- 242 - 244 -
Tác giả: Bồ Tùng Linh
Tôn Thái Bạch từng kể ông cố của ông đọc sách trong chùa Liễu Câu ở Nam Sơn, có lần tháng tư về nhà, hơn chục ngày mới trở lại. Mở cửa vào thì thấy bụi bặm đầy bàn, tơ nhện ngập song, bèn sai kẻ hầu quét dọn, đến tối mới xong. Kế dọn giường trải chiếu, gối đầu nằm bên song nhìn ra cửa sổ ngắm trăng. Trằn trọc một lúc thì đêm đã yên ắng, chợt có tiếng gió ào ào nổi lên, cổng chùa rít kèn kẹt. Đang nghĩ một mình rằng chắc sư trong chùa quên cài cổng, thì tiếng gió đã tới cạnh phòng ở, kế đó cửa phòng mở tung. Còn đang ngờ vực chưa biết là gì thì tiếng động đã vào tới phòng, lại có tiếng dép quèn quẹt tới sát phòng ngủ, bắt đầu thấy sợ thì cửa phòng ngủ mở ra. Vội nhìn ra, thì thấy có một con quỷ lớn khom lưng bước vào, tiến tới đứng sừng sũng ở đầu giường, cao ngang xà nhà, mặt vàng như trái dưa già, mắt sáng lóng lánh nhìn khắp bốn vách, há miệng to như cái chậu, răng chơm chởm dài khoảng ba tấc, liếm mép nuốt nước bọt ừng ục, tiếng rền cả phòng. Ông sợ quá, nhưng lại nghĩ nó chỉ đứng cách mình trong gang tấc, không còn cách chạy trốn nữa, chẳng bằng nhân lúc sơ hở mà đâm. Bèn ngầm rút thanh bội đao dưới gối ra chém hết sức trúng vào bụng nó, nghe leng keng như chém vào đá. Con quỷ cả giận, vươn móng vuốt vồ ông, ông co người lại tránh, quỷ vồ trúng cái chăn, giật lấy rồi căm tức bỏ đi. Ông bị kéo rơi xuống giường, nằm dưới đất la ầm lên, người hầu cầm đèn chạy tới thì thấy cửa phòng vẫn đóng như cũ. Trèo cửa sổ vào trông thấy cả sợ, bèn đỡ ông lên giường, ông mới kể lại chuyện. Mọi người cùng đi tìm kiếm thì thấy cái chăn vắt ở của phòng ngủ, đem ra cửa mở xem thì thấy vết móng to như cái rổ, năm dấu ngón tay xuyên suốt từ bên này qua bên kia. Trời sáng ông không dám ở lại nữa, cắp tráp về nhà, sau tới hỏi sư trong chùa, thì không thấy có gì khác lạ nữa.
243. Con Quái Trong Đống Lúa (Thu Trung Quái)
Ông họ An ở huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) chăm việc đồng áng, gặp vụ lúa thu chín, gặt để thành đống trên bờ ruộng. Lúc ấy ở thôn bên cạnh có kẻ đi trộm lúa, nên ông sai đầy tớ nhân đêm có trăng chở thóc về làng nộp thuế, đong đếm xong thì trở lại, còn tự mình ở lại canh giữ, gối đầu lên cái mác ngủ cạnh đống lúa. Vừa mới thiu thiu, chợt nghe có tiếng người đạp lên lúa sàn sạt đi tới, ngỡ là bọn trộm, vội ngóc đầu dậy nhìn thì thấy một con quỷ cao hơn một trượng, mặt mũi hung dữ tới sát bên cạnh. Ông phát hoảng không biết làm sao, bèn nhảy bật dậy đâm bừa, con quỷ kêu rống như sấm sét bỏ chạy. Ông sợ nó quay trở lại, vác cái mác chạy về, gặp đầy tớ dọc đường, thuật lại chuyện mới rồi bảo họ đừng ra ruộng nữa, song mọi người cũng chưa tin lắm.
