Tập 2 - Chương 5
Tác giả: Laura Ingalls Wilder
Sáng hôm sau, Laura và Mary thức dậy trước khi mặt trời mọc. Các cô ăn điểm tâm bằng xúp bắp với xốt gà gô và lật đật giúp Mẹ rửa chén dĩa. Bố chuyển mọi thứ lên xe rồi cột Pet và Patty vào xe.
Mặt trời vừa nhô lên, họ đã đang băng ngang đồng cỏ. Lúc này cũng không có con đường nào hết. Pet và Patty đạp tràn trên cỏ và cỗ xe kẻ dài phía sau những vệt bánh lẻ loi.
Gần trưa, Bố ra lệnh cho lũ ngựa:
- Hu-oa!
Cỗ xe ngừng lại, Bố nói:
- Đây rồi, Caroline. Mình sẽ dựng nhà tại đây.
Laura và Mary bò qua chiếc máng ăn nhảy ào xuống đất. Khắp xung quanh đều là đồng cỏ trải dài tới chân trời.
Tương đối gần về phía bắc là một trũng đất thấp nằm dưới đồng cỏ. Vài ngọn cây xậm màu nhô lên và sau những ngọn cây đó là nhiều vách đất dốc chận ngang thảm cỏ trên đồng. Xa xa về phía đông, một lớp cỏ khác nằm gẫy khúc trên đồng và Bố nói đó là sông.
Bố vừa nói vừa chỉ cho Mẹ:
- Sông Verdigris đó.
Rồi, Bố Mẹ khởi sự chuyển đồ đạc xuống xe. Mọi thứ đều chất đống trên mặt đất. Mui xe cũng được gỡ và đem phủ trên đống đồ đạc. Tới phiên thùng xe được tháo rời trước sự chăm chú theo dõi của Laura, Mary và Jack.
Từ lâu, cỗ xe đã là nhà của họ. Lúc này, nó chỉ còn trơ bộ khung và bốn vành bánh. Pet và Patty vẫn được cột vào dàn trước cỗ xe. Bố xách chiếc xô và cây rìu, leo lên ngồi trên bộ khung xe, lái đi. Bố lái thẳng xuống dưới đồng cỏ, khuất ngoài tầm nhìn.
Laura hỏi:
- Bố đang đi đâu vậy?
Mẹ đáp:
- Bố đi kiếm cây dưới khu đất trống.
Thật khác thường và dễ sợ khi bị bỏ lại giữa thảo nguyên mà không có một cỗ xe. Mặt đất và bầu trời bỗng như quá lớn và Laura thấy mình bé nhỏ hơn. Cô muốn chúi xuống nằm im giữa đám cỏ cao như một con gà gô nhỏ. Nhưng cô không thể làm vậy vì phải giúp Mẹ trong lúc Mary ngồi trên cỏ giữ bé Carrie.
Trước tiên, Laura và Mẹ sắp đặt giường ở dưới tấm bạt mui xe. Rồi Mẹ xếp lại đủ thứ hộp, thùng, gói trong lúc Laura rẫy sạch cỏ trên khoảnh đất trước lều bạt. Khoảnh đất này là chỗ nấu nướng. Nhưng phải chờ Bố mang củi về mới nhóm lửa được.
Không còn việc làm nên Laura đi quanh một chút, cô không đi xa khỏi lều bạt, nhưng lại tìm thấy một kiểu đường hang kì lạ ở trong cỏ mà nếu chỉ nhìn qua ngọn cỏ gợn sóng ở phía trên thì không thể nhận ra. Đó là một lối đi thẳng, hẹp len giữa chân những cọng cỏ. Nó kéo dài mãi vào đồng cỏ vô tận.
Laura đi theo một đoạn ngắn. Cô đi thật chậm, chậm hơn rồi dừng lại và cảm thấy kì quái. Thế là cô đảo ngược một vòng, vội vã chạy về. Nhìn xiên qua vai mình, cô không thấy có thứ gì khác. Nhưng cô vẫn hối hả chạy.
Lúc Bố ngồi trên một đống gỗ lái xe trở về, Laura nói ngay với Bố về lối đi đó. Bố bảo đã nhìn thấy từ hôm qua.
Bố nói:
- Đó là một lối đi cũ lắm rồi.
