- Nay điện hạ đã cho tôi con ngựa này, vậy xin điện hạ đặt tên luôn thể.
Nó là con long cu mà nhà ngươi bắt được ở dưới hồ sen trong đêm trăng thì gọi nó là Hiện Nguyệt Long cu.
Địch Thanh tạ ơn, Lộ Huê vương lại nói:
- Ngươi có tài phép như vậy để mai ta tâu với thiên tử đặng phong thưởng cho ngươi. Vậy chớ quê quán ngươi ở đâu? Cha mẹ tên chi? Học hành với ai mà tài phép như vậy?
Địch Thanh thưa:
- Quê tôi ở tỉnh Sơn Tây, phủ Thái Nguyên. Ông nội tôi là Địch Ngươn làm thống chế, cha tôi là Địch Quảng làm tổng binh, đều đã qua đời hết. Khi tôi mới chín tuổi, bị nước lụt, mẹ con lìa nhau mất còn không rõ. Lúc bấy giờ thầy tôi là Vương Thoàn Quỷ Cốc đem tôi về núi Nga Mi mà truyền võ nghệ, rồi lại dạy tôi xuống Biện Kinh mà tìm thân nhân, té ra thân nhân đâu không thấy mà gặp bọn gian thần hãm hại.
Địch Thanh vừa nói đến đó thì có tên nội giám đến báo:
- Nương nương dạy đòi điện hạ.
Lộ Huê vương lật đật chầu mẹ. Địch thái hậu hỏi:
- Khi nãy nội giám nói có một người trừ được yêu quái phải không?
Lộ Huê vương thưa:
- Đúng vậy. Người ấy còn nhỏ tuổi, tên Địch Thanh, quê ở Sơn Tây, phủ Thái Nguyên.
Tiếp đó Lộ Huê vương thuật hết những lời Địch Thanh nói cho Địch thái hậu nghe.
Thái hậu nghe nói ngẫm nghĩ một lúc rồi cho đòi Địch Thanh vào yết kiến.
Địch thái hậu hỏi:
- Ngươi là con Địch Quảng mà ngươi có anh em gì không?
Địch Thanh thưa:
- Tôi có người chị tên là Kim Loan, song lúc nước lụt cuốn trôi không biết mẹ và chị tôi còn hay mất.
Thái hậu hỏi:
- Mẹ ngươi tên chi?
Địch Thanh nói :
- Mẹ tôi tên là Mạnh thị.
Thái hậu hỏi :
- Ngươi có cô bác chi không?
Địch Thanh tâu:
- Tôi có một người cô tên là Địch Thiên Kim. Khi tôi còn nhỏ thì nghe mẹ tôi nói: Cô bị kén vào cung nên rầu rĩ mà bỏ mình.
Địch thái hậu nghe nói ngậm ngùi, nghĩ thầm:
- Mình còn sống đây mà nó lại nói là mình đã chết.
Nghĩ rồi liền hỏi tiếp:
- Vậy cô ngươi đau bệnh gì mà chết?
Địch Thanh nói:
- Khi cô tôi mới vào ít ngày thì thương nhớ bà nội tôi và cha mẹ tôi nên rầu rĩ mà mang bệnh chết liền.
Thái hậu lại hỏi:
- Địch Thanh! Ngươi xưng là con Địch Quảng, làm tổng binh vậy có gì làm dấu tích để lại chăng?
Địch Thanh tâu:
- Có một hột ngọc uyên ương của ông nội tôi để lại, khi cô tôi vào cung thì bà nội tôi đã cho cô tôi một hột để làm của gia truyền, còn lại một hột thì để lại cho cha tôi, nên truyền lại cho tôi đây.
Thái hậu xem thấy thì bùi ngùi rơi lệ, sai cung nữ mở rương lấy viên ngọc của mình ra. Hai viên ngọc giống nhau như đúc, chẳng hề khác chút nào.
Thái hậu liền nhào xuống đất, ôm Địch Thanh khóc òa lên nói:
- Cháu ơi! Cô là Địch Thiên Kim đây. Cô còn sống mà bấy lâu kẻ Bắc người Nam không rõ được.
Địch Thanh thấy thái hậu ôm mình khóc như vậy cũng ngạc nhiên, không nói ra lời.
Lộ Huê vương mừng rỡ nói:
- Địch hiền huynh ơi! Ấy cũng là trời sui khiến cho cô cháu sum vầy đó.