Hôm sau đang phơi thóc, chợt nghe có tiếng gầm vang tới, ông hoảng sợ nói “Con quỷ tới rồi", rồi bỏ chạy, mọi người cũng chạy tán loạn. Một lúc sau mới dần dần tụ họp lại, ông sai mọi người mang cung nỏ để rình. Hôm sau quả nhiên con quỷ tới, mọỉ người cùng bắn tên ra, quỷ sợ chạy mất, hai ba ngày không tới nữa. Khi đưa hết lúa về kho xong, rơm rạ còn vứt bỏ ngổn ngang ngoài ruộng, ông sai đầy tớ đánh thành đống, tự mình trèo lên xem xét, đứng cao hơn mặt đất vài thước, chợt nhìn ra xa hoảng sợ kêu lên "Con quỷ tới rồi!". Mọi người đang vội vàng tìm cung nỏ thì con quỷ đã xông tới sát ông, ông ngã quay ra, nó bèn cắn vào mặt rồi bỏ đi. Mọi người trèo lên cây rơm xem, thì trên mặt ông mất một miếng xương to bằng bàn tay, hôn mê không biết gì nữa, cõng về tới nhà thì chết. Sau đó không thấy nó nữa, không biết đó là loại quỷ quái gì.
244. Chàng Sáu Vương
(Vương Lục Lang)
Họ Hứa ở phía bắc thành huyện Truy (tỉnh Sơn Đông) làm nghề đánh cá. Đêm nào cũng mang rượu tới bờ sông, uống rồi mới kéo lưới, uống rượu thì rót một chén xuống đất khấn "Ma da trên sông tới mà uống", cứ thế thành lệ. Người khác đánh cá có khi không được chút gì, chứ riêng Hứa thì đêm nào cũng được đầy giỏ. Một đêm vừa đem rượu ra uống một mình thì có một thiếu niên tới quanh quẩn cạnh đó. Hứa mời cùng uống, vui vẻ với nhau, trọn đêm chờ chẳng được con cá nào, Hứa rất thất vọng. Thiếu niên đứng dậy nói "Xin xuống dưới dòng xua cá lên cho ông", rồi nhẹ nhàng bước đi. Giây lát quay lại nói “Cá tới nhiều rồi đấy!” quả nhiên nghe tiếng cá đớp móng vang dưới sông, cất lưới lên thì được vài con dài cả thước. Hứa mừng quá, cám ơn định về, đưa cá biếu thì thiếu niên không nhận, nói "Nhiều phen được cho uống rượu ngon rồi, bấy nhiêu đâu đã đủ để báo đáp? Nếu như không ghét bỏ, xin cứ cho được uống rượu thế này thôi!". Hứa nói “Mới uống với nhau có một lần, sao lại nói là nhiều phen? Còn nếu chiếu cố tới nhau mãi, thì đó là điều ta rất muốn, chỉ thẹn không có gì để tỏ bày tình cảm thôi". Rồi hỏi họ tên, thiếu niên đáp “Ta họ Vương, không có tên tự, gặp nhau cứ gọi là chàng Sáu Vương được rồi", rồi từ biệt nhau.
