watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Chim Ó Biển (The Seahawk)-P2-Chương 22 - tác giả Rafael Sabatini Rafael Sabatini

Rafael Sabatini

P2-Chương 22

Tác giả: Rafael Sabatini

Trên lối đi dọc thân tàu giữa hai dãy nô lệ vang lên tiếng bước chân vội vã. Ali, người đã thay thế Larocque trên đỉnh đồi, bất thần lao lên boong đuôi hét lớn.
« Thuyền trưởng ! Thuyền trưởng ! Chúa công ! Dậy mau, nếu không chúng ta nguy mất ! »
Suốt dọc thân tàu vang lên tiếng lục đục ồn ào của đám cướp biển đang trở dậy. Một giọng cấp báo hoảng hốt vang lên đâu đó phía boong mũi. Rồi đám đông nhốn nháo dạt sang hai bên, đích thân Asad xuất hiện với Marzak bám theo sau.
Từ phía mũi tàu Biskaine và Othmani cũng hối hả chạy lại, cũng như Vigitello và Jasper – gã cải đạo mới nhất - từ giữa thân tàu cùng một đám cướp biển đang hốt hoảng.
« Giờ lại có chuyện gì nữa đây ? » Basha hỏi.
Ali vừa báo tin vừa hổn hển thở không ra hơi. « Chiếc galleon đã nhổ neo. Nó đang rời khỏi vịnh. »
Asad nắm chặt lấy chòm râu hầm hừ. « Chẳng lẽ sự có mặt của chúng ta tại đây đã bị chúng phát hiện ? »
« Nếu không tại sao nó lại đột ngột nhổ neo vào giữa đêm khuya như vậy ? » Biskaine nói.
« Nếu không thì tại sao, quả vậy ? » Asad lặp lại, rồi quay người về phía Oliver đang đứng trước ngưỡng cửa vào khoang đuôi. « Ngươi nghĩ sao, Sakh el Bahr ? » đức ông hỏi chàng cướp biển.
Sakh el Bahr bước lại gần, nhún vai. « Có gì để nói đây ? Cần phải làm gì đây ? » chàng hỏi. « Chúng ta chỉ có thể đợi. Nếu sự có mặt của chúng ta bại lộ thì quả là chúng ta đã gọn gàng trong bẫy, và tối nay sẽ là màn kết với tất cả chúng ta. »
Giọng nói của chàng lạnh như băng, gần như khinh khỉnh, và trong khi nó khiến không ít kẻ lắng nghe lo lắng thì nó làm Marzak phát hoảng.
« Cầu cho xương cốt mi mục ruỗng ra, đồ tiên tri độc miệng ! » cậu thiếu niên gào lên, và đã định thêm nữa nhưng Sakh el Bahr đã cắt lời cậu ta.
« Cái gì đã được tiền định đã được tiền định ! » chàng đáp lại lớn tiếng với vẻ chê trách.
« Quả vậy, quả vậy, » Asad đồng ý, bám lấy sự an ủi mê tín, « nếu chúng ta được dành cho người làm vườn, người làm vườn sẽ trảy chúng ta. ».
Ít cuồng tín và thực tế hơn là lời khuyên của Biskaine.
« Tốt nhất nên hành động theo giả thiết rằng chúng ta đã bị phát hiện, và lập tức ra khơi trong khi vẫn còn chưa muộn. »
« Nhưng làm thế sẽ khiến điều mới chỉ là nghi ngờ trở nên chắc chắn, » Marzak chen vào, run sợ hơn lúc nào hết. « Làm thế có nghĩa là chạy đi đón nguy hiểm. »
« Không phải thế ! » Asad lớn tiếng đầy tin tưởng. « Tạ ơn Allah đã cho chúng ta một đêm lặng gió. Hầu như không có lấy một làn gió nhẹ. Chúng ta có thể chèo được mười dặm trong lúc chúng chỉ có thể đi được một dặm bằng buồm. »
Một tràng lầm rầm tán thưởng lan rộng trong đám sĩ quan và thuỷ thủ.
« Chỉ cần chúng ta thoát được an toàn qua đoạn thắt cổ chai và chúng sẽ không bao giờ bắt kịp được chúng ta, » Biskaine lên tiếng.
« Nhưng đại bác của chúng thì có thể, » Sakh el Bahr bình thản góp ý để làm nguội bớt sự tự tin của đám cướp bỉên. Đầu óc linh hoạt của chàng cũng đã nhìn ra một cơ hội như vậy để thoát khỏi cạm bẫy, nhưng chàng đã hy vọng nó không hiển nhiên đến thế với những kẻ khác.