Đêm đó, bên đống lửa, Laura lại hỏi lúc nào cô sẽ thấy một em bé da đỏ, nhưng Bố nói không biết. Bố nói không bao giờ thấy người da đỏ, trừ phi họ muốn thấy mình. Bố đã thấy người da đỏ khi còn là một đứa trẻ ở bang New York, nhưng Laura chưa từng thấy bao giờ. Cô chỉ nghe nói đó là giống người man rợ với nước da màu đỏ và những cây rìu nhỏ của họ được gọi là tomahawk.
Bố biết rất nhiều loài hoang thú nên chắc phải biết về giống người man rợ. Laura nghĩ là vào một ngày nào đó Bố sẽ chỉ cho cô thấy một em bé da đỏ giống như khi Bố chỉ cho cô những con nai nhỏ, những chú gấu con và những bầy chó sói.
Bố đi kéo gỗ liên tục nhiều ngày, chất thành hai đống, một để làm nhà và một để làm chuồng ngựa. Một con đường bắt đầu thành hình nối với trũng đất thấp bên lạch suối. Về đêm, trong các sợi dây cột, Pet và Patty miệt mài gặm khiến đám cỏ xung quanh hai đống gỗ thành lưa thưa và cụt ngủn.
Bố khởi sự dựng nhà trước. Bố xoải bước trên mặt đất để đo độ dài rộng, rồi với chiếc xuổng, Bố đào các đường rãnh cạn dọc hai bên khoảnh đất vừa đo xong. Bố lăn hai khúc cây lớn nhất vào các đường rãnh này. Những khúc cây này rất bền chắc vì sẽ đỡ cả căn nhà và được gọi là đà dầm.
Chặt khớp xong, Bố lăn cho khúc cây lật úp xuống và các khớp gắn chặt khúc cây trên cây đà dầm.
Phần khung nền của ngôi nhà đã hoàn tất. Nó có bề cao bằng thân một khúc cây. Hai cây đà dầm chìm một nửa dưới đất và hai đặt ngang đầu chúng được ghép vừa khít để nằm ngay trên mặt đất. Tại góc giao tiếp các đầu cây, những khớp chặt giúp các đầu cây ghép lại vẫn không có độ dày hơn một thân cây. Và, dầu hai khúc cây đặt trên đà dầm lại lộ ra phần thân cây còn nguyên phía sau các khớp chặt.
Hôm sau Bố bắt đầu ghép vách. Từ mỗi phía, Bố lăn một khúc cây và chặt khớp hai đầu để ghép khít với đầu khúc cây nằm dưới. Rồi Bố lăn thêm hai khúc cây khác, chặt khớp hai đầu để ghép khít vào đầu hai khúc cây vừa được ghép. Lúc này, ngôi nhà đã có bề cao bằng hai thân cây.
Các khúc cây ghép với nhau rất chắc ở các góc. Nhưng không khúc cây nào hoàn toàn thẳng và tất cả đều có một đầu lớn, một đầu nhỏ nên dọc theo các bức vách có những khe hở. Chuyện này không đáng kể bởi Bố đã sắp xếp mở các khe hở kia.
Bố xoay xở một mình đưa bề cao ngôi nhà lên bằng ba thân cây. Rồi, Mẹ giúp Bố. Bố nhấc một đầu cây lên vách và Mẹ kìm đầu cây đó trong lúc Bố nhấc tiếp đầu kia. Bố đứng trên vách chặt khớp và Mẹ giúp lăn, đỡ khúc cây khi Bố ghép đặt vào đúng vị trí tạo một góc vuông hoàn hảo.
Cứ thế, khúc này này tiếp khúc cây khác, bức vách cao thêm mãi cho tới lúc cao ngang đầu Laura. Cô đã thấy mể vì đứng xem Bố Mẹ dựng nhà nên quay đi lùng sục trong đám cỏ cao. Đột nhiên cô nghe Bố hét lớn:
- Tránh mau! ở dưới tránh mau!
Một khúc cây nặng trịch đang trượt xuống. Bố cố kìm giữ một đầu để khúc cây không lăn trúng Mẹ. Bố không thể kìm nổi. Khúc cây lao xuống. Mẹ co người lại trên mặt đất.
Cô bé lao tới bên Mẹ gần như cùng một lúc với Bố. Bố quì xuống kinh hoảng gọi Mẹ và Mẹ nghẹn giọng:
- Em không sao.
Khúc cây đè trên một bàn chân Mẹ. Bố nhấc lên cho Mẹ rút chân ra. Bố sờ nắn trên người Mẹ coi có chỗ xương nào bị gãy.
- Đưa tay lên coi.
Bố nhấc và hỏi tiếp:
- Có bị va ở lưng không? Em xoay đầu được chứ?