Sáng ngày Hứa bán cá, mua rượu nhiều hơn, tối đến tới bờ sông đã thấy thiếu niên tới trước chờ đó. Lại cùng vui vẻ uống rượu với nhau, được vài chén, vội đứng dậy đi xua cá cho Hứa. Cứ thế được nữa năm, một hôm chợt nói với Hứa "Được quen biết nhau, tình thân còn hơn cả ruột thịt, nhưng sắp phải xa nhau rồi” lời lẽ rất ảo não. Hứa ngạc nhiên hỏi, thiếu niên định đáp lại thôi, mấy lần mới nói “Thân tình như hai người chúng ta, nói ra thì chắc ông không ngờ sợ chăng? Nay sắp chia tay, nói thật cũng chẳng hề gì, ta thật là ma đây. Lúc sống vốn hay rượu, say quá mà chết đuối, mấy năm làm ma ở đây rồi. Trước kia ông đánh cá được nhiều hơn người khác, đều là do ta xua cá vào để đền đáp cái ơn rót rượu xuống đất cho uống đấy. Ngày mai nghiệp căn đã hết, sẽ có người thay, ta sắp đi đầu thai, chỉ còn gặp nhau đêm nay, nên không khỏi bùi ngùi". Hứa thoạt nghe rất sợ, nhưng gần gũi đã lâu nên không khiếp hãi, lại vì thế mà thương cảm, rót rượu mời nói "Chàng Sáu uống chén này đi, đừng đau đớn nữa? Gặp nhau rồi lại chia tay, kể cũng đáng buồn, nhưng thoát khỏi nghiệp chướng chính là điều nên chúc mừng, buồn bã thì không phải lẽ”, bèn cùng nhau uống thật say. Hứa hỏi người thay là ai, đáp “Ông cứ chờ bên sông mà nhìn, trưa mai sẽ có người đàn bà qua sông chết đuối, là kẻ thay ta đấy!". Nghe gà trong làng đã gáy, hai người gạt lệ chia tay.
Hôm sau Hứa chờ bên sông để xem chuyện lạ. Quả thấy có người đàn bà bồng con tới, tới bờ sông thì khuỵu chân ngã xuống nước, đứa bé văng lên bờ, giơ tay quẫy chân khóc ầm lên. Người đàn bà trồi lên hụp xuống vài lần, chợt vùng vẫy bám được vào bờ trèo lên, nằm lăn ra đất thở dốc một lúc rồí trở dậy bồng con đi. Lúc người đàn bà rơi xuống sông, Hứa thấy bất nhẫn muốn nhảy xuống cứu, nhưng lại nghĩ đây là kẻ thay cho chàng Sáu được đi đầu thai, nên đứng lại không tới cứu nữa. Đến khi người đàn bà tự lên được bờ sông, Hứa ngờ rằng lời chàng Sáu nói không đúng. Tối đến ra đánh cá ở chỗ cũ, lại thấy thiếu niên tới, nói "Từ nay trở đi lại được gặp nhau, không nói chuyện chia tay nữa". Hứa hỏi tại sao, đáp “Người đàn bà ấy đúng là sắp phải thay ta, nhưng ta thương đứa bé còn đang tuổi phải bồng ẵm, bắt một người thay mà hại hai mạng sống nên tha cho chị ta. Người thay chẳng biết đến bao giờ mới có nữa, có khi cái duyên giữa hai người bọn ta chưa dứt chăng?”. Hứa cảm động than thở khen rằng "Tấm lòng nhân hậu thương người như thế có thể thấu tới Thượng đế", từ đó lại gặp gỡ nhau như trước.
Vài hôm sau thiếu niên lại tới từ biệt, Hứa nghĩ rằng chắc lại có kẻ thay. Thiếu niên nói “Không phải thế đâu, một ý niệm hôm trước quả làm cảm động lòng trời, nay đã trao cho ta chức thổ thần đất Ô Trấn huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông), sáng mai là ngày phải đi nhậm chức. Nếu ông không quên bạn cũ, xin tới thăm nhau một lần, đừng ngại xa xôi khó nhọc". Hứa chúc mừng nói “Ông ngay thẳng mà làm thần, quá đủ để an ủi lòng người, nhưng thần người khác nẻo, dẫu ta không ngại xa xôi khó nhọc, nhưng làm sao được gặp nhau?”. Thiếu niên đáp "Cứ tới đừng lo", dặn dò mấy lần rồi đi. Hứa về nhà, lập tức sắp xếp hành trang lên đường, vợ cười nói "Cách đây vài trăm dặm thì quả có một chỗ tên gọi như thế thật, có đều e rằng tượng đất không nói chuyện được với nhau thôi". Hứa không nghe, đi tới Chiêu Viễn, hỏi thăm người ở đó quả có đất Ô Trấn, bèn tìm tới đất ấy, vào nghỉ ở quán trọ, hỏi thăm đền thờ Thổ thần ở đâu. Chủ nhân kinh ngạc hỏi "Khách họ Hứa phải không?”. Hứa đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Lại hỏi “Khách ở huyện Truy phải không?", đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Chủ nhân không đáp, vội vã bước ra ngoài. Giây lát thì đàn ông bế con, đàn bà nép ở cửa chen chúc rần rần kéo tới đứng đông đặc phía ngoài.