Nói rồi liền lấy y phục của mình đưa cho Địch Thanh thay. Từ ấy ba người vui mừng, tâm sự với nhau không ngớt.
Địch thái hậu nói với Lộ Huê vương:
- Con ơi! Dòng họ Địch của mẹ chỉ còn lại một mình Địch Thanh nối dõi, vậy con hãy hết lòng bảo bọc tâu cùng thánh thượng phong cho anh con chút đỉnh quyền tước để làm vinh hiển cho tông môn họ Địch với. Như vậy thì mẹ mới an vui.
Lộ Huê vương thưa:
- Xin mẹ chớ lo. Mai con vào chầu tâu hết sự việc cho thánh thượng nghe, thế nào thánh thượng cũng phong quyền tước cho anh con.
Nói rồi khiến nội thị dọn tiệc thết đãi Địch Thanh.
Lúc này Địch Thanh vì mới gặp được người cô nên vui mừng ăn uống say sưa, đến khuya mới đi nghỉ.
Vào lúc nửa đêm, Địch Thanh thức giấc nhớ lại chuyện Bàng Hồng Tôn Tú thì nổi giận kêu hai người nội thị bảo:
- Các ngươi hãy xách đèn đi với ta.
Hai người nội thị nói:
- Bây giờ đã khuya xin ngài vào nghỉ, chớ có đi đâu mà bị nương nương quở phạt.
Địch Thanh lúc ấy nửa tỉnh nửa say, nghĩ thầm:
- Nếu nói thiệt ý mình muốn đi giết Tôn Tú e hai người nội thị không dám đi. Chi bằng tìm cách gạt chúng nó để khỏi lậu tiếng.
Nội thị thấy Địch Thanh quyết tâm đi dao ban đêm nên không dám cãi, liền xách lồng đèn dẫn Địch Thanh đi.
Địch Thanh mặc đồ y phục của Lộ Huê vương, lưng mang một cây bửu kiếm đi với hai tên nội thị. Lúc này trăng tỏ rạng, tiếng người vắng vẻ, chỉ nghe có tiếng gà gáy, chó sủa mà thôi.
Địch Thanh hỏi:
- Đây là đường đi đâu vậy?
Nội thị thưa:
- Đây là đường đi sang ông Hàng thượng thơ.
Địch Thanh nói:
- Không! Bây giờ ta muốn qua dinh Tôn Tú mà thôi. Vì ta có thù lớn nên ta muốn đi giết nó.
Nội thị nghe nói thất kinh thưa:
- Thưa ngài! Ngài không nên làm điều ấy.
Địch Thanh nạt lớn:
- Ta làm gì mặc kệ ta, sao các ngươi dám cản trở.
Nội thị không dám cãi, liền dắt Địch Thanh qua dinh Tôn Tú. Đi khỏi cầu Thiên Hớn, vừa đến dinh Tôn Tú thì thấy bốn phía vách tường cao ngất, bỗng có quan tuần tiễu xách đèn đi đến sáng rực, trên đèn của hai tên nội thị thấy có đề chữ Nam Thanh cung bèn lật đật quỳ xuống bên đường đón tiếp.
Địch Thanh thấy vậy cười lớn hỏi:
- Vậy chớ các ngươi đi đâu đây?
Quan tuần tiễu thưa:
- Tôi là bộ hạ của Tôn binh bộ, nay người sai tôi đi tuần đây đó.
Địch Thanh hỏi:
-Tôn Tú có ở trong dinh chăng?
Quan tuần tiễu nói:
- Người mắc đi khỏi.
Địch Thanh hỏi:
-Vậy chớ nó đi đâu?
Quan tuần tiễu nói:
- Người đã sang dinh đề đốc Vương Thiên Hóa ăn tiệc rồi.
Địch Thanh lại hỏi:
- Có chắc như vậy không?
Quan tuần tiễu thưa:
- Kẻ tiểu nhân đâu dám nói dối.
Địch Thanh liền khiến nội thị đi qua dinh Vương Thiên Hóa.
Nội thị vâng lệnh xách đèn trở lại cầu Thiên Hớn, nhưng vừa đi đến cầu thì Địch Thanh đã thấm rượu không đỉ nổi nữa. Hai nội thị phải dìu Địch Thanh đi, và nói:
- Ngày đã sáng rồi, xin ngài trở về rồi mai sẽ đi.
Địch Thanh nạt lớn:
- Không được! Ta muốn giết tên gian thần ấy mà thôi.