Mẹ đưa tay lên và xoay đầu. Bố nói:
- Cảm ơn Chúa!
Bố giúp Mẹ ngồi thẳng dậy. Mẹ nhắc lại:
- Không sao đâu, Charles. Chỉ bị ở bàn chân thôi.
Bố vội tháo giầy và cởi vớ cho Mẹ. Bố xem xét khắp bàn chân Mẹ, lay động bàn chân, mu bàn chân và từng ngón chân. Bố hỏi:
- Đau nhiều không?
Mặt Mẹ xám ngoét, môi mím chặt. Mẹ nói:
- Không nhiều lắm.
Bố bảo:
- Xương không sao. Chỉ bị trặc gân một chút thôi.
Mẹ nói vui vẻ:
- Ô, bong gân thì mau lành. Đừng lo quá, Charles.
Bố nói:
- Lỗi tại anh. Lẽ ra anh nên làm dàn đỡ.
Bố đỡ Mẹ vào lều bạt. Bố nhóm lửa nấu nước. Khi nước nóng vừa mức, Mẹ ngâm bàn chân bị thương vào đó.
Đúng là do ý Chúa mà bàn chân Mẹ không bị dập nát. Chỉ nhờ một khe rãnh nhỏ trên mặt đất, bàn chân Mẹ đã được cứu thoát.
Bố chế thêm nước nóng vào thùng ngâm chân cho Mẹ. Hơi nóng làm chân Mẹ đỏ lên và chỗ mắt cá sưng phồng bắt đầu chuyển thành màu tím. Mẹ lấy bàn chân ra khỏi thùng nước và quấn nhiều vòng một dải vải quanh mắt cá chân. Mẹ nói:
- Em có thể xoay xở được.
Bàn chân đó của Mẹ không thể mang giầy. Nhưng Mẹ quấn thêm nhiều lớp vải xung quanh và lết đi cà nhắc. Mẹ vẫn lo cơm nước như thường lệ nhưng chậm chạp hơn. Nhưng Bố bảo Mẹ không thể giúp Bố dựng nhà cho tới khi mắt cá chân Mẹ lành hẳn.
Bố đẽo cây làm dàn đỡ. Đó là những tấm ván dài và mỏng. Một đầu ván chống trên đất còn đầu kia tựa vào bờ vách. Bố sẽ không còn phải nhấc một khúc cây nào vì tất cả được lăn trên dàn đỡ này.
Mắt cá chân Mẹ vẫn chưa lành. Chiều chiều, khi Mẹ mở băng ngâm chân trong nước nóng, chỗ đau vẫn nổi đủ thứ màu tím, đen, xanh, vàng. Ngôi nhà cứ phải nằm chờ.
Rồi, một buổi chiều, Bố trở về vừa đi ngược con đường nối với lạch suối vừa huýt gió vui vẻ. Cả nhà không ngờ Bố đi săn mà về sớm như vậy. Vừa thoáng thấy mọi người, Bố đã la lớn:
- Có tin vui!
Thì ra họ có một người hàng xóm chỉ ở cách khoảng hai dặm bên kia bờ lạch suối. Bố gặp ông ta trong rừng. Cả hai đã thoả thuận cùng giúp nhau để mọi công việc sẽ nhẹ hơn.
Bố nói:
- Anh ấy còn độc thân và nói có thể sống không có nhà, dễ hơn so với em và các cô bé gái. Vì thế, anh ấy tới giúp mình trước. Khi nào anh ấy dựng nhà, anh sẽ qua giúp lại.
Bố hỏi:
- Em thấy thế nào, Caroline?
Một cách vui vẻ, Mẹ đáp:
- Thật tốt, Charles. Em mừng lắm.
Ngay sáng sớm hôm sau, ông Edwards tới. Ông cao, gầy, da sậm nắng. Ông cúi chào Mẹ và gọi Mẹ bằng “bà” một cách lễ độ. Nhưng ông ấy nói với Laura rằng ông ấy là một con mèo hoang vùng Tennessee. Ông ấy mang đôi giầy ống cao, mặc chiếc áo cổ chui vá chằng chịt, đội nón da gấu và phun nước miếng xa tới mức Laura chưa hề tưởng tượng có một người làm nổi như thế. Ông ấy còn có thể phun nước miếng trúng bất cứ thứ gì ông ấy nhắm. Laura tập làm theo và tập hoài nhưng không bao giờ phun nổi nước miếng xa và chính xác như ông Edwards.
Ông ấy làm việc rất nhanh. Chỉ nội một ngày, ông ấy và Bố đã đưa các bức vách lên đúng tầm cao mà Bố ấn định. Cả hai nô giỡn, ca hát suốt buổi làm và những cây búa của họ làm bay tung các mảnh vụn.
Khung mái gồm những thanh gỗ mỏng đã được đặt trên các đầu vách. Rồi, trên bức vách phía nam, hai người cắt một khung trống cao làm cửa ra vào và trên hai bức vách phía đông, phía tây, họ khoét hai ô trống hình vuông để làm cửa sổ.
Laura không thể kéo dài thêm thời gian chờ đợi được nhìn thấy bên trong ngôi nhà. Ngay khi khung trống cao được cắt xong, cô chạy ào vào bên trong. Mọi thứ ở đây đều in sọc chằng chịt. Những sọc nắng xuyên qua các kẽ hở trên bức vách phía tây những sọc tối do bóng những thanh nẹp mỏng trên khung mái in xuống. Những sọc nắng và tối đó đều vắt trên bàn tay, cánh tay và những bàn chân trần của Laura. Và, qua các kẽ vách, cô có thể nhìn thấy nhiều vệt sọc trên đồng cỏ. Mùi thơm ngọt của cỏ hoà lẫn cùng thơm ngọt của gỗ mới được chặt ra.
Rồi, khi Bố cắt những khúc cây để mở ô cửa sổ trên bức vách phía tây, từng tảng lớn ánh nắng ùa vào. Lúc Bố hoàn tất công việc thì ngay trên nền đất giữa ngôi nhà nằm im một khối nắng.
Quanh khung cửa và các ô cửa sổ, Bố và ông Edwards đóng ép những tấm ván mỏng vào các đầu cây được cắt ra. Ngôi nhà đã xong, ngoại trừ trên mái. Các bức vách đều chắc chắn và nhà rộng, rộng hơn nhiều so với lều bạt. Đúng là một ngôi nhà xinh xắn.
Ông Edwards đòi đi về, nhưng Bố Mẹ nói ông phải ở lại dùng bữa. Mẹ đã nấu một bữa ngon đặc biệt cho ngày họ cùng nhau kết bạn.
Có món thịt thỏ hầm ăn với bánh bột hấp và rất nhiều nước xốt. Còn món bánh bột bắp dày dặn đang bốc hơi rất hợp khẩu vị ăn với mỡ heo ướp muối xông khói. Ăn kèm thêm với bánh bột bắp còn có mật mía, vì đây là bữa ăn họp mặt kết bạn nên không dùng mật mía pha cà phê. Mẹ lấy ra món đường trắng dự trữ từ một túi giấy nhỏ màu nâu nhạt.
Ông Edwards nói ông ấy chỉ còn biết ca ngợi bữa ăn này.
Rồi Bố mang đàn ra.
Ông Edwards nằm duỗi thẳng chân trên đất lắng nghe. Nhưng mở đầu, Bố đàn cho Laura và Mary. Bố đàn một bài các cô thích nhất và Bố hát theo. Laura thích bài này nhất vì giọng Bố cứ trầm xuống, trầm xuống nữa, trầm xuống hơn nữa theo nhịp hát:
Đức Vua phiêu lãng chính là Ta
Tênh tênh xuôi ngược khắp gần xa
Chiếc nón cũ mèm, đem quang xuống
Ôm trọn đất trời, vỗ bụng ca.
Tới đó, giọng Bố chuyển thành trầm, trầm xuống, trầm hơn cả giọng con ễnh ương già nhất:
- Đức Vua
phiêu
lãng
chính
là
TA!
Tất cả đều cười lớn, Laura khó khăn lắm mới ngưng cười nổi.
- Ô, hát lại đi, Bố! Hát lại đi!
Cô kêu lên trước khi sực nhớ là trẻ con thường bị canh chừng và không được nghe theo. Thế là cô nín thinh.
Bố tiếp tục đàn và mọi vật bắt đầu nhảy múa. Ông Edwards chống một khuỷu tay lên, rồi ngồi thẳng dậy, rồi phóng mình lên và bắt đầu nhảy múa. Ông như một con thỏ đang nhảy nhót dưới ánh trăng trong khi tiếng đàn của Bố vui nhộn ầm ĩ và một bàn chân Bố gõ nhịp trên mặt đất. Laura và Mary vỗ tay hoà theo trong lúc bàn chân các cô cũng gõ nhịp.
- Anh đúng là cây đàn điên cuồng nhất mà tôi được thấy.
Ông Edwards kêu lên với Bố một cách thán phục. Ông ấy không ngừng nhảy nhót còn Bố không ngưng đàn. Bố đàn bài Mùi Vị Tiền Bạc, bài Du Khách Arkansas, bài Cô Hầu Gái Ái Nhĩ Lan và bài Vũ Điệu Quỉ.
Bé Carrie không thể ngủ trong tiếng nhạc như thế. Bé ngồi dậy trong lòng Mẹ, mắt tròn xoe nhìn ông Edwards rồi vừa cười vừa vỗ vỗ hai bàn tay nhỏ xíu.
Ngay cả ngọn lửa cũng nhảy múa lôi cuốn tất cả những bóng đen xung quanh cùng nhảy múa theo. Chỉ riêng ngôi nhà mới vẫn đứng im lìm lặng lẽ giữa màn đêm cho tới khi mặt trăng vươn lên chiếu sáng những bức vách màu xám và dọi những vệt vàng bao bọc nó.
Ông Edwards bảo là ông ấy phải đi. Đường về chỗ ở của ông ấy khá xa, mãi mé rừng bên kia lạch suối. Ông ấy cầm cây súng chúc Laura, Mary và Mẹ ngủ ngon. Ông ấy bảo là một người độc thân thường thích cô đơn, nhưng ông ấy đoan chắc là rất vui với không khí gia đình trong buổi tối này.
Ông ấy nhắc:
- Đàn đi, Ingalls! Đàn tiễn tôi lên đường.
Thế là trong lúc ông ấy theo con đường dẫn xuống lạch suối rời xa dần, Bố vẫn đàn. Và Bố cùng ông Edwards và Laura cùng hát lớn:
Già Dan Tucker là ông già hoàn hảo
Già rửa mặt mình trong chiếc chảo
Già chải tóc mình bằng một bánh xe quay
Và tống cơn nhức răng xuống gót giày
Mau tránh đường cho già Dan Tucker tới
Già đã trễ giờ đi kiếm ăn bữa tối
Bữa ăn qua rồi, chén dĩa sạch trơn
Chẳng còn lại gì ngoài miếng bí cỏn con
Già Dan Tucker đã đi vào thành phố
Cưỡi trên lưng lừa, dắt theo chú chó lon ton
Vang xa trên đồng cỏ, giọng Bố oang oang có giọng Laura phụ hoạ và vẳng lại từ khu đất trũng bên kia lạch suối, những tiếng gào cuối cùng của ông Edwards:
Mau tránh đường cho già Dan Tucker tới
Già đã trễ giờ đi kiếm bữa ăn tối!
Khi Bố ngưng đàn, cả nhà không còn nghe thấy tiếng ông Edwards nữa. Chỉ có tiếng gió rì rào trong đồng cỏ. Mặt trăng vàng vành vạnh đang vươn lên thẳng đỉnh đầu. Bầu trời ngập tràn ánh sáng xoá nhoà các vì sao và khắp thảo nguyên chìm trong dịu dàng bí ẩn.
Từ rừng cây bên lạch suối, một con hoạ mi bắt đầu lên tiếng. Vạn vật im lìm lắng nghe. Con chim hót và hót liên tục. Gió se lạnh lồng lộng thổi qua đồng trống và tiếng hoạ mi trong trẻo lượn vòng trên tiếng cỏ rì rào. Bầu trời như một chiếc đĩa sáng khổng lồ úp trên mặt đất phẳng lì đen đặc.
Tiếng chim hót ngưng bặt. Không một cử động hay lên tiếng. Laura và Mary lặng lẽ còn Bố và Mẹ ngồi không nhúc nhích. Chỉ còn tiếng gió lao xao và thảm cỏ thở dài. Rồi Bố đặt cây đàn trên vai chạm nhẹ chiếc vĩ trên mấy sợi dây. Vài nốt nhạc như những giọt nước trong veo rơi vào sự im lìm. Ngưng lại một giây, rồi Bố đàn lại điệu hót của con họa mi. Con họa mi lập tức đáp lại lời Bố. Nó bắt đầu lên tiếng hót trở lại. Tiếng chim hót hoà theo tiếng đàn của Bố.
Khi những dây đàn im tiếng, con hoạ mi tiếp tục hót. Nếu nó ngưng lại, cây đàn lại mời gọi và nó lập tức hót theo. Con chim và cây đàn như đang cùng nhau tâm sự dưới ánh trăng trong đêm lạnh.