Hứa ngạc nhiên, mọi người bèn nói "Mấy đêm trước thần báo mộng rằng có người bạn họ Hứa ở huyện Truy Xuyên sắp tới thăm, phải lo lắng giúp đỡ, bọn ta đã chờ lâu rồi". Hứa cũng lấy làm lạ lùng, bèn tới đền tế, khấn rằng “Sau khi chia tay ông, đêm ngày không quên nên lặn lội đường xa cho trọn lời hứa, lại được ơn báo mộng cho dân biết để tiếp đón, tình nghĩa xin ghi tạc trong lòng, song thẹn lễ vật đơn sơ, chỉ có chén rượu đục, nếu không ghét bỏ, xin như ngày còn uống rượu với nhau bên sông", khấn xong, đất giấy tiền vàng bạc. Lập tức có một cơn gió nổi lên trước bàn thờ vi vút hồi lâu mới tan. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy thiếu niên tới, áo mão rực rỡ khác hẳn ngày trước, cảm tạ nói “Đường xa vất vả tới thăm nhau, thật ta vừa mừng vừa tủi, nhưng hiện đã giữ chức mọn, không tiện hiện thân gặp mặt, gần trong gang tấc mà như cách trở núi sông, rất là đau lòng. Những cư dân ở đây có chút lễ mọn khoản tặng thay ta, lúc nào ông về, cũng xin sẽ theo tiễn".
Ở được vài hôm, Hứa muốn về, mọi người khẩn khoản lưu lại, sáng rước chiều mời, mọi người báo tin cho nhau, tranh nhau mang lễ vật tặng tiễn, chưa đầy bữa sáng vật tặng đã đầy túi, già trẻ đều tụ họp đưa ra tới ngoài thôn. Chợt có một con gió trốt nổi lên cuốn theo tới hơn mười dặm, Hứa vái dài nói !Xin chàng Sáu tự bảo trọng, đừng vất vả tiễn xa như thế. Lòng ông nhân ái vốn có thể tạo phúc cho dân một phương, cố nhân không phải dặn dò gì nữa". Trận gió còn cuốn quanh hồi lâu mới tan, dân làng cũng kinh ngạc than thở quay về. Hứa về tới nhà cũng hơi dư dật, không phải làm nghề đánh cá nữa. Về sau gặp người ở Chiêu Viễn, hỏi thăm thì được biết Thổ thần ở đó nổi tiếng linh thiêng. Cũng có người nói rằng đó là Thổ thần ở trang Thạch Khanh huyện Chương Khâu, chưa rõ thuyết nào là đúng.
Dị Sử thị nói: Thân trên đường mây xanh mà lòng không quên bạn nghèo hèn, nhờ thế mới được làm thần đấy. Ngày nay những kẻ quý hiển ngồi xe có mấy ai nhìn nhận bạn nghèo đâu! Quê ta có người tên Lâm Hạ, nhà rất nghèo nhưng có người bạn thuở nhỏ nhận chức quan béo bở, cho rằng tìm tới sẽ được giúp đỡ bèn hết sức kiếm tiền ăn đường, bôn ba ngàn dặm, nhưng người bạn đón tiếp khác hẳn với điều y mong muốn, phải vét túi bán ngựa mới về được tới nhà. Đám em họ hay đùa, nhại thiên Nguyệt lệnh trong Lễ ký đặt lời chọc ghẹo rằng "Đến tháng ấy, ca ca về, mũ lông điêu xơ xác, dù lọng không giương, ngựa cưỡi hóa thành lừa, giày bắt đầu há mõm", nghĩ cũng là một chuyện buồn cười.