« Đó là sự mạo hiểm chúng ta cần chấp nhận, » Asad đáp. « Chúng ta cần đặt niềm tin vào bóng tối. Chùng chình ở đây sẽ là chờ đợi sự huỷ diệt chắc chắn. » Đức ông ra lệnh cho đám sĩ quan. « Ali, tập hợp những kẻ cầm lái lại. Khẩn trương lên ! Vigitello, hãy dùng chiếc roi của ngươi đánh thức bọn nô lệ dậy. » Sau đó, trong lúc tiếng còi hiệu của gã quản vang lên và những chiếc roi của đám thủ hạ của gã rít không khí quất xuống lưng đám nô lệ vẫn còn chưa tỉnh ngủ lẫn với những tiếng động khác vang lên từ khắp chiếc tàu, Basha lại quay về phía Biskaine. « Ngươi hãy đi lên mũi tàu, » đức ông ra lệnh, « và chỉ huy người của ta. Lệnh cho chúng sửa soạn vũ khí sẵn sàng cho trường hợp kẻ địch áp mạn. Đi ngay ! » Biskaine cúi chào và chạy đi. Giữa những tiếng động ồn ào của cuộc chuẩn bị, tiếng Asad vang lên sang sảng.
« Lính bắn nỏ,lên cột buồm ! Pháo thủ tới các khẩu súng ! Sửa soạn sẵn sàng ! Tắt hết ánh sáng ! »
Chỉ lát sau ngọn đèn đêm trên boong đuôi đã được dập tắt, ngay cả ngọn đèn đặt trong khoang đuôi cũng bị một sĩ quan của Basha chạy vào dập đi. Chỉ ngọn đèn treo ở cột buồm được chừa lại phòng khi khẩn cấp ; nhưng nó được hạ xuống đặt trên mặt boong và che lại.

Thế là chiếc galeasse chìm vào bóng đêm tối đen như mực. Rồi sau đó, khi mắt người đã dần dần làm quen với bóng tối, màn đêm trở nên lờ mờ. Một lần nữa người ta lại có thể nhận ra hình dáng của người và vật trong buổi tối mùa hè.
Sau lúc hỗn loạn ban đầu, đám cướp biển chiếm lĩnh vị trí của mình với sự yên lặng và bình tĩnh đáng kinh ngạc. Không kẻ nào nghĩ đến việc trách cứ Basha và Sakh el Bahr vì đã trì hoãn cho tới tận giây phút cận kề hiểm nguy này mới làm theo biện pháp mà tất cả bọn chúng đã yêu cầu thực hiện ngay khi chúng nghe nói tới sự có mặt gần đó của chiếc tàu thù địch. Xếp thành hàng ba, chúng đứng theo đội hình chiến đấu dọc hai bên mạn từ mũi tới đuôi ; ở hàng đầu là lính bắn nỏ, phía sau là bọn lính cận chiến, vũ khí tuốt trần lóe sáng trong màn đêm. Chúng đứng chen đầy hai bên mạn và trèo lên trên giằng ngang của cột buồm. Trên boong đuôi, ba gã pháo thủ đứng cạnh mỗi khẩu pháo nhỏ trong số hai khẩu đặt ở đó, khuôn mặt của chúng hơi sáng lên dưới ánh sáng của những chiếc bùi nhùi đã được thắp.

Asad đứng phía trước đám tuỳ tùng, ra những mệnh lệnh ngắn gọn bằng giọng nghiêm nghị, và Sakh el Bahr, đứng sau lưng đức ông, tựa người vào vách gỗ của khoang đuôi với Rosamund ở sát bên, quan sát thấy rằng Basha đã cẩn trọng tránh không trao một trọng trách nào cho chàng trong cuộc chuẩn bị.
Những gã thuỷ thủ cầm lái đã chèo vào vị trí, và những mái chèo dùng lái tàu kêu lên cọt kẹt. Một mệnh lệnh ngắn của Asad vang lên, và cả đám nô lệ đồng loạt cử động, cúi người về phía trước để nâng mái chèo lên. Một lát sau, rồi một mệnh lệnh nữa vang lên, tiếng roi quất vang lên khô khốc trong màn đêm dọc thân tàu, và chiếc trông giữ nhịp bắt đầu vang lên đều đều. Đám nô lệ ngả người lại sau, và trong tiếng mái chèo đập nước, chiếc galeasse to lớn tiến lên phía trước hướng về phía lối ra thắt cổ chai.