Nội thị nói:
- Để mai giết cũng được.
Địch Thanh nói:
- Nếu nội đêm nay ta không giết được tên gian thần ấy quyết không làm người.
Lúc ấy tuy Địch Thanh miệng nói như vậy nhưng chân tay đã bủn rủn, chân bước đi không nổi nữa. Nội thị túng thế phải đỡ Địch Thanh đứng dựa lan can cầu.
Địch Thanh ngã tới, nà lui mà miệng thì mắng nhiếc Tôn Tú không ngớt. Qua một lúc Địch Thanh dựa lan can cầu ngủ đi. Còn hai tên nội thị cũng phải đứng đó mà chờ.
Giây lát có người xách lồng đèn từ đầu kia đi lại. Thì ra đó là Bàng Hồng và Tôn Tú. Hai người đi ăn lễ chúc thọ của mẹ Vương Thiên Hóa. Mãn tiệc vừa về đến nơi thấy Địch Thanh ngỡ là Lộ Huê vương, liền xuống ngựa đi bộ đến cầu, quì trước mặt Địch Thanh.
Lúc ấy Địch Thanh tay cầm gươm, đầu thì cúi xuống, nên hai người nhìn không biết mặt, chỉ thấy hiệu đèn và y phục ngỡ là Lộ Huê vương mà thôi.
Bàng Hồng và Tôn Tú quỳ một lúc lâu, thấy Địch Thanh vẫn yên lặng nên nói:
- Để chúng tôi đưa điện hạ về cung có được không?
Địch Thanh nghe tiếng nói giật mình thức dậy ngước mặt lên, làm cho Bàng Hồng nhìn thấy biết không phải là Lộ Huê vương , liền kêu gia đinh áp vào bắt.
Hai tên nội thị thấy vậy liền cản lại nói:
- Không nên! Người này là cháu ruột của Địch nương nương đừng làm bậy mà mang họa đó.
Bàng Hồng nạt lớn:
- Thằng này quả là Địch Thanh. Khi trước nó đã phạm tội, nay lại dám cả gan mặc đồ sắc phục của Lộ Huê vương nữa, ấy là tội nặng lắm, còn cản trở sao được.
Nói rồi hối gia đinh trói dẫn về dinh. Hai tên nội thị thấy vậy sợ hãi bỏ chạy về báo với Địch thái hậu.
Còn Bàng Hồng và Tôn Tú vừa giải Địch Thanh đi một lúc thì có một tốp quân binh chạy đến báo:
- Có Bao Công sai người đến nhận phạm nhân.
Nguyên Bao Công được nghe quân tuần về báo là Bàng Hồng và Tôn Tú đang bắt một tội phạm dẫn về dinh, nên Bao Công sai Trương Long và Triệu Hổ đến nơi xem thử và ra lệnh mở trói cho Địch Thanh dẫn về công đường.
Bàng Hồng cà Tôn Tú cả giận nói với Bao Công:
- Chúng tôi đi ăn tiệc bên Vương đề đốc về đến đây gặp tên Địch Thanh là một thằng trốn lính, lại ăn trộm đồ sắc phục của Lộ Huê vương mà mặc. Bởi vậy tôi bắt nó về mà trị tội.
Bao Công nói:
- Hôm nay là phiên tôi đi tuần, nếu có tội phạm tôi phải đem về công đường mà xét xử.
Tôn Tú nói:
- Không được đâu! Nó là tên lính trốn, mà trách nhiệm tôi coi về binh, phải để tôi mang về nhà xử tội mới đáng.
Bao Công nói:
- Tuy nó là một tên lính, song ngài đã bôi sổ nó rồi, thì nó cũng như một tên thường dân. Vậy phải để tôi xử tội nó.
Tôn Tú nói:
- Nó không phải là bà con chi với ông, sao tôi xem ý như ông muốn binh vực nó vậy.
Bao Công nói:
- Đó là việc bổn phận tôi phải làm, nào có binh vực ai đâu.
Bàng Hồng thấy hai người cãi với nhau thì nói:
- Để tôi nói một lời. Hễ ai bắt được người ấy thì được đem về xét xử.
Bao Công nói:
- Thôi! Đừng nói chi cho nhiều, chúng ta vào tâu cùng thánh thượng, hễ thánh thượng giao cho ai xử thì phải tuân hành.
Ba người đều không về dinh mà đi thẳng đến ngọ môn chờ cho đúng giờ vào triều kiến.