Đám quản đi đi lại lại dọc lối đi giữa thân tàu, vung roi quất không thương tiếc để thúc giục đám nô lệ dồn hết sức lực. Chiếc tàu lao nhanh dần. Lối ra có vẻ mỗi lúc một rộng hơn khi họ tiến lại gần. Phía ngoài trải rộng mặt biển tối sẫm bình yên lặng sóng.
Rosamund căng thẳng đến mức hầu như nín thở. Cô thiếu nữ đặt một tay lên vai Sakh el Bahr.
« Liệu chúng ta có bỏ xa họ không ? » nàng thì thẩm hỏi với giọng run rẩy.
« Tôi cầu mong là không, » chàng trả lời. « Nhưng đó chính là điều tôi e ngại. Hãy nhìn xem ! » chàng kêu lên, đưa tay ra chỉ.
Họ đã vượt qua mũi doi đất. Họ đã ra khỏi vũng biển, và bất thình lình hai người nhìn thấy hình dáng tối sẫm của chiếc galleon, nổi lên với chừng vài chục đốm sáng rải rác, về phía mạn trái của họ.
« Nhanh nữa ! » Asad quát lớn. « Hãy chèo vì mạng sống của chúng mày, đồ lợn tà đạo ! Hãy quất không thương tiếc xuống chúng ! Bắt đám chó đó gập người xuống mà chèo, và bọn Anh sẽ không bao giờ bắt kịp chúng ta ! »
Những ngọn roi rít lên quật xuống ở dưới thân tàu, được đáp lại bằng những tràng rên rỉ của đám nô lệ bị hành hạ, những người này vốn đã dốc đến chút sức lực cuối cùng trong cố gắng tàn khốc khiến họ xa dần khỏi cơ hội được giải thoát và lấy lại tự do. Chiếc trống giữ nhịp vang lên mỗi lúc một gấp hơn, và cũng gấp gáp hơn là tiếng mái chèo đập nước và nhịp thở hổn hển đau đớn của những kẻ chèo thuyền.
« Giữ nhịp ! Giữ nhịp ! » Asad quát lên tàn nhẫn. “Hãy cứ để chúng cháy phổi – dù sao thì cũng chỉ là những lá phổi tà đạo - chỉ cần chúng giữ vững nhịp chèo hiện tại trong một giờ nữa.”
“Chúng ta đang bứt ra xa!” Marzak reo lên mừng rỡ. “Tạ ơn Allah!”
Quả đúng như vậy. Ánh sáng hắt lại từ chiếc galleon mờ dần. Cho dù đã giương hết buồm, nó vẫn có vẻ như đứng im lìm vì gió lúc đó quá yếu. Và trong lúc chiếc galleon chững lại, chiếc galeasse vùn vụt lao đi với tốc độ chưa từng có kể từ khi Sakh el Bahr chỉ huy nó, vì Sakh el Bahr chưa bao giờ quay lưng lại phía kẻ thù cho dù có mạnh đến đâu.
Bất thần một tiếng quát lớn ra lệnh dừng lại vọng tới từ phía chiếc galleon. Asad phá lên cười, và trong bóng tối ông ta giơ nắm đấm về phía đối phương mà nguyền rủa nhân danh Allah và đấng tiên tri. Thế rồi, để trả lời cho tràng nguyền rủa của đức ông, mạn chiếc galleon loé lửa; màn đêm yên tĩnh bị xé toang bởi tiếng đại bác gầm vang, và một vật gì đó đập nước ngay trước mũi chiếc tàu Hồi giáo làm vọt lên một cột nước.
Lo sợ, Rosamund nép sát hơn vào Sakh el Bahr. Nhưng Asad lại phá lên cười.
“Không cần phải e ngại tài thiện xạ của chúng,” ông ta lớn tiếng. “Chúng không thể thấy chúng ta. Ánh sáng của chính chúng sẽ làm chúng loá mắt. Tiếp tục chèo! chèo!”
“Ông ta có lý,” Sakh el Bahr nói. “Nhưng sự thật là vì họ không dám bắn chìm chúng ta vì họ biết em đang ở trên tàu.”
Cô thiếu nữ nhìn ra phía biển, và nhận thấy ánh sáng của chiếc tàu bạn bè mỗi lúc một xa dần về phía đuôi tàu.
“Chúng ta đang bỏ xa họ,” cô kêu lên khổ sở. “Giờ thì họ không thể đuổi kịp chúng ta nữa.”
Chính Sakh el Bahr cũng e sợ điều này. Hơn thế nữa. Chàng biết rõ trừ khi có phép lạ nào đó khiến gió đột ngột thổi mạnh, kết quả sẽ như cô thiếu nữ vừa nói. Và từ tình thế tuyệt vọng chợt nảy ra một quyết định - một quyết định cũng tuyệt vọng như chính hoàn cảnh đã làm nảy sinh ra nó.
“Có một cơ hội,” chàng nói với cô gái. “Nhưng đó sẽ là đặt cược cái sống và cái chết vào một lần gieo xúc xắc.”

“Vậy hãy nắm lấy nó,” nàng trả lời lập tức. “Cho dù vận may có chống lại chúng ta, chúng ta cũng sẽ không phải là kẻ thua thiệt.”

“Em đã sẵn sàng đón nhận mọi chuyện rồi chứ?” chàng hỏi lại nàng.
“Chẳng phải em đã nói là đêm nay em sẵn sàng theo anh xuống vực thẳm sao? Đừng phí thời gian vào lời nói nữa!”
“Sẽ như vậy,” chàng nghiêm nghị nói, bước đi một bước rồi dừng lại. “Tốt nhất em nên đi theo tôi,” chàng nói.
Cô thiếu nữ ngoan ngoãn đi theo, và một số kẻ có mặt trố mắt ra nhìn hai người đi dọc xuống thân tàu, thế nhưng không kẻ nào cản trở cô gái. Lúc này chúng đã có quá đủ chuyện để bận tâm.
Chàng cướp biển mở ra một con đường cho cô thiếu nữ theo sau, vượt qua đám cai đứng trên đám nô lệ đang tàn nhẫn vung roi thúc giục, và cứ như thế dẫn cô đến giữa thân tàu. Tới đây chàng cầm lấy chiếc đèn đã bị che lại vẫn còn thắp sáng, và vừa nhìn thấy ánh đèn loé sáng lên, Asad gầm lên ra lệnh dập tắt nó đi lập tức. Nhưng Sakh el Bahr chẳng hề đoái hoài gì đến mệnh lệnh này. Chàng bước tới bên cột buồm chính, nơi các thùng thuốc súng đã được xếp. Một thùng đã được mở sẵn phòng khi đám pháo thủ cần đến. Nắp thùng chưa lật ra đậy hờ phía trên. Sakh el Bahr hất chiếc nắp ra; sau đó chàng nhấc lồng đèn lên, và hạ ngọn lửa trần xuống ngay sát thùng thuốc súng.
Một tiếng la hoảng bật lên từ những kẻ đã theo dõi hành động của chàng. Nhưng át đi tất cả là một giọng nghiêm trang lạnh lùng ra lệnh:
“Dừng chèo ngay!”
Chiếc trống giữ nhịp im bặt, nhưng đám nô lệ theo đà vẫn chèo thêm một nhịp nữa.
“Dừng chèo!” chàng cướp biển lại ra lệnh lần nữa. “Asad!” chàng gọi. “Lệnh cho chúng dừng lại, nếu không tôi sẽ gửi ngài lập tức đi gặp Shaitan.” Và chàng hạ ngọn đèn xuống cho tới khi nó nằm ngang miệng thùng thuốc súng đã mở toang.
Lập tức các mái chèo dừng lại. Nô lệ, cướp biển, các sĩ quan, và cả chính Asad cùng sững người bất động, tất cả chăm chăm nhìn vào khuôn mặt lạnh lùng được chiếu sáng bởi ngọn đèn, lúc này đang đe doạ huỷ diệt tất cả bọn họ. Một vài kẻ hẳn cũng thoáng nghĩ tới việc lao vào chàng; nhưng nỗi sợ hãi đã giữ chân chúng lại, e ngại rằng chỉ cần một cử động về phía chàng cướp biển có thể đẩy nhanh hơn vụ nổ sẽ gửi tất cả chúng sang thế giới bên kia.
Cuối cùng Asad nói với chàng cướp biển, giọng ông ta run lên vì căm tức.
“Cầu Allah quật chết mi đi! Mi bị quỷ ám rồi chăng?”
Marzak, đứng bên cạnh cha, đặt một mũi tên lên chiếc nỏ cậu ta vừa vớ lấy. “Tại sao tất cả các người cứ đứng đực ra mà nhìn như thế?” cậu ta hét lớn. “Chém chết hắn đi!” Vừa nói cậu này vừa giương nỏ lên. Nhưng người cha cản ông con trai lại, biết quá rõ kết quả tất yếu sẽ theo sau.
“Nếu có ai bước một bước lại gần tôi, chiếc đèn này sẽ rơi thẳng vào thùng thuốc súng,” Sakh el Bahr nghiêm giọng. “Còn nếu ngươi bắn ta như ngươi định làm, Marzak, kết quả cũng sẽ tương tự. Hãy biết điều, trừ khi các người nóng lòng muốn thấy thiên đường của đấng tiên tri đến vậy.”
“Sakh el Bahr!” Asad hét lớn, và từ căm giận giọng đức ông chuyển sang đấu dịu. Đức ông đưa tay làm ra vẻ cầu khẩn về phía viên thuyền trưởng mà số phận ông ta đã thầm kết án. “Sakh el Bahr, ta van ngươi hãy vì bánh mì và muối chúng ta đã cùng chia sẻ mà trở lại tỉnh táo, hỡi con trai của ta.”
“Tôi hoàn toàn tỉnh táo,” câu trả lời vang lên, “và chính vì thế tôi không có tâm trí nào chấp nhận số phận dành cho tôi tại Algiers – cũng để tưởng nhớ chính thứ bánh mì và muối đó. Tôi không có hứng thú quay về cùng ngài để bị treo cổ hay bị xích vào mái chèo lần nữa.”
“Nếu ta thề với ngươi rằng sẽ không có gì tương tự xảy ra thì sao?”
“Thì ông sẽ nuốt lời sau đó. Tôi không tin ông nữa, Asad. Vì ông đã tự chứng minh mình là một gã ngốc, và trong cả đời mình tôi chưa bao giờ tìm thấy gì hay ho ở một gã ngốc và không bao giờ tin chúng - trừ có một lần, và hắn ta đã phản bội tôi. Hôm qua tôi đã cầu khẩn ông, chỉ cho ông thấy con đường khôn ngoan nhất nên theo, và cho ông cơ hội. Chỉ với một hy sinh nho nhỏ ông đã có thể có tôi trong tay và treo cổ tôi theo hứng thú. Tôi đã đề nghị trao chính mạng sống của mình cho ông, và bất chấp ông hiểu điều đó, ông đã không hiểu được rằng chính tôi cũng ý thức được nó.” Chàng bật cười. “Hãy xem xem ông là một gã ngốc đáng thương hại ra sao? Sự tham lam của ông đã huỷ diệt chính ông. Hai bàn tay của ông muốn vơ lấy nhiều hơn chúng có thể giữ được.Giờ hãy mở mắt ra nhìn hậu quả. Nó đang tới cùng chiếc galleon đang áp sát lại từ từ nhưng mỗi lúc một gần kia.”
Từng lời nói như ngấm vào óc Asad khiến ông ta vỡ lẽ một cách muộn mằn. Ông ta vung tay lên trong cơn căm tức và tuyệt vọng. Thuỷ thủ đoàn đứng im lặng ngỡ ngàng, không dám động đậy chân tay, e ngại sẽ đẩy nhanh hơn giờ phút tận số của mình.
“Hãy nói giá của ngươi,” cuối cùng Basha lên tiếng, “và ta xin thề có chòm râu của đấng tiên tri nó sẽ được trả cho ngươi.”
“Ta đã ra giá hôm qua, nhưng nó đã bị từ chối. Ta đã đề nghị giao nộp sự tự do và mạng sống của mình nếu cần thiết để đổi lấy tự do cho một người khác.”
Nếu chàng cướp bỉên quay lại nhìn sau lưng mình, hẳn chàng sẽ thấy đôi mắt Rosamund vụt sáng lên, khuôn ngực cô thở gấp, những dấu hiệu sẽ cho chàng thấy rõ những gì chàng vừa nói không có gì bí ẩn mà ngược lại cô thiếu nữ đã hiểu.
“Ta sẽ làm cho ngươi giàu có và được trọng vọng, Sakh el Bahr,” Asad gấp gáp nói tiếp. “Ngươi sẽ như con trai của ta. Chức Basha cũng sẽ thuộc về ngươi khi ta nhắm mắt xuôi tay, và cho tới khi đó tất cả sẽ kính trọng ngươi như chính ta vậy.”
“Ta không phải để bán, hỡi Asad hùng mạnh. Ta chưa bao giờ là vậy. Ông đã quyết khép ta vào chỗ chết. Ông có thể làm vậy lúc này, với điều kiện uống chung cùng một cốc với tôi. Những gì được tiền định đã được tiền định. Chúng ta đã cùng nhau đánh chìm nhiều tàu địch trước đây, Asad. Đến lượt mình chúng ta sẽ cùng nhau chìm xuống biển như ông muốn. »
« Cầu cho ngươi muôn đời bị thiêu đốt trong hoả ngục, đồ tim đen bội phản ! » Asad nguyền rủa chàng, cơn giận đã phá bung mọi sự kiềm chế của ông ta.
Thế rồi, trước sự thừa nhận thất bại của Basha, một tràng cầu khẩn kêu gọi chợt bật ra từ thuỷ thủ đoàn. Những con ó biển của Sakh el Bahr kêu gọi chàng hãy nhớ lại tình cảm và sự trung thành chúng dành cho chàng, và hỏi chàng liệu chàng có thể đáp lại bằng cách đẩy chúng đến chỗ bị huỷ diệt hay không.
« Hãy tin vào ta ! » chàng trả lời chúng. « Ta chưa bao giờ dẫn các người tới gì khác ngoài chiến thắng. Hãy tin chắc rằng lúc này ta sẽ không dẫn các người tới thất bại – trong lần cuối cùng chúng ta sát cánh bên nhau. »
« Nhưng chiếc galleon đã bắt kịp chúng ta rồi ! » Vigitello kêu lên. Và quả đúng vậy, chậm chạp tiến lại gần theo làn gió nhẹ, thành mạn cao của chiếc galleon hiện lên sừng sững phía trên chúng, mũi chiếc tàu hướng tới chặn đầu mũi chiếc galeasse. Chỉ một khoảnh khắc sau nó đã áp mạn bọn cướp, với tiếng va chạm rầm rầm và tiếng hô đắc thắng của các thuỷ thủ Anh đứng dọc mạn tàu, những chiếc móc sắt được tung xuống bám lấy mũi, sườn và đuôi chiếc tàu hải tặc. Những chiếc móc vừa được giữ chặt lại là một làn sóng người mặc áo giáp ào ạt tràn sang chiếc galeasse, và đến lúc này ngay cả nỗi sợ gây ra bởi chiếc đèn đang ghé sát thùng thuốc súng cũng không thể ngăn cản được bọn cướp biển đón tiếp những kẻ lao sang áp mạn với sự nồng nhiệt chúng luôn dành cho quân tà giáo. Trong chớp mắt cuộc chiến bùng lên dữ dội trên boong mũi, cảnh tượng địa ngục của bãi chiến trường được soi sáng bởi ánh sáng lờ mờ hắt sang từ chiếc Én Bạc. Trong số những người đầu tiên lao sang chiếc tàu cướp biển có Lionel và Sir John Killigrew. Trong số những kẻ đầu tiên lao tới đón chặn họ có Jasper Leigh, lão này đã đâm suốt thanh kiếm của mình qua người Lionel ngay khi chân gã vừa kịp đặt xuống mặt boong, thậm chí trước khi trận đánh thực sự bắt đầu.
Chừng một tá người khác ngã xuống ở mỗi phía trước khi tiếng hô lớn của Sakh el Bahr khiến cuộc chiến dừng lại, trước khi lệnh cho mọi người dừng tay để nghe chàng nói được tuân theo.
« Dừng lại ! » chàng ra lệnh cho những con ó biển của mình bằng lingua franca. « Lùi lại, để chuyện này cho ta. Ta sẽ giải thoát các người khỏi kẻ địch này. » Rồi bằng tiếng Anh chàng quay sang kêu gọi những người đồng hương của mình dừng tay. « Sir John Killigrew ! » chàng cao giọng gọi. « Dừng tay cho đến khi đã nghe tôi nói hết! Gọi người của ngài trở lại, không để thêm người nào sang mạn nữa! Dừng lại cho đến khi đã nghe tôi nói hết, sau đó hãy làm như ngài muốn.”
Sir John, nhận ra chàng đang đứng bên Rosamund cạnh cột buồm chính, lập tức đi tới kết luận không thể tránh khỏi là chàng định đe doạ tính mạng cô gái, thậm chí sát hại cô nếu người của ông tiếp tục tiến lên, liền lao tới phía trước thủ hạ của mình để ngăn họ lại.
Thế ra trận đánh kết thúc cũng đột ngột như khi nó bắt đầu.
“Mi có gì để nói đây, đồ chó bội giáo?” Sir John hỏi.
“Điều này. Sir John, trừ khi ngài ra lệnh cho người của mình quay lại tàu của ngài, và thề sẽ không tiếp tục đuổi theo nữa, tôi sẽ lôi ngài xuống địa ngục với chúng tôi lập tức. Tôi sẽ vứt chiếc đèn này vào thuốc súng, chúng tôi chìm và các ngài cũng sẽ chìm theo, bị giữ chặt bởi những móc bám của chính các ngài. Làm theo lời tôi và ngài sẽ có tất cả những gì ngài tới tìm trên chiếc tàu này. Tiểu thư Rosamund sẽ được trao trả lại cho ngài.”
Sir John nhìn chằm chằm vào chàng cướp bỉên hồi lâu, cân nhắc. Rồi ...
“Cho dù không chuẩn bị thương lượng với mi,” ông tuyên bố, “nhưng ta sẽ chấp nhận những điều kiện mi đưa ra, nhưng chỉ khi ta thực sự nhận được tất cả những gì ta tới đây tìm kiếm. Trên boong chiếc tàu này có một con chó bội giáo đê tiện mà ta bị ràng buộc bởi lời thề của một hiệp sĩ rằng ta sẽ bắt sống và treo cổ y. Cả y cũng phải được giao nộp cho ta. Tên y là Oliver Tressilian.”
Câu trả lời vang lên lập tức không chút chần chừ -- “Cả hắn tôi cũng sẽ trao lại cho ngài với điều kiện ngài thề rằng sau đó ngài sẽ rút lui và không gây hại gì thêm cho chúng tôi nữa.”
Rosamund nín thở níu chặt lấy cánh tay Sakh el Bahr, cánh tay đang giữ ngọn đèn.
“Cẩn thận đấy, quý tiểu thư,” chàng nghiêm giọng nói với nàng,” nếu không em sẽ huỷ diệt tất cả chúng ta đấy.”
“Thà thế còn hơn!” cô thiếu nữ đáp.
Thế rồi Sir John hứa với chàng rằng một khi Rosamund được trao trả và chính chàng chịu nộp mình, ông sẽ rút lui không gây thêm tổn hại gì cho bọn cướp biển nữa.
Sakh el Bahr quay lại phía bọn cướp biển đang chờ đợi, và thuật lại vắn tắt cho chúng điều kiện chàng đã điều đình.
Chàng yêu cầu Asad thề rằng những điều kiện đó sẽ được tôn trọng, và sẽ không có thêm đổ máu xảy ra từ phía ông ta, và Asad trả lời chàng, thể hiện hết sự căm tức của ông ta trước sự phản bội của chàng cướp biển.
“Vì hắn ta đã muốn có mi để treo cổ mi lên, hắn ta cứ việc bắt mi và giúp chúng ta đỡ phải ra tay, vì sự phản bội của ngươi cũng xứng đáng bị trừng phạt tương tự từ phía chúng ta.”
“Vậy thì tôi đầu hàng,” chàng thông báo với Sir John, và vứt chiếc đèn qua mạn tàu.
Chỉ có một giọng nói cất lên bảo vệ chàng, và đó là giọng nói của Rosamund. Nhưng giọng nói yếu ớt đó cũng nhanh chóng im lặng, bị khuất phục bởi sự kiệt sức. Cú sốc cuối cùng thêm vào tất cả những thứ cô gái phải chịu đựng trong vài ngày trước đó đã lấy đi toàn bộ sức lực của nàng. Gần như ngất đi, nàng khuỵu xuống đổ người về phía Sakh el Bahr trong khi Sir John và vài người tiến lại đỡ lấy nàng và trói người tù binh lại.
Đám cướp biển im lặng đứng nhìn; lòng trung thành với người thuyền trưởng oai hùng mà chúng đáng ra sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ đã bị sụp đổ bởi hành động phản bội của chàng khiến chiếc tàu Anh đuổi kịp chúng. Thế nhưng khi chúng nhìn thấy chàng bị trói lại và kéo lên boong chiếc Én Bạc, bất thần một phản ứng bùng lên trong hàng ngũ của chúng. Những thanh scimitar vung lên cùng những tiếng hò hét đe doạ. Nếu chàng đã phản bội chúng, ít nhất chàng đã cố gắng để chúng không bị thiệt hại bởi sự phản bội đó. Và đó là hành động xứng đáng với Sakh el Bahr mà chúng đã biết và yêu mến; xứng đáng đến mức tình cảm và lòng trung thành của chúng vụt trở lại trọn vẹn như trước.
Nhưng giọng nói của Asad đã vang lên nhắc cho chúng nhớ những gì chàng cướp biển đã hứa vì chúng, và vì chỉ giọng nói của Asad có thể sẽ không đủ để dập đi ngọn lửa phản kháng vừa bùng lên, vọng xuống tai bọn cướp biển là giọng nói của Sakh el Bahr lần cuối cùng ra lệnh cho chúng.
“Hãy nhớ và tôn trọng các điều kiện ta đã điều đình vì các người! Mektub! Mong Allah che chở và phù trợ cho các người!”
Trả lời chàng là một tràng than vãn, và cùng với những tiếng than vãn vọng tới tai chàng để cam đoan với chàng rằng chàng sẽ không ra đi mà không được nuối tiếc, Sakh el Bahr bị lôi đi để chuẩn bị cho đoạn kết của chàng.
Dây của các móc bám được cắt đứt, và chiếc galleon từ từ lùi dần vào bóng tối, để chiếc galley ở lại, thay thế các nô lệ bị tổn thương trong cuộc giao tranh rồi quay mũi về hướng Algiers, huỷ bỏ cuộc tập kích chiếc tàu Tây Ban Nha.
Dưới mái che trên boong đuôi, lúc này Asad ngồi như một người vừa bừng tỉnh khỏi một cơn ác mộng. Ông ôm lấy đầu và khóc than một người đã như đứa con trai với ông, người đó đức ông đã để mất bởi chính sự điên rồ của mình. Ông ta nguyền rủa tất cả đàn bà trên đời, nguyền rủa số phận; nhưng những lời nguyền rủa cay độc nhất ông dành cho chính bản thân mình.
Trong ánh bình minh, bọn cướp quẳng các tử thi xuống biển và lau rửa boong tàu, chúng không hề nhận ra đã có một kẻ trong bọn mất tích, một việc hẳn sẽ chứng tỏ viên thuyền trưởng người Anh, hoặc thủ hạ của ông ta, đã không tuân thủ chính xác điều khoản của thoả thuận.
Bọn cướp biển buồn rầu trở về Algiers- Chúng than vãn không phải vì tiếc chiếc tàu chở vàng Tây Ban Nha thế là được bình yên vô sự, mà than tiếc người thuyền trưởng cừ khôi nhất đã từng vung thanh scimitar lên phụng sự Hồi giáo. Câu chuyện về hoàn cảnh đã khiến chàng bị bắt không bao giờ được kể rõ; không ai dám kể lại nó tường tận, vì không có ai tham gia vào sự kiện này sau đó lại không cảm thấy hổ thẹn về nó, cho dù hoàn toàn rõ ràng là chính Sakh el Bahr đã tự chuốc lấy số phận đó cho chàng. Nhưng ít nhất, người ta cũng hiểu rằng chàng không ngã xuống trong trận chiến, và từ đó có thể đoán ra là chàng vẫn còn sống. Từ sự suy đoán đó đã hình thành một thứ huyền thoại nói rằng chàng sẽ một ngày kia quay trở lại; và nửa thế kỷ sau, những tù binh được chuộc trở về đã kể lại rằng ở Algiers cho tới tận lúc đó, ngày trở về của Sakh el Bahr vẫn được tin tưởng trông chờ bởi tất cả các tín đồ Hồi giáo ngoan đạo.
Chim Ó Biển (The Seahawk)
P1 - Chương 1
P1 - Chương 2
P1 - Chương 3
P1 - Chương 4
P1 - Chương 5
P1 - Chương 6
P1 - Chương 7
P1 - Chương 8
P2 - Chương 1
P2 - Chương 2
P2 - Chương 3
P2 - Chương 4
P2 - Chương 5
P2 - Chương 6
P2 - Chương 7
P2 - Chương 8
P2 - Chương 9
P2 - Chương 10
P2 - Chương 11
P2 - Chương 12
P2 - Chương 13
P2- Chương 14
P2- Chương 15
P2- Chương 16
P2- Chương 17
P2- Chương 18
P2 -Chương 19
P2 -Chương 20
P2 - Chương 21
P2-Chương 22
P2- Chương 23
P2- Chương 24
P2 -Chương 25
P2 - Chương 26