Bấy giờ hai tên nội thị chạy về cung báo với Địch thái hậu. Lộ Huê vương hay tin giận Địch Thanh và phàn nàn:
- Địch huynh thật là người lỗ mãng, ai đời ban đêm lại cầm gươm đến cửa bọn gian thần làm chi để đến nỗi bị chúng bắt như vậy thì còn gì danh dự.
Thái hậu nói:
- Con cũng không nên qua dinh Bàng Hồng và Tôn Tú làm chi. Hãy vào chầu và tâu hết sự tình cho thánh thượng nghe thì hay hơn.
Lộ Huê vương vâng lời liền mặc đồ triều phục, sẵn sàng chờ sáng thì vào chầu.
Sáng ngày Bàng Hồng vào chầu và tâu với vua:
- Đêm rồi hạ thần có gặp một tên lính trốn là Địch Thanh lại ăn trộm sắc phục của Lộ Huê vương mà mặc, cho nên tôi phải bắt về mà xét xử, nhưng Bao Chuẩn lại tranh giành việc xét xử ấy, nên tôi phải báo cho bệ hạ rõ.
Bao Công liền quỳ tâu:
- Vả Địch Thanh tuy là lính trốn nhưng đã bôi sổ rồi thì cũng như một tên dân thường. Xin bệ hạ cho tôi lãnh nó đem về tra hỏi.
Vua nói:
- Bất kỳ lính hay dân, cứ lấy theo luật, hễ giả mạo y phục của vương gia thì giao cho Bao khanh xử đoán mà thôi.
Bao Công cả mừng, vừa muốn tạ ơn, bỗng thấy có Lộ Huê vương bước ra tâu hết sự tích Địch Thanh trừ đặng long cu và Địch mẫu hậu nhìn nhận là cháu ruột.
Thiên tử nghe tâu làm lạ nghĩ thầm:
- Nếu Địch Thanh là đây là cháu của mẫu hậu thì là anh em cô cậu với trẫm rồi.
Nghĩ như vậy liền nói với Bàng Hồng:
- Bàng khanh không nên làm lếu, sao lại bắt người hoàng thân quốc thích mà gọi là lính trốn. Nếu mẫu hậu biết việc này thì khó lòng cho Bàng khanh lắm đó.
Bàng Hồng nghe nói thất kinh, không dám tâu thêm lời nào nữa. Còn Bao Công thấy vua quở Bàng Hồng thì mừng thầm:
- Nếu Địch Thanh là người thân thích với vua thì Bàng Hồng từ nay hết dám sanh chuyện rồi.
Vua truyền đòi Địch Thanh vào chầu. Địch Thanh vâng lệnh bước vào triều bái tung hô xong. Vua thấy Địch Thanh tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt thì mừng rỡ phán:
- Khanh hãy tỏ bày thân thế cho trẫm nghe thử?
Địch Thanh quỳ tâu hết lai lịch của mình.
Vua nghe xong phán:
- Thôi! Để trẫm phong vương vị cho khanh.
Địch Thanh tâu:
- Tuy bệ hạ có lòng đoái tưởng, song tôi chưa có công cán gì, nếu phong vương tước e văn võ bá quan dị nghị.
Lộ Huê vương thấy Địch Thanh không chịu lãnh phong thưởng thì khuyên rằng:
- Địch huynh! Ấy là ý của mẫu hậu đã dạy như vậy, không nên trái ý làm cho mẫu hậu buồn lòng.
Lời bàn:
Lời xưa có nói:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Tài và trí là hai yếu tố rất quan trọng trong việc xử thế. Nhưng kẻ có tài thường ỷ vào tài năng của mình mà không đề phòng tai hại có thể xảy ra.
Địch Thanh là một nhân tài, và ỷ vào tài năng mình mà hành động không kịp suy xét. Nếu không nhờ Địch thái hậu và Lộ Huê vương thì hành động của Địch Thanh không tránh khỏi âm mưu hãm hại của Tôn Tú và Bàng Hồng.
Cho nên việc đời mỗi hành động phải dè dặt, không nên ỷ tài mà hành động bừa bãi, đến lúc hối hận thì việc đã lỡ rồi. Đấy là bài học của người xưa để lại, tuy là chuyện không tưởng, nhưng chúng ta phải có đó làm gương mà xử thế cho hợp với hoàn cảnh mỗi lúc trong cuộc sống